Chương 2
“Nghi thức” diễn ra trong tủ đối với tôi là vô cùng quan trọng, vì đến tận bây giờ tôi vẫn cho rằng đó là lần đầu tiên trong đời, tôi giao lưu với người khác giới, được người khác giới vuốt ve và ngược lại được vuốt ve người khác giới. Mà cũng là lần đầu tiên tôi đã động tình. Nếu bảo rằng đó là thời điểm bắt đầu “thời thanh xuân” của tôi, thì thật mang tiếng. Tài trí không hơn ai, thần đồng cũng chẳng phải, nhưng lại nhạy cảm quá nhanh, quá sớm với người khác giới, quả là xấu hổ. Nhưng có điều như đã kể ở trên, từ sau lần “nghi thức” ấy, “thời thanh xuân” của tôi đình trệ một thời gian dài, không chút tiến triển, giống như ngôi sao sa nhỏ bé, vừa sáng lên đã vụt tắt, rơi vào khoảng không chẳng ai biết là đâu. Và cũng từ lần tao ngộ đó, tình cảm của tôi hình như bị ức chế, còi cọc, đối với người khác giới không những không ham muốn, mà ngược lại còn thờ ơ, xa lánh. Thật là một thất bại nặng nề trong thời thơ ấu.
Cảm giác kỳ lạ từ trong tủ bước ra chẳng gìn giữ được lâu, dần dà mờ nhạt. Phải bốn, năm chục năm sau mới khôi phục trở lại và càng lúc càng mãnh liệt. Mãnh liệt tới mức cứ mỗi tối lên giường đi ngủ tôi lại chui vào tủ, hồi tưởng chuyện xưa một lần, cơ hồ trở thành bài luyện tập hàng ngày. Con người khi về già thường muốn lẩn tránh ở nơi yên tĩnh, đắm mình vào hồi ức, tưởng nhớ, nhặt lại những gì mà xưa kia đã đánh mất.
Ta sinh ra và không ngừng bôn tẩu, bỏ lại sau lưng mình vô số thời gian và sự sống, như dây chuyền đeo cổ sút dây rơi vương vãi dọc đường từng hạt từng hạt cảm thụ. Những hạt cảm thụ đó chỉ được phát hiện là ngọc sáng khi người ta đã về già. Đối với người già, thế giới hiện thực hầu như không thu hút mê hoặc họ bằng thời gian và sự sống của quá khứ. Họ quay ngược trở lại dòng đời và không ngừng nhặt lấy những hạt ngọc sáng một thời từng vương vãi. Lưng họ còng xuống có lẽ cũng vì thế và hồi ức trở thành niềm hưởng vọng tương lai...
Lần tiếp theo có thể gọi là “thời thanh xuân” của tôi đã xảy ra bảy năm sau đó. Bảy năm, thoạt nghe có vẻ là một quãng thời gian dài. Nhưng lần ấy tôi mới chỉ 13 tuổi, thế mà sớm gây nên nợ đời. Nhớ lại tuổi 13 là nhớ lại hình ảnh người bạn tốt đã xa. Anh là một nhà văn nổi tiếng kiêm biên kịch điện ảnh, chính anh khiến tôi giữ trọn ký ức với nàng một cách thủy chung. Giờ đây, lúc đang cầm bút viết ra bao điều hèn mọn của đời mình, tôi vẫn cảm thấy nàng vô cùng mỹ lệ. Gáy nàng, dưới bờ tóc, là một làn da trắng ngần, mãi mãi chói ngời và tôn quý như ánh sáng phát ra từ cặp ngà voi, càng về sau càng có giá trị như văn vật cổ xưa, khiến tôi yêu cuộc sống, khiến tôi không thể buông tay vứt bỏ thế giới này.
Sau khi kháng chiến chống Nhật thắng lợi, cả nhà chúng tôi hồi cư về quê cũ Nam Kinh. Ông nội tôi ở Nam Kinh có một đại hoa viên nổi tiếng, phỏng theo kiểu nhà vườn Tô Châu những năm 20, và tôi đã sinh ra tại một góc nào đó của đại hoa viên này. Thập niên 30, lúc tôi chào đời, lâu đài đình các trong khu vườn nhà nội đâu đâu cũng nghe tiếng các tao nhân mặc khách ngâm vịnh. Nội tôi có hằng hà sa số là sách, những cuốn thơ, từ viết tay, đóng xén tinh tế, đẹp như sách tự xuất bản thời nay. Kháng chiến chống Nhật bùng nổ, kho sách ấy đã cùng nội tôi và gia đình từ Nam Kinh chuyển đến Trùng Khánh, rồi bây giờ lại từ Trùng Khánh dọn về Nam Kinh. Tôi là con đầu cháu trưởng, nên nội rất dụng công chăm sóc, hướng dẫn tôi bước theo, nối nghiệp thi ca. Cụ thường nói “giấy rách phải giữ lấy lề” hệt như thầy giáo vỡ lòng của tôi từng dạy.
Trở về Nam Kinh tôi đã biết được hàng lô chữ Hán, một tập sách tựa đề “ Thù xướng ” luôn giữ kín trong căn phòng ẩm mốc, nay trở thành con thuyền đưa tôi vượt qua bao sóng gió của biển cả thơ, từ. Lần đầu tiên tôi kinh ngạc đê mê vì hiểu ra rằng những câu nói vần điệu hợp nên các áng thi ca. Thi ca khiến tôi thất vọng và cũng lại giúp tôi tràn đầy tự tin. Âu cũng giống như trò chơi, thách thức tôi hãy thử sức. Trong đám thi nhân có Đỗ Phủ và những người như thầy giáo tư thục của tôi thuở nhỏ, nhưng không thiếu những kẻ nhỏ nhen, đê tiện. “Thù xướng” đã hưởng ứng lời kêu gọi của chủ nhân mà tồn tại hàng mấy chục năm giữa bao bão tố trong giới tư tưởng, lý luận và văn nghệ Trung Hoa. Sống ở căn phòng ẩm mốc, tôi bị ô nhiễm bởi văn chương chữ nghĩa, nhưng lại thu về chiến quả: Sức miễn dịch tinh thần khá là mạnh mẽ. Vì thế, sau này dù có phải đứng trước bao xưng hiệu vĩ đại đến đâu, dù có phải nghe bao lời uyên thâm như kinh thánh, tôi vẫn cứ bình tĩnh, thản nhiên, không một chút cuồng si.
Tôi được đưa tới trường trung học của một nơi có tên gọi là Trù Thị Khẩu. Tên như vậy nhưng kỳ thực chỗ này chẳng thấy chợ búa gì cả, chỉ là cái gò đất nhỏ mọc đầy cỏ xanh. Ngôi trường uy nghiêm ngự trên đỉnh gò giống như con hổ xám phủ phục nhìn đám học trò đi lại dưới chân gò. Tòa kiến trúc này để lại cho tôi một ấn tượng khó phai mờ. Tôi đã từng ngã gãy chân khi cầm cái ô che mưa nắng, nhảy dù từ lầu ba xuống bãi cỏ lồi lõm. Đây có thể xem là biểu hiện “thời thanh xuân” của mình, vì hành vi anh hùng ấy chỉ nhằm mục đích thu hút sự chú ý của nàng, cô bạn học ngồi hàng ghế trước. Nhưng sau một tháng trời nằm bẹp ở nhà, khi tôi trở lại trường, nàng vẫn thờ ơ, không tỏ thái độ mừng vui vì sức khỏe của tôi vừa được bình phục, càng chẳng khâm phục trước chiến công oanh liệt, rằng bạn mình đã dũng cảm nhảy dù, bị thương, lui về hậu tuyến. Từ đấy tôi thề sẽ chẳng bao giờ diễn trò cho bọn con gái. Chúng là một lũ người theo chủ nghĩa hiện thực rất triệt để, chẳng hiểu, chẳng thèm thưởng thức những gì lãng mạn pha chút ngu si. Song nghĩ lại cũng chỉ tại một vùng da dẻ trắng ngần đằng sau gáy của nàng mà tôi dám bộc lộ sự mạo hiểm tinh thần, loại tinh thần chẳng những giúp tôi vượt qua bao cửa ải, lại còn theo tôi mãi tới già.
Nàng luôn phục trang màu đen và do đó vùng da kia càng trắng. Bước vào những năm 80 thời trang màu đen được khôi phục, trở thành một sắc màu giao lưu quốc tế, vì vậy mà khắp nơi đều như có hình ảnh nàng, cứ chấp chới trước mặt tôi. Tôi chưa một lần được chạm vào làn da trắng muốt của nàng, nhưng kỳ lạ thay tôi nhớ rất kỹ, nhớ như in hình dáng nàng, nhất là cái khu vực tam giác mê hồn. Vẻ đẹp đâu cần nhiều, giống như những lời cảnh báo, càng ngắn càng tỏ ra sắc bén. Mái tóc đen huyền chưa đủ, làn da trắng ngần vẫn còn thiếu, hóa ra cái đẹp ẩn chứa trong tóc, trong da. Một vẻ đẹp bỗng xuất hiện dưới cây bút người họa sĩ lúc anh ta đạt cảm hứng, một vẻ đẹp tự nhiên gặp gỡ chứ không hề mất công bỏ sức truy tìm. Chính nàng, người con gái ấy đã dạy tôi hãy từ phía sau mà tận hưởng nữ tính và tất cả những gì trên thế gian, nàng giúp tôi lý giải bài văn “Bối ảnh” một cách sâu sắc hơn các bạn đồng học. Và từ đó tôi thích thú tiếp cận với những hoạt động diễn biến bên trong, đằng sau sự vật, không nhẹ dạ cả tin trước cái mã bề ngoài, nói theo ngôn ngữ hiện đại ngày nay là ưa khám phá phát hiện bí mật. Tôi thường nghĩ mình có khả năng “nghe trộm” và theo lý thuyết “hai điểm” chắc là do “thời thanh xuân” thôi thúc mà thôi.
Suy ngẫm lại thì sự vật trên thế giới này đâu có nhiều lắm, thế mà còn lâu mới đạt tới mức độ bão hòa. Cái gọi là “vô số” của tất cả động thực vật đều mang một giá trị tuyệt đối rõ ràng, duy chỉ mỗi bí mật là bùng nổ khắp hoàn cầu, hợp thành “lỗ đen” của vũ trụ. Lấy ví dụ đối với vùng tam giác “bông tai, vòng cổ và quần áo” của nàng, tôi như kẻ mơ màng, si dại, mãi đến hôm nay, sau 50 năm, mới dám công bố cùng mọi người. Hồi ấy, đâu khoảng một học kỳ trước sự cố ngã gãy chân, động cơ thúc giục tôi tích cực đi học đơn giản chỉ là vùng tam giác trắng ngần, trắng tới mức hoa cả mắt ở gáy của nàng. Mẹ tôi ngạc nhiên vì bài vở của tôi không sót một tiết nào cả, gãy chân nằm ở nhà mà vẫn tơ tưởng tới chuyện học hành, luôn nhớ trường nhớ lớp. Thầy giáo cũng bảo là tôi rất chăm chỉ nghe giảng, thế nhưng trừ môn tập làm văn ra, tất cả đều dưới điểm trung bình. Tôi nghĩ phải chăng đó là lý do đầu tiên khiến tôi miễn cưỡng trở thành một nhà văn như hôm nay.
Cổ nàng với vòng kiềng lấp lánh đã kích thích dục vọng nơi tôi, thằng con trai 13 tuổi. Nhiều lần tôi đã định thò tay sờ mó cái vùng tam giác trắng ngần ấy. Nó như một phi trường, như một bến cảng có sức vẫy gọi mãnh liệt đối với tôi, một cánh bay vô định trên không, một mảnh thuyền chòng chành giữa biển. Không chỉ một lần nhảy dù từ tầng ba rơi xuống gãy chân, mà hôm nào cũng vậy, tôi đều hồn xiêu phách lạc, ngơ ngẩn ngóng trông phần gáy của nàng. Chuông reo hết giờ ra chơi, vào học tiếp tiết sau, tôi lẹ làng ngồi ngay ngắn ở vị trí của mình, chẳng phải chờ thầy. Không may hôm nào nàng nghỉ học thì thần trí của tôi như lìa khỏi xác, bay đi tận đâu đâu, 45 phút đi qua chẳng rõ đã học cái gì, trái tim tôi tựa hồ trống vắng bởi chỗ ngồi trước mặt tôi giờ đã hư không. Nhưng thời đó tôi không hề có cái cảm giác rạo rực kiểu như trong tủ ngày xưa, có lẽ là do da dẻ nàng trơn tru quá, không một tỳ vết, nó hoàn chỉnh, nó kết tinh chặt chẽ, trở thành khối đá hoa cương lạnh lẽo cách xa người trần đến hàng vạn dặm.
Bây giờ nhớ lại, có thể nói đấy là lần đầu tiên trong đời tôi đã lĩnh hội được mùi vị “ái mộ”, so với “động tình” nó được nâng lên một cấp, đạt tới cõi thơ, không liên can đến nhục cảm mà thuộc về phạm trù khác của nhân sinh. Vùng tam giác trắng ngần ẩn hiện dưới chân những sợi tóc huyền đen gợi cho tôi một cách lý giải hoàn toàn mới tứ thơ “ hương vụ vân mấn thấp ” của Đỗ Phủ và tôi tin rằng, so với thầy giáo tư thục khả kính và tao nhã ngày xưa, mình đã phần nào hiểu Đỗ Phủ sâu hơn. Cái vùng cổ nhô lên, hơi cong một tí nơi nàng lúc đậm lúc nhạt, khi trắng khi mờ như sương khói mông lung, hương thơm hòa quyện. Tôi đã nhận ra như thế, cho nên hai chữ “hương vụ” của họ Đỗ không như nhiều người giải thích là “mùi thơm” khứu giác mà phải hiểu rằng nhà thơ muốn chỉ một cõi mông lung thị giác tựa hồ như “sương khói” vậy. Tương tự chữ “thấp” ở đây cũng không nên hiểu là ẩm ướt bình thường, ý nghĩa sâu xa của nó là trạng thái trơn tru, mát lạnh, thoải mái của xúc giác. Cảm xúc tinh tế như vậy trước khóm tóc mai nơi người con gái hẳn chưa có ai sánh bằng Đỗ Phủ. Ngài quả là một đấng vĩ nhân trong lãnh vực tận hưởng vẻ đẹp nữ tính.
Thế là so với cái thời tôi và người chị láng giềng ôm nhau trong tủ kín, giờ đây tôi đã thành thục, chín chắn hơn nhiều.