Gió Bấc... Mưa Phùn..
Chia đến bây giờ chẳng hiểu vì sao trong tuổi thơ chiêm trũng và buồn bã của mình, tôi lại ghê sợ gió bấc mưa phùn đến vậy. Cứ gió bấc mưa phùn là làng tôi lại mất mùa. Cây lúa thong thả trổ hoa he hé, chờ nắng ấm để phơi màu, nhưng gặp gió bấc mưa phùn là phất cờ lau đứng sững. Vỏ mày từ xanh non chuyển sang màu tím than, để cuối cùng là lép kẹp. Bao nhiêu mồ hôi nước mắt bỏ ra, đi tong tong như mưa phùn gió bấc. Lên vụ mà nhà ai bồ lúa cũng trống hoang.
Mưa phùn gió bấc, lũ học trò nghèo làng tôi níu nhau như một bầy tang tình con xít, qua chiếc cầu khỉ một cây nhem nhép bùn, để đến trường. Mặt mũi đứa nào cũng tái mét, môi thâm tím như cỏ dại. Cái lạnh quất vào thịt da tê buốt như bị cây tầm ma cào. Không đứa nào trong đám bạn tôi mặc đủ ấm. Tất cả đều áo ngắn, quần cộc, với nhiều mụn vá chằng đục vào lớp, những khuôn mặt đói ăn kinh niên cứ lơ láo như người mất hồn. Ngày ấy, cô giáo làng tôi cũng nghèo, mà nghèo lắm. Cô gầy nhìn trò gầy, buồn ứa nước mắt.
Mưa phùn gió bấc, làng tôi...đói. Người già làng tôi uống nước suông ngồi bắt chân chữ ngũ hò giã gạo. Đám thanh niên bỏ làng kiếm ăn. Còn lũ trẻ bọn tôi bỏ học, đi moi khoai ở làng bên. Một chiếc bao cát nhỏ, một lưỡi hái cùi mòn, tôi cùng lũ bạn ra đi như một lũ bê con đến tối mịt mới về.
Tôi nhớ ngày ấy, vào những bữa ăn hiếm hoi có.... cơm. Mẹ thường chỉ nhìn tôi ăn. Ngoài ô cửa vẫn là mưa và gió bấc u u. San những hạt cơn dẻo thơm bám nhau trắng như bầy cò vào chiếc bát đất với đôi mắt nẫu buồn, mẹ tôi động viên: "ăn đi con cho chóng lớn mà đỡ đần mẹ". Tôi cười, để phô hai hàm răng sún vô tư.
Chỉ đến khi đã đủ lớn khôn. Đi xa, xa mãi khỏi ngôi làng xưa bé nhỏ. Rồi vấp ngã - đứng lên - rồi vấp ngã. Có đủ trong tay mật đắng và hoa hồng. Tôi mới hiểu cực lắm thay mùa gió bấc mưa phùn. Cực lắm thay miếng cơm trắng cánh cò ngày nào mẹ nhường cho.
Bây giờ đến bữa ăn, bưng bát cơm trắng phau phau, nhìn ê hề những thức ăn trên bàn, cổ họng tôi mặn đắng một niềm thương cảm.
Đâu đó mơ hồ như một vết thương lòng những đợt gió bấc mưa phùn lại cồn lên, tàn nhẫn thổi u u. Và tôi nghe trong mưa phùn gió bấc có tiếng thở dài não ruột của mẹ tôi ngày nào.
*
Màu của phố
Hằng ngày sống, hằng ngày đi qua, rồi có những ngày bâng khuâng, lặn lội khắp ngõ ngách lòng phố Nội thành, những phố ngắn, phố dài nhung nhớ, chợt hỏi vậy phố Huế có màu gì?
Trước hết, để cho chắc ăn cứ nói là Huế có màu xanh. Cố nhiên, Huế là một thành phố bốn mùa xanh mát bóng cây. Hàng trăm chủng loại cây từ sồi, lim, sến, chò chỉ, cừa, phượng đến long não, nhạc ngựa, bàng... giăng tay thành một tấm thảm mênh mông vắt qua vòm trời. Ngày đẹp trời đứng kẻ đỉnh Ngự Bình thấy màu xanh phố Huế miên man. Màu xanh ấy cứ xanh mãi cho đến lúc đèn trong phố kéo lên. Và màu xanh phai dần khi màn đêm buông xuống. Nhưng vào buổi sáng, phố Huế có màu trắng - màu của sương mù từ sông Hương và những dãy núi xa đổ về các khoảng trống, lấp đầy từng ngóc ngách nhỏ. Lối đi xuống bến sông, vào những con hẻm vắng, cũng đầy sương mù. Sương dày đặc có cảm giác có thể đưa tay vốc từng vốc lớn cho lên môi vị trong lành của buổi ban mai. Phố Huế lúc này mỏng mảnh như một tờ giấy Pơluya trắng huyền ảo. Người đi trên phố không thấy người, chỉ có giọng nói lao xao như tiếng nước sông Hương đập lép béo vào bờ cỏ. Những chiếc nón nữ sinh Huế nhuốm đầy sương mù. Dưới lòng nón lá là những gương mặt xinh xắn, mờ nhoà như ngắm qua một tấm kính dày bốc đầy hơi nước. Thành phố trắng ấy chợt xanh lại và hồng dần nét mặt khi ánh bình minh khoan thai lên ở phía đông...
Có những ngày hiếm hoi thành phố Huế vàng rực rỡ. Những ngày vàng ấy thường rơi vào cuối thu khi gió mùa đông bắc se lạnh còn rất yếu ớt, chưa đẩy nổi những đám mây trĩu nước từ phương Bắc vào Huế. Màu vàng thu ấy chạy dọc đôi bờ Hương Giang, rồi nhạt dần cho đến những chân núi xa. Rong sắc vàng thu rười rượi ấy, những viên gạch thành cổ bất chợt đỏ lên rừng rực như đôi má cũng nữ xưa thẹn thò ngày gặp minh quân. Bầu không gian màu cỏ ua úa vàng rợn trong lòng một nỗi yêu thương gì không rõ ràng. Ngưng đọng lấp lánh cả không gian, cho đến khi chiều xuống, màu vàng mơ ấy vẫn còn le lói dưới chân những rặng tre mồ côi mọc lặng lẽ bên bến sông.
Thành phố Huế còn có màu hồng phấn chỉ xuất hiện hiếm hoi và ngày trong tháng ba khi ngô đồng nở hoa. Phấn hoa ngô đồng bay xa, dát lên những ngôi nhà cổ một chút nụ phấn hồng. Có phải điều đó diễn ra như một hiện thực hay chỉ là cảm giác của tôi ngày một mình về dưới cội hoa, dõi theo cánh chim phượng hoàng mù tăm ở cuối chân mây. Cánh chim lớn mang theo màu hoa không thôi tàn phai, bỏ lại sau đường bay thành phố của tôi ngun ngút màu hồng phấn lả lơi. Và ấy cũng là ngày hoa đào rủ nhau về phố Huế, nói cười phôi pha suốt con đường cụ Đồ Chiểu thênh thang.
Nhưng có lẽ màu sắc đặc trưng nhất của phố Huế vẫn là sắc tím nguyên ủy. Người mệnh danh cho Huế cái tên "thành phố nhân loại tím" là thi sĩ Trần Dần. Ngày nọ ghé Huế, ông đã nhìn thấy nó vào buổi sáng, buổi trưa, buổi chiều và buổi tối. Ông ngắm say sưa sắc tím không hề hư hao dẫu qua bốn mùa. Sắc tím mà khi ngắm những mùa thu đi, Trịnh Công Sơn nâng đàn ghi ta hát nhè nhẹ "chiều tím loang vỉa hè". Còn Hoàng Phủ Ngọc Tường ngây thơ với cái giả thuyết huyền hồ nếu đặt một lọ mực không ngoài sông Hương, bạn sẽ có một lọ mực đầy màu tím... Chuyện ấy sẽ không bao giờ xảy ra, nhưng ai cũng tin rằng điều ấy là có thực, như sen hồ Tịnh, như những viên gạch cổ Nội thành và như tiếng chuông Thiên Mụ vốn làm cho màu tím Huế bất chợt tím hơn. Có thể thảnh thơi và tha hồ ngắm màu tím Huế nhuốm đầy những con phố xưa. Tím le lói từ ký ức tím ra. Tim tím buồn từ những nhuỵ hoa sầu đông tím vào. Và tím đến dại khờ, tân khổ là màu tím áo dài của em: tím quay quắt, tím buốt rứt, tím tê cóng khắc khoải niềm tương tư Trương Chi.
Và cứ như thể cô dâu trong ngày cưới, thành phố Huế đi qua bốn mùa rực rỡ the đoạn. Thay chiếc áo trắng của sương mù, nàng vận chiếc áo xanh lục y nữ trẻ trung, rồi choàng lên chiếc khăn san hồng phấn, đi đôi hài nhỏ màu nắng thu vàng và trên tay chiếc dù tím bềnh bồng như một áng mây xa