Cứ Vào Dịp Cuối Thu....
Mỗi năm ít nhất cũng vài ba lần lũ chúng tôi rủ nhau lên thăm mộ Thanh Tịnh. Ngày còn sinh viên thì đi bằng xe đạp mượn của bạn bè, còn bây giờ thì đi bằng xe máy, chỉ mất đâu chừng mười phút đồng hồ. Mộ Thanh Tịnh nằm trên ngọn đồi thấp trong Nghĩa trang liệt sĩ thành phố Huế, gần mộ thân mẫu của nhà thơ Nguyễn Kim Thành - Tố Hữu. Ngôi mộ cao ráo khang trang, dưới chân mộ thường không hiểu từ đâu có nhiều hoa huệ trắng. Lồng vào tấm bia là di ảnh nhà thơ lúc đã cao tuổi, với chiếc mũ trấn thủ muôn thuở đội hơi lệch và đôi mắt đôn hậu lấp lánh sau mục kỉnh. Suốt một đời ăn cơm tập thể, ngủ giường cá nhân, Thanh Tịnh là một nhân cách đặc sắc. Tôi còn nhớ như in vào cái ngày mưa gió của tuổi thơ, trước khi chia tay gia đình ba đã đọc cho chúng tôi nghe bài thơ "Rồi một hôm":
Rồi một hôm nếu cha về hỏi
Mẹ ở đâu con biết nói sao
Bài thơ xa xót như một "Binh xa hành" và tôi yêu Thanh Tịnh từ đó.
Lớn lên một chút biết viết biết đọc, tôi sưu tầm tất tật những gì liên quan đến Thanh Tịnh. Nhiều truyện ngắn của ông cũng buồn như là thơ ông vậy. Nhưng nghe bảo cái con người hay buồn đấy lúc nào cũng cười nói như không. Làm văn chương như chơi mà tài thì tài thật. Có cậu học trò nào mà không thuộc "Tôi đi học". Thuộc cái buổi sáng rất nhiều sương mù và gió lạnh ấy. Một khoảnh khắc rất nhỏ của tuổi thơ nhưng qua tấm lòng nhân hậu và cây bút tài hoa đã đọng lại rực rỡ trong ký ức bao người. Bởi khoảnh khắc ấy là cái rốn nhau nuôi nấng hài nhi, là đôi tao nôi ru hời giấc điệp mơ mòng ngày nhỏ, là....là cả sự hoài ơn, nghĩa sinh thành không thể tả bằng lời. Hồn nhiên như cây cỏ, nhưng có ai biết trong những đêm dài lang thang mưa cô đơn, Thanh Tịnh đã làm gì để đối mặt với chính mình. Đối mặt với "cổ mạch hàn phong cộng nhất nhân"?
Trên con đường nhỏ của làng Mỹ Lý xưa, ông đã từng theo mẹ đến trường làng. Để sau này trên con đường lớn của đời mình, ông chỉ có lẻ loi như con chim bằng bay bổng tuyệt mù.
Chúng tôi uống rượu làng Chuồn bên mộ Thanh Tịnh. Nghe bảo loại rượu tăm Huế nức tiếng này rất được Thanh Tịnh mộ từ khi còn là hướng dẫn viên du lịch.
Làm một cuộc đi dài ba mươi năm, bây chừ ông nằm đây, để nghe mỗi ngày từ phía sau đồi, tiếng trống trường làng tâng tâng vòm ngực trẻ. Chiều cơ hồ như đã xuống từ lâu lắm, chén rượu của đám hậu sinh kính cẩn hầu ông vẫn chưa vơi được mấy.
*
Thư Gửi Mẹ Ngày Lũ
Huế vừa lũ xong chưa kịp viết thư cho mẹ thì đã nghe Quãng Ngãi quê mình lũ lớn. Xem trên truyền hình chỉ thấy nước mênh mang. Nghe bảo đã có 22 người chết, chưa kể số mất tích. Nước lũ còn lớn hơn cả năm Thìn - năm mà mẹ sinh con. Mẹ kể năm đó con chào đời trên một chiếc bè chuối. Chung quanh nước gầm réo. Không có bà đỡ, mọi việc đều do ông ngoại làm thay. Rốn con được cắt bằng một mảnh chai vỡ. Ông ngoại cầm máu cho mẹ bằng một vốc muối hạt Sa Huỳnh. Muối mặn đã làm rốn con lành lại, nhưng vết cắt khô để lại di chứng làm rốn con nở sẹo và lồi suốt tuổi thơ. Sau trận lũ năm Thìn, con lớn lên mà không có cha. Mẹ vuốt nước mắt goá bụa, đi làm thuê để nuôi con. Nhà địa chủ rất ác ngày nào cũng đánh mẹ. Con nhớ lưng mẹ ngày ấy sọc dài roi mây roi song. Đêm đêm, con lại bóp muối vết thương cho mẹ. Cực lắm, mẹ bỏ làm thuê đi chạy chợ. Khi chợ Chùa khi chợ Trạm, chân mẹ đạp trên đường đá mà đi. Bát cơm con ăn ngày ấy có mồ hôi và nước mắt của mẹ.
Suốt tuổi thơ hồn nhiên con mặc cảm với chiếc rốn lồi dị dạng của mình. Mỗi lần hỏi, mẹ chỉ cười hiền và kể chuyện lũ năm Thìn. Nghe lời bạn bè lần đầu tiên tập bơi con đã cho chuồn chuồn cắn rốn. Buồn cười là khi thấy rốn con, con chuồn chuồn cồ đâm sợ. Thế là chuồn chuồn không cắn rốn mà con vẫn biết bơi. Mẹ bảo cha con bơi rất giỏi mà vẫn chết...
Xem trên ti vi thấy nước lũ sông Vệ, sông Trà chảy xiết, con sợ. Mẹ giờ đơn chiếc, bao năm nhà vẫn sơ sài ven đê. Ngày xưa còn có ông và cha, bây giờ chỉ còn mình mẹ, mà nước lũ thì thế này. Con ở xa, lòng dao đã cắt, bụng nóng như có ai đốt lửa. Suốt đêm nằm mắt chong lên trần nhà những nghe trong mưa ai như tiếng mẹ thở gấp. Mẹ ngồi lẩy bẩy với chiếc áo tơi trên nóc nhà. Vây quanh mẹ là nước lũ mịt mùng. Suốt mấy ngày lũ lớn ai cho mẹ ăn? Ai cho mẹ uống? Mẹ có đói không hở mẹ? Con nhớ nhà mình có chiếc thang tre nhỏ có từ thời ông ngoại. Nhưng không biết chiếc thang ấy có còn không, hay đã bị lũ cuốn trôi? Mà nếu còn liệu sức mẹ có leo nổi thang không? Mẹ sáu mươi rồi, sức đâu còn như ngày xưa nữa. Con đi xa giờ lũ vây quanh, ai giúp mẹ, mẹ ơi!
Mẹ kể buổi chiều sau khi sinh con, mẹ lên cơn đau vật vã. Cha lội nước băng đồng đi tìm thuốc cho mẹ. Cha đi mãi suốt đêm không thấy về. Ông ngoại ngồi ôm con trong tấm áo tơi mỏng. Trời mưa như trút nước, gió thổi bần bật từng cơn. Thỉnh thoảng ông ngoại lại hú lên một tiếng dài, hy vọng để trong đêm đen cha biết hướng mà về. Mẹ kể sau mỗi đợt hú dài vô vọng ấy, ông ngoại nhìn mẹ trân trân. Qua tia chớp trời, mẹ thấy mặt ông xanh xám, đôi mắt ngập nước. Sau lũ cha không bao giờ về nữa.
Nhớ cách đây mấy hôm, Huế lũ thêm một lần nữa. Con làm đầy tháng cho cháu mà lòng nhớ mẹ không nguôi. Ai cũng bảo cháu giống hệt bà nội. Con định lũ ở Huế rút, tàu thông đường sẽ vào đón mẹ ra thăm cháu. Mẹ chơi với cháu ít lâu cho ấm cửa vui nhà. Nhìn giọt máu của con, đứa cháu của mẹ nằm hạnh phúc trong chiếc nôi với nhiều quà tặng của bạn bè, bổng dưng hôm ấy cổ con uất nghẹn. Con nhớ chiếc áo tơi và cái nhìn trân trân của ông ngoại trong trận lũ năm nào. Trong ký ức sâu thẳm, con hình dung thấy cơn đau vật vã của mẹ, rồi bóng cha cao lớn lao xuống nước. Đêm đen cuốn lấy cha. Gió cứ đẩy cha ra xa dần. Cho đến khi con không nhìn thấy cha nữa.
Con viết thư gửi mẹ khi ngoài trời Huế vẫn mưa rất to. Bản tin cuối ngày của Đài truyền hình báo nước lũ ở Quãng Ngãi rút rất chậm. Vùng sâu Đức Thắng quê mình các đội cứu hộ chưa vào được. Con lo sợ. Con lo sợ thực sự. Mẹ ở trong lũ mà con thì xa mẹ quá. Bắt chước ông ngoại ngày nào con chợt hú lên đau đớn. Mẹ ơi tiếng hú của con liệu có đến tai mẹ hay không?