← Quay lại trang sách

Chương 3

30 năm sau, tôi cùng một tốp nhà văn đến Nam Kinh lĩnh thưởng. Tối hôm ấy mọi người đàn đúm với nhau luận bàn nhiều chuyện, cuối cùng vẫn trở lại với đề tài tình yêu muôn thuở, nhưng hạn chế những câu chuyện về mối tình đầu. Đến lượt tôi phát biểu, nghĩ chẳng có gì hơn, tôi bèn rỉ rả nói đến cái cổ của nàng. Nhiều người mới nghe liền phản đối, thế mà cũng gọi là mối tình đầu, rõ chán, ông yêu cái cổ của nàng chứ đâu phải yêu nàng, thôi hãy liệt chuyện này vào mục “tình yêu với một gốc cổ hay một cây cổ”. Tôi phản ứng ngay, vì đơn vị từ “gốc” “cây” mà các bạn nhà văn vừa châm chọc, nó xúc phạm tới đối tượng thẩm mỹ duy nhất còn lưu giữ trong trái tim thời thơ ấu của tôi, và tự nhiên tôi đánh giá rất thấp phẩm hàm của các vị. Chả trách mà trước hai chữ “sáng tác”, “viết văn”, một lĩnh vực hoạt động tâm linh cao thượng, người ta thường thêm vào chữ “làm” giống như “làm kinh tế”, “làm chính trị”, thật vô cùng thô thiển. Nhưng về khuya gác tay lên trán, bình tĩnh suy nghĩ và nghiêm túc so sánh với đồng nghiệp thì thực lòng phải thú nhận rằng, trong “thời thanh xuân” sự tiếp xúc của tôi với người khác giới quá ư là ít ỏi, ít ỏi tới mức đáng thương. Nếu tôi cũng như mọi người quan hệ rộng rãi, phóng tầm nhìn xa thì lúc bấy giờ, ngoài cái vùng tam giác mê hồn kia, nhất định vẫn còn nhiều thứ hấp dẫn khác. Nhưng số phận đã an bài như vậy, tính cách tôi nghiêng về những tinh tế nhỏ nhoi mà người khác ít để mắt.

Một hạt giống nẩy mầm trên mảnh đất khô cằn, giả sử xung quanh đừng có loài cây nào mọc lên nữa, hẳn nó sẽ trở thành đại thụ sừng sững giữa đồi cao. Hoài niệm nhớ nhung vùng tam giác trắng ngần phía sau cổ nàng cũng như thế, là một đại thụ giữa trái tim tôi. Ánh sáng diệu kỳ ấy sau đó tôi chưa bao giờ gặp lại. Những thứ khác đều rất tầm thường không đủ độ khiến tôi phải nheo mắt, và như ông nội, tôi cũng đã “giấy rách phải giữ lấy lề”, dẫu bao năm tháng vào ra đội cải tạo mà vẫn không quên được nàng, người con gái có cái cổ tuyệt mỹ đã hớp hồn tôi. Đấy là một gốc cây nẩy mầm, mọc lên và đứng vững trên thửa ruộng cõi lòng tôi, nơi mà đất đai khô cằn và thiếu nguồn khác giới tưới nhuần. Lần này trở lại Nam Kinh, tôi mong muốn tìm về cây đại thụ đó.

Tôi vẫn nhớ địa chỉ nhà nàng, vì hơn 30 năm trước, vào một buổi tan học, tôi đã lẽo đẽo theo nàng, hoàn toàn không cố ý dò la mà bởi bím tóc dài đong đưa sau lưng nàng đã lôi cuốn tôi đi mãi. Tôi rơi vào trạng thái “ thân bất do kỷ ”, thân ta đâu còn là của ta nữa, mà một đấng thiêng liêng nào đó đang sai khiến ta. Về sau khôn lớn, trưởng thành, tôi không hề lẽo đẽo theo người đàn bà nào cả, tôi dám nói chắc chắn như thế, vì không ai có mái tóc mà mỗi sợi đã thành tiêu bản, thành “thanh ti”, thành tơ non trong thơ ca của người xưa giống như mái tóc của nàng.

Ngày thứ hai sau cái đêm tán chuyện mối tình đầu, tôi tách đoàn đi tìm lại cội nguồn, nhìn xem tòa đại hoa viên của ông nội giờ còn hay mất. Đoạn trước tôi đã nhắc đến một người bạn tốt, anh là nhà văn nổi tiếng kiêm biên kịch điện ảnh, có chân trong ban chấm giải lần này. Bạn tôi nhiệt tình phát động mấy người nữa cùng tham gia cuộc “về nguồn” của cá nhân tôi. Theo địa chỉ do tôi cung cấp, người lái xe dễ dàng đưa cả đoàn nhanh chóng tới nơi, nhưng nhà tôi nay đã biến thành xí nghiệp điện cơ. Cái cổng đại hoa viên xưa vẫn thế, có khác chăng là bây giờ treo một câu đối, vế bên phải biển hiệu xí nghiệp, vế bên trái biển hiệu công đoàn và các mảng tường rào thì loang lổ nhiều khẩu hiệu hồi “đại nhảy vọt” và “văn cách” đã ngả màu, chữ còn chữ mất, mấy thời kỳ lịch sử chồng lên nhau, đè nát bao bi hoan ly hợp của biết bao người. Vào bên trong, cây cối đều bị chặt hết, đại hoa viên bại hoại mà xí nghiệp cũng tiêu điều. Tôi đề nghị cuộc “về nguồn” xin chấm dứt tại đây, vì càng đi càng như tự đào huyệt chôn mình. Mọi người đồng ý và nói đùa, vậy bây giờ chúng ta phải đi tìm “gốc” cổ, “cây” cổ; một cái cổ tuyệt trần nơi người con gái từng làm say lòng ông bạn nhà văn đây.

Điều khiến tôi ngạc nhiên, không ngờ là cái chợ rau xưa vẫn giữ nguyên bộ mặt của 30 năm về trước, dòng nước bẩn như khe suối từ trong chợ chảy tràn ra mặt lộ rồi mới chịu đổ xuống cống rãnh ven đường. Bên trái cổng chợ vẫn là cửa hàng bán giá đậu. Như ngày nào, giá đậu ở đây nhiều vô kể, không biết đến bao giờ mới bán hết. Tôi bắt đầu gặp lại những cảnh trong mơ, những cọng giá trắng ngần, trắng đến chói mắt, càng làm tôi hồi hộp mong muốn nhìn thấy cái cổ của nàng. Tôi nói với anh bạn và cả đoàn nhà nàng ở chỗ này, gác gỗ phía trên cửa hàng giá đậu, ở cái gian cũ nát màu hồng. Tòa lầu còn giữ được vẻ phong tình thuở xưa, giống như một bức tranh màu nước, dù nay có tàn tạ bởi thời gian. Đã 30 năm rồi chứ ngắn ngủi gì cho cam, vẻ phong tình lại càng thêm sâu nặng. Khung cửa sổ hướng ra đường cái đã được một tấm ni lông che kín, người đi lại nếu có tò mò cũng chẳng nhìn thấy gì trên đó. Tôi kể cho các bạn, rằng mình đã nhiều lần đứng dưới này ngước nhìn lên khung cửa, nhưng hồi ấy chưa che tấm ni lông, ngoài bức màn ngăn cách đó ra, toàn bộ ngôi nhà không một chút đổi thay. Anh bạn bảo tôi hãy khoan lên vội, để anh ta làm nhiệm vụ dò la với cái cớ có một người bạn học cũ hơn 30 năm về trước muốn đến thăm bà, muốn hỏi bà có cho phép hay không.

Bạn tôi lên lầu chừng mười phút thì hộc tốc chạy xuống và giục mọi người đi thôi. Xe lăn bánh và anh ta mới kể, đúng là có một bà già tên Phương, tôi nhớ quả không sai, nhưng chẳng thấy đâu “vùng tam giác mỹ miều”. Anh nói, tôi chú ý nhiều nhất đến cái cổ của bà, vừa đen, vừa gầy và vài nếp nhăn chứa đầy cáu bẩn. Căn buồng đã chật lại còn ám khói lò than, mùi hôi nồng nặc, khó mà đứng lâu trên đó. Bà cụ đang bón cháo cho đứa cháu ngoại chưa được một tuổi. Bà ta tóc bạc phơ và rối bời, như chẳng hề gội chải, xem ra cuộc sống rất chật vật, chỉ dựa vào nguồn thu bán lại số trà thừa ngoài chợ. Tôi hỏi bà cụ có còn nhớ một người bạn học hồi trung học tên đó, trường đó hay không. Bà ngơ ngác chẳng hiểu tôi nói gì và tỏ ra khó chịu. Nghĩa là bao ấn tượng năm xưa về anh không đọng lại một chút trong đầu óc bà cụ, và bà cũng chẳng mấy hứng thú với những gì của xa xưa. Thôi, anh ta an ủi tôi, đành vậy, hãy cứ giữ lấy mộng đẹp của mình, đừng để hiện thực phá vỡ nó, cái tuổi của chúng ta chỉ có giấc mơ mới là quý báu nhất.

Trên đường trở về khách sạn, tất cả các nhà văn trên xe chẳng ai nói một lời. Nhà văn bây giờ mới thật giống nhà văn, mỗi người được tự do cảm khái, hưởng thụ. Mọi người cảm khái, hưởng thụ ra sao tôi không rõ, riêng tôi cứ nghĩ, thời gian đã mài mòn mất nàng và vùng tam giác trắng ngần nơi cổ nàng. Có lẽ những gì nàng một đời chịu đựng còn ngàn lần tàn khốc và cay đắng hơn tôi. Nghĩ đến đấy, đầu óc tôi nặng trĩu. Vừa rồi một cô bạn học cùng thời từ Mỹ về thăm. Cô ấy từng bôn tẩu ở Đài Loan, sau khi trở thành tay cự phú đã nhiều lần đi thẩm mỹ viện, nhuộm tóc, sửa mi, sửa mắt nhưng vẻ già nua không thể nào che đậy nổi. Già rồi nhưng cứ một mực ngụy trang. Sự giả dối ấy khiến người đời khó chịu.

Tôi vỗ mạnh vào đầu gối người bạn tốt và thốt lên hai chữ “cảm ơn”. Tôi hiểu thiện ý của anh, muốn tôi giữ lại một chút kỷ niệm đẹp. Anh bạn nắm chặt tay tôi như muốn nói, chúng ta là tri kỷ, há phải nhiều lời.