Chương 7
Tiếp sau đây là đoạn kể về người đàn bà ấy, chị xuất hiện và hai lần kích thích khiến “thời thanh xuân” của tôi trỗi dậy, quay cuồng, rồi tắt ngấm.
Nhưng có lẽ xin nói nốt chuyện bốn tiểu tướng, hai nam, hai nữ áp giải tôi ra ga lên tàu. Lúc bấy giờ nhà ga còn vắng hoe, tôi đi giữa bọn họ xuyên qua đường hầm âm u, ánh đèn mờ ảo, không một bóng người. Đến khoảng nửa đường hầm thì bỗng bốn tiểu tướng dừng lại, chẳng rõ chúng bàn bạc chuyện gì. Tôi vẫn đi vì không nghe lệnh lạc nào khác, chỉ mơ hồ cảm nhận có tiếng lào xào phía sau. Tôi cứ tưởng bọn họ tiểu tiện bởi vì năm ngày qua quá quen với loại âm thanh này, nào ngờ một thắt lưng da đầu gắn khuy đồng phang vào đùi tôi cái đốp làm tôi tê dại cả người.
Bị đột kích bất thần, “thời thanh xuân” của tôi bỗng dâng lên tức khắc, máu nóng trào sôi, toàn thân rậm rật, tôi lập tức quay lại và xông vào với sức mạnh của con beo, con sói quần thảo cùng lũ tiểu tướng Hồng vệ binh. Thắt lưng da thứ hai quật xuống định nhắm vào đầu tôi, nhưng nhanh như cắt tôi giơ tay tóm gọn, kéo ngã thằng kia lăn kềnh ngay dưới chân mình, thừa thế tôi hét lớn:
- Người anh em muốn chơi phải không, hãy cột cả bốn nhóc lại với nhau, tao chỉ cần một tay là bọn bay lật nhào. Không tin ư, cứ đợi đấy! Chúng mày biết tao là ai không, tao là phần tử chống phá cách mạng, kiên quyết chống phá cuộc cách mạng của chúng mày, vẫn chưa tin ư, nào, hãy thử sức, nhảy vào.
Bốn tiểu tướng thấy tay tôi cũng có thắt lưng da, động tác rất lão luyện mà thần sắc lại vô cùng hung dữ, nên lập tức co vòi, đồng thanh đọc kinh cầu hòa:
- Có ai đánh anh đâu, xin anh bớt giận, xin anh bình tĩnh, thật là sau ót anh mọc thêm con mắt. Thôi chúng ta đi tiếp, không đánh đấm gì nữa.
Tôi thực sự đau lòng vì “văn cách” đã luyện rèn, đã đào tạo nên lớp hậu thế non gan nhụt chí như thế, thua hiệp đầu là cụp đuôi luôn, mất vũ khí chỉ đứng nhìn không màng đoạt lại. Trong khi đối mặt cùng bọn chúng, tôi bắt gặp ánh mắt sắc tựa dao của một nữ tiểu tướng, khoảng mười tám đôi mươi với khuôn trăng thanh tú và vóc người rực rỡ xuân thì. Hình như cô bé thu nhận được sóng điện có cùng tần số “thời thanh xuân” nơi tôi vừa phát ra nên phần nào rạo rực, rồi cúi đầu, bẽn lẽn mân mê đuôi tóc tết dài xuống tận eo. Tôi quyết không tha cô bé “cừu non”, và cứ thế nhìn chằm chằm vào mắt, vào mặt “kẻ thù” mà phán, để phần nào giải thoát bớt sức “thanh xuân” đang vô cùng thừa thãi:
- Thôi được, ta đi việc ta - tôi hạ hỏa, xuống cấp “tao” thành “ta” - người anh em đi việc của mình và hãy nhớ ta đã từng một tay địch nổi tám quần chúng cách mạng. Sáng nay vội lên tàu, ta tha cho người anh em - nói đoạn tôi vứt thắt lưng da trả bọn chúng và hét như ra lệnh - Đi!
Tôi leo lên tàu một cách thản nhiên như chẳng có chuyện gì xảy ra, chọn một chỗ bên cửa sổ và an tọa thở phào nhẹ nhõm, nhưng ngoảnh lại thì thấy bốn tiểu tướng kia chia ra bốn chỗ và cũng ngồi ngay phía sau tôi, chúng nó đi đâu nhỉ, tôi tự hỏi. Đợi cho hành khách ngồi kín chỗ trong toa, thậm chí có người còn trèo lên và nằm trên dàn hành lý thì bỗng bốn tiểu tướng cùng đồng thanh hô vang một tiếng “bắt đầu”, cô bé có bộ mặt đẹp gái đứng hẳn trên ghế, tay giơ cao cuốn sách đỏ, rồi cất giọng thánh thót:
- Thưa các đồng chí hành khách, xin mọi người chú ý, bây giờ chúng ta bắt đầu học lời Mao Chủ tịch - cô bé mở sách đỏ và đọc như một con vẹt - “Phàm là bọn phản động, anh chị không đánh nó thì nó không chịu thua đâu, cũng như chúng ta quét nhà, chỗ nào chổi không quét tới thì bụi bặm rác rưởi vẫn cứ nằm im”. “Làm cách mạng không phải là mời tiệc, không phải là viết văn, không phải là vẽ tranh thêu hoa, không thể nhã nhặn, lịch sự, không thể ôn tồn, ung dung, không thể kính trên, nhường dưới... Cách mạng là bạo động, là giai cấp này lật đổ giai cấp kia một cách mạnh mẽ, quyết liệt”... Các đồng chí hành khách, các đồng chí có nhìn thấy thằng cha phản động, bất hảo này không? - Cô bé đứng sau tôi và dùng ngón tay trỏ trắng nõn, thon thả, búp măng dí lên đầu tôi mấy cái và nói tiếp. - Mọi người hãy nhìn bộ mặt nham hiểm của nó, nó là phần tử phản cách mạng hoạt động bí mật. Một mình nó đã đánh chết tám quần chúng cách mạng của chúng ta. Mấy ngày trước đây nó trốn về thủ đô hòng phá hoại “Đại cách mạng văn hóa” vĩ đại của chúng ta, may nhờ quần chúng cách mạng tóm được, nên nó chưa hành động gì cả. Hôm nay Hồng vệ binh tống nó lên tàu, giải về địa phương trừng phạt. Tôi đề nghị các đồng chí hành khách hãy nâng cao tinh thần cảnh giác, hãy canh chừng nó. Đó là quyền lợi của chúng ta. Hãy lau cho sáng mắt mà nhìn nó, không cho nó kéo bè kết mảng, âm mưu chống phá cách mạng, các đồng chí nghe rõ chưa?
Cô bé có bộ mặt thanh tú giỏi thật, mới đó mà đã sáng tác được chuyện giật gân. Cô ta nói đi nói lại vài lần và trọng tâm không quên xoay vào tình tiết “đánh chết tám quần chúng cách mạng”. Khi cô bé mở sách đỏ đọc lời Mao Chủ tịch thì hơn 200 “đồng chí hành khách” trong toa xe cứ rào rào như ong vỡ tổ, chẳng ai buồn nghe, nhưng tới đoạn “đánh chết tám quần chúng cách mạng” thì bỗng im bặt. Mọi người nhìn chằm chằm vào tôi để trông cho rõ bộ mặt hung thần của một tay phản động, rồi bàn tán xôn xao. Đám tiểu tướng đọc xong lời Mao Chủ tịch, vạch trần xong “tội ác” của tôi và liền hô khẩu hiệu “cách mạng tới cùng”, “Mao Chủ tịch muôn năm”, đoạn nhảy xuống sân ga, để lại bốn chỗ trống, khiến các “đồng chí hành khách” tranh giành, chửi nhau chí chóe.
Đoàn tàu lăn bánh và tôi trở thành chủ đề để mọi người “nhàn cư” thảo luận, giết thời gian ngồi không lắc lư. Bọn nhóc nói bậy, một mình đánh chết tám quần chúng cách mạng, sao cách mạng không đem ra xử bắn mà lại cho phép nó ngang nhiên đi lại. Nói bậy thế nào, nhóc đeo băng đỏ, là Hồng vệ binh, là tiểu tướng cách mạng, là đại diện của lãnh tụ, có vu oan giá họa cho ai bao giờ. Ông chẳng thấy thằng cha phản động ngồi im thin thít. Tốt nhất hãy tránh xa nó ra, nhìn kìa, mặt sắt da chì, trông mới dễ sợ làm sao, nó mà khùng lên thì khối người nộp mạng. Hay là báo cáo nhân viên toa xe, trói nó lại, phòng ngừa tai họa đổ lên đầu các “đồng chí hành khách”. Bốn ông bà tiểu tướng cách mạng thật chẳng có tinh thần trách nhiệm chút nào, không chịu giải quyết đây?
Người đàn bà ngồi cạnh tôi nghe hãi quá bèn đổi chỗ cho tay đàn ông đồng hành, anh ta run cầm cập, tránh tới nửa bàn mông, dọc đường chẳng quay mặt nhìn thẳng tôi. Tôi tức, tôi buồn và tôi cười một mình. Lũ nhóc thật nham hiểm. Chẳng rõ ai dạy chúng như vậy, đánh úp tôi không xong lại bày trò bôi nhọ, nói xấu. Vô lẽ tôi đứng dậy thanh minh, “không, thưa các đồng chí hành khách, tôi là nhà thơ”. Nhà thơ còn quá hơn phản động! Tôi cũng không thể hô hoán bọn nhóc nói bậy, chúng mặc quân phục màu xanh lá cây, chúng đeo băng đỏ, đó là phù hiệu của một loại quyền lực đặc biệt, hiện đang chiếm ưu thế tuyệt đối trên chính trường và bản thân tôi lại thuộc loại phạm nhân lao động cải tạo vừa được phóng thích, nghĩa là đáng tội lắm rồi, còn định già mồm gì nữa. Tôi bỏ ngoài tai tất cả và nghĩ nhiều về mẹ, giờ này chắc bà đã biết con mình vừa rời khỏi Bắc Kinh.
Sau này mỗi bận trở lại thủ đô, tôi bất giác nhớ tới bọn nhóc. Thời ấy chúng có mặt khắp nơi đầu đường xó chợ, cùng đám phụ nữ trinh sát tuần tra chân nhỏ và công an vây ráp bắt người. Giờ thì chúng đã lớn, cũng khoảng 40 tuổi cả rồi, đều trở thành lực lượng chủ công của xã hội. Chẳng rõ họ có cho rằng “xứng danh tuổi trẻ”, “không hổ thẹn với thanh xuân” và chẳng rõ họ có giống như tôi thường cảm nhận vầng dương “thời thanh xuân” là rực rỡ nhất. Những năm tháng cách mạng hồi đó rất có thể là thời kỳ đẹp đẽ nhất trong cuộc đời của họ, vừa đúng tuổi thanh xuân. Từ các trường trung học, họ được “Đại cách mạng văn hóa của giai cấp vô sản vĩ đại” kích lên, thổi bùng, rồi dương uy diễu võ, rồi tác oai tác quái, học cách hại người bằng mưu chìm, mưu nổi, học cách mặt chẳng biến sắc, lòng chẳng âu lo, đặt điều vu oan giá họa. Bản lĩnh cao cường nhất của họ là sử dụng những ngôn từ thời thượng để áp đảo, hãm hại nhân tâm. Xã hội chuyển sang thời kỳ mới, bọn chúng - lũ nhóc và đám đàn bà kia đành im hơi lặng tiếng. Có thật là bọn chúng đã tiêu tan trên thế giới này? Tôi thường suy ngẫm như vậy. Tất nhiên lúc bấy giờ tôi chưa nghĩ gì nhiều lắm, chỉ tiếc là đã gây bao phiền phức cho mẹ trong lần về thăm quê năm đó. Nhớ nhau từ xa đôi khi lại trở thành niềm an ủi, xáp mặt rồi lắm lúc quá bi thương. Tôi quyết tâm về tới nông trường sẽ xin cho được một căn nhà đất, rước mẹ lên nuôi vịt, nuôi gà. Tôi tin chắc rằng mẹ con tôi thực hiện được ước mơ nho nhỏ này.
Tuy bị bôi nhọ, sỉ nhục trước đám đông dân chúng, bị một cô bé dậy thì, hé nở “thời thanh xuân”, dùng ngón tay dí lên đầu làm cho điên đảo, nhưng suốt cả hành trình từ Bắc Kinh đến nông trường tôi không còn lo soát vé. Cũng may mà lúc bốn tiểu tướng nhảy khỏi tàu đã không quên vứt nó vào mặt tôi. Đó là những đồng tiền cắc bạc mẹ tôi phải chạy đôn chạy đáo cả năm ngày mới nộp đủ cho công an và tôi được thả tự do. Con tàu vẫn lắc lư lao về phía trước, càng lúc càng xa Bắc Kinh. Các “đồng chí hành khách” không bàn cãi gì nữa về nhân vật phản động “một mình đánh chết tám quần chúng cách mạng”, nhưng thỉnh thoảng cứ xem chừng tôi động tĩnh ra sao. Tôi cố nhắm mắt thiếp đi cho đỡ mệt mà không tài nào ngủ được, bụng cồn cào dữ dội vì từ mờ sáng tới giờ chưa có lấy một giọt nước nào rót vào trong đó. Mọi người đua nhau mua cơm hộp, ăn ngon lành, trong khi tôi vẫn ngồi bất động, chẳng còn nước miếng nữa để mà nuốt cho khỏi thèm. Tôi nhớ mẹ, buổi chia tay không được một lời chào, tôi nghĩ đến cảnh bị đánh, bị làm nhục, bị nghi ngờ và bây giờ bị bỏ đói mà tự than, sao nỗi khổ cứ dày vò tôi mãi, và còn dày vò tới tận lúc nào đây? Cứ cho là số phận thử thách khảo nghiệm ta thì ngần ấy chưa đủ, chưa là cực hạn hay sao? Đời định đúc rèn ta trở thành con người chân chính hay cố tình đùa giỡn, trêu ngươi, vò nát ta như một phế vật? Tôi muốn được là Chúa Giê-su trên cây thánh giá, ngẩng đầu nhìn trời, và kêu lên “Thượng đế, sao người nỡ bỏ con”.
Tôi ngồi lì, mắt thao láo nhìn ra ngoài ô cửa. Mọi cảnh vật vội vã lướt qua, chẳng rõ thế giới này gấp gáp đi về đâu. Chỉ mỗi con tàu là có mục đích, còn tôi thì tiền đồ mù mịt. Tôi có cảm giác một ngoại lực nào đó đang rút khô thân thể, toàn bộ sinh mệnh đã tách lìa khỏi xác, còn lại thị giác là cả thế giới mà thôi. Nhưng thế giới bỗng tối sầm mặt xuống, tôi thấy mình qua phản chiếu từ tấm kính ô cửa, xấu xí làm sao. Tôi quay đầu lẩn tránh và biết rằng một ngày vừa qua, màn đêm đã phủ. Ngay lúc ấy có cái gì đó chạm vào chân tôi, hóa ra ngồi đối diện với tôi là người phụ nữ đôi mắt tròn xoe. Đôi mắt như biển hồ lai láng, quyến rũ tôi hãy nhảy xuống và chỗ sâu thẳm nhất của lòng hồ mới là nơi lánh nạn, an nghỉ tuyệt hảo cho tôi. Đặc trưng đôi mắt của chị là không thuộc thế giới này, nó sáng như mắt mẹ tôi, nhưng lại quan hoài, thân thiết theo một kiểu khác. Chị nháy mắt ra hiệu, cổ vũ tôi hãy ăn đi và cứ thế nhìn tôi ngấu nghiến nhai từng mẩu bánh, càng lúc chị càng vui, càng lúc mắt chị càng sáng. Ánh mắt chị như bàn tay vuốt ve mân mê khiến cả đời tôi chưa hề có bữa ăn nào ngon lành, mãn nguyện đến thế. Sau này khắp thế gian tìm kiếm một bữa ăn tương tự nhưng chẳng bao giờ gặp, mới hay hạnh phúc chỉ đến một lần. Như vậy là đủ lắm rồi, nếu quá thừa thãi sẽ làm ta nhàm chán. Ăn xong chiếc bánh, tôi nhìn thấy chị cười, nụ cười vô cùng kỳ lạ khiến “thời thanh xuân” của tôi trỗi dậy. Tôi ăn bánh ngon lành, những động tác cắn nhai ngấu nghiến khiến người đàn ông ngồi bên cạnh thể hiện tinh thần cảnh giác cách mạng. Ông ta nhìn tôi một cách trực diện, lộ rõ bộ mặt chuột chù, dò la, xét nét, nhưng vẫn sợ “phần tử phản động một lúc đánh chết tám quần chúng cách mạng”. Tôi lườm hắn một cái để tự do quay sang nhìn chị, hàm ơn. Tôi xếp tờ giấy gói chiếc bánh phẳng phiu ngay ngắn, mân mê vuốt ve nó như với làn da người con gái. Chị xấu hổ cúi đầu, đợi tới lúc tôi thận trọng cất nó vào túi trên thì chị tươi cười và chỉ có tôi mới nhìn thấy chị nhè nhẹ nghiêng chào. Tôi bay lên, bay cao nhờ mẩu bánh của chị, nhờ nụ cười của chị. Tôi chửi bới thế giới này nhưng lại thiết tha ôm nó vào lòng, có lẽ là vừa có chị.
Chị xuống tàu trước tôi mấy ga và tôi nhớ mãi địa danh Ngũ Nguyên, nơi chị chia tay tôi bằng ánh mắt, nụ cười, rồi nhanh chóng mất hút giữa nhân sơn nhân hải. Ngũ Nguyên - sau này nhớ lại, gặp lại là trong tôi bỗng hiện lên hình ảnh chị, người đàn bà cứu sống tôi, đưa hồn tôi trở về với xác và mạnh mẽ hơn nữa, đã kích thích “thời thanh xuân” của tôi trỗi dậy, tự dưng ham muốn được “sinh hoạt” một lần. Tất cả những gì trên toa tàu đều là hư ảo, đều là tưởng tượng, chuyện “sinh hoạt” thực sự còn ở phía sau, đôi ba năm nữa, nhưng cũng chỉ được một nửa, thế mới thảm thương, tội nghiệp.
Tôi đã xin được một căn nhà, định bụng sẽ đưa mẹ tôi lên cùng sinh sống với nhau, nhưng cụ đột ngột qua đời. Tôi buồn chán, làm anh nông trường viên độc thân mà thiên hạ chế giễu “trên giường chẳng có người đàn bà nào chờ đợi”. Về mặt chính trị, quần chúng cách mạng đã xem tôi như người bình thường, nhưng xếp tôi vào lực lượng lao động đặc biệt, sống giản dị, làm giản dị, làm việc giỏi, tôn trọng kỷ luật và không bị phụ nữ quấy rầy, giao nhiệm vụ gì, hoàn thành nhiệm vụ đó, vì vậy mà nhanh chóng trở thành công cụ công cộng của mọi người. Tổ trưởng sản xuất của tôi là một quân nhân phục viên, tôi chưa hề thấy anh ta vác cuốc xẻng lên vai, chỉ kéo lê thê trên mặt đường, đi đến đâu là kêu “leng keng” tới đó. Bốn mùa xuân hạ thu đông chẳng bao giờ anh tổ trưởng của tôi cài khuy áo, cứ phanh ra như đôi cánh bay bay, vì thế dân nông trường đặt cho biệt hiệu “Chim sẻ”. “Chim sẻ” thích dùng ngôn ngữ chính trị để nói đùa, kể chuyện tiếu lâm, được cái đối đãi với mọi người rất trực tính, không vòng vo, ngụy tạo. Một hôm “Chim sẻ” bảo tôi, mình muốn đưa bà xã về làm việc chung một nhóm với cậu. Tôi hỏi vì sao, “Chim sẻ” chẳng hề giấu giếm mà rằng, để cậu làm bớt việc cho bà xã, tôi chửi thề, chỉ giỏi lợi dụng. “Chim sẻ” cười khì: - "Làm quan có quyền, không sử dụng thì quyền sẽ trở thành phế liệu. Tớ tuy là quan bé, nhưng vẫn có cái quyền nắm trong tay một công cụ như cậu".
Quả nhiên ít lâu sau, “Chim sẻ” ton hót với ông đội trưởng như thế nào đó mà ông ta điều động vợ “Chim sẻ” đến làm việc cùng một nhóm với tôi. Ngày ra đồng đầu tiên, “Chim sẻ” tuyên bố kể từ hôm nay vợ anh và tôi sẽ kết thành đôi “một giúp một”. Thời ấy đang thịnh hành những cách nói “đôi hồng một giúp một”, “triển khai tốt hoạt động trao đổi tâm tình”, “phải đấu tranh với tư hữu và chống chủ nghĩa xét lại”, cho lên “Chim sẻ” thuận mồm:
- Và nhân thể giám sát luôn “Lão hữu” - vừa dứt lời “Chim sẻ” vội vàng thanh minh - nói đùa cho vui, mong “Lão hữu” đừng để bụng, nào tất cả hãy bắt đầu làm việc.
Vợ “Chim sẻ” ngồi trên bờ ruộng nhoẻn miệng cười, mắng chồng “rõ vớ vẩn” rồi quay lại nhìn tôi. Chị chàng chưa tới 30, khuôn mặt đoan chính, đôi mắt to và sắc, khiến tôi nhớ tới người đàn bà cùng một toa tàu dạo ấy. Sau này mới biết chị cũng là người vùng Ngũ Nguyên, sinh ra ở cái nơi có tên gọi khá đặc biệt “Bạch Ngạn Hoa”. Chị còn kể cho tôi nghe, quê chị có nhiều gái đẹp “khuôn mặt bầu bầu, lông mày cong cong, lưng ong thắt thắt, cái bụng bằng bằng, bộ ngực ưởn ưởn, cặp mông vênh vênh”, nói tới bộ phận nào chị vuốt nhẹ lên bộ phận đó trên thân mình để minh họa một cách rất sinh động và hấp dẫn. Chị hoàn toàn phù hợp với các tiêu chuẩn nêu trên, nhất là ba khoản “thắt thắt, ưởn ưởn, vênh vênh”, sao mà giống như ba vòng đo tuyệt mỹ nơi hoa hậu ngày nay vậy. Tôi đã sang tận Paris ngắm nhìn bao người mẫu, nhiều cô đâu có “thắt, ưởn, vênh” như chị.
Cùng chung đôi “một giúp một” với chị, tôi mệt nhoài. Người ta khoán cho mỗi đôi đào 40 thước mương, một mình tôi còng lưng làm tất, chị chỉ đứng trên bờ lấy xẻng đập đập sửa sửa, rồi chống cuốc ngó đông, ngó tây, luôn mồm hỏi “mấy giờ rồi Lão hữu?”. Nhưng hễ nghe còi báo hiệu giải lao thì chị như chết đi sống lại và nằm dài ê a vài khúc “nhị nhân đài”, dân ca Ngũ Nguyên, mà ca từ tôi chẳng hiểu gì cả. Lần nọ tôi khen chị hát hay và hỏi ý nghĩa của lời ca, chị nói, chỉ để giải sầu, nghĩ sao hát vậy, theo làn điệu mà biên soạn ca từ chứ có ý tứ gì đâu. Tôi đồng ý làm hết việc cho cả đôi, còn chị có nhiệm vụ hát “nhị nhân đài”. Chị hào hứng: Thế thì tôi sẽ “giải sầu” ngay cho “Lão hữu”. Thế là chị ta cười và cất giọng:
Anh ơi làm cho giỏi,
Để em đứng nhìn anh,
Anh mà có buồn tình,
Sẵn em đây anh cứ.
Vứt hết cuốc hết xẻng,
Nhảy lên bờ với em.
Một tấm thân trắng ngần,
Anh thích đâu dòm đó.
Chị vừa hát vừa cười, tôi lắc đầu đáp lại: Chị khéo quá chị ơi, cứ đứng trên ấy mà nhìn, còn tôi chẳng dám nhảy lên dòm ngó gì hết. Chị cười như nắc nẻ và tiếp tục hát “giải sầu” cho tôi:
Tội gì mà không cười,
Tội gì mà không dòm,
Chỉ một tý xíu thôi,
Sao anh lại ngốc thế?
Chị có ba mặt con với “Chim sẻ”, công việc gia đình bao nhiêu thứ linh tinh níu chân níu tay chị, vì vậy sáng nào chị cũng đi làm trễ. Tôi đã hoàn thành được hơn nửa phần khoán cho cả đôi thì mới thấy bóng dáng chị. Được cái lúc ấy chị tỏ ra nhận lỗi đến chậm nên đã khiến tôi mát lòng mát dạ đúng như lời chị ca “anh ơi làm cho giỏi, để em đứng nhìn anh”. Tình thực thì chị là quần chúng cách mạng, còn tôi vẫn hữu phái chưa cởi mũ, về cấp bậc chị trên, tôi dưới, đi trễ thế, chứ còn trễ nữa tôi cũng không có quyền xét nét. Nhưng hôm ấy đôi chúng tôi được phân công dọn phân chuồng ngựa, mặt trời lên đến đỉnh đầu, công việc lại bề bộn chưa làm được bao nhiêu thì chị chàng mới vác xẻng dẫn xác tới. Tôi thực sự tức giận, càu nhàu: Chị nghỉ luôn hôm nay đi. Chị nhoẻn miệng cười, vuốt lên tấm lưng trần của tôi mà rằng:
- Lão hữu thông cảm cho em, ngày nào cũng vậy, “Chim sẻ” đều đòi “ấy” một cái vào buổi sáng thì mới dậy nổi, Lão hữu đang độc thân chưa biết, nếu có vợ thì cũng thế thôi. - Tôi đang nóng như lửa bỗng xẹp ngay, cười xòa, khen cho chị giỏi đối đáp và khéo vận dụng ngôn ngữ, trơn tru, rõ ràng. Tôi học cách nói dân dã của chị và hỏi lại:
- “Chim sẻ” đòi “ấy” chị, nhưng chị không cho hắn “ấy”, thì vẫn được chứ sao, lao động sản xuất để có công điểm và chuyện lăng nhăng ấy, cái nào quan trọng hơn?
- Thế là Lão hữu thực sự đã “hữu phái” cả trăm phần trăm rồi, không hiểu gì bên “phía tả” chúng em. Làm thân con gái đàn bà, phải phục vụ đàn ông mọi lúc mọi nơi, cho chồng và cho cả thủ trưởng... nữa cơ, Lão hữu ạ.
Bài giảng của chị khiến tôi lập tức nhớ tới ví dụ thực tế ở nông trường cải tạo, chả trách mà cô vợ “Kẻ hai mặt” chẳng xấu hổ, giữa thanh thiên bạch nhật, lại có người khác chứng kiến mà vẫn ngang nhiên ngã mình lên bao gai thô tháp, sẵn sàng cho chồng “sinh hoạt”.
- Mà cũng không thể chỉ trách mỗi “Chim sẻ”, - chị chàng bổ sung - đêm ngủ đẫy giấc, sáng ra nhiều lúc em thấy thích thích, nên đã chọc “Chim sẻ” “ấy” mình một cái. Kẻng đánh, vác cuốc đi làm, tươi tỉnh hẳn lên, những hôm đó lao động rất năng suất, kết quả công điểm lại cao. Chuyện lăng nhăng mà Lão hữu phê bình em đôi khi quan trọng đáo để. Nghe chị ta kể, tôi cười hết cỡ, suýt nữa ngã xuống đống phân ngựa. Lão hữu tôi phục bà chị lắm lắm! Phục em cái nỗi gì? Chân thành.
- Chân thành khai báo vì sao đi làm trễ, vì còn bận “phục vụ” “Chim sẻ” ca sáng ư?- Bỗng chị hạ giọng. - Mà sao Lão hữu cứ độc thân mãi, không tìm lấy cô gái nào đó như em chẳng hạn, chung sống với nhau có phải hay hơn không...
Tóm lại bất kỳ chuyện gì đã qua cách diễn đạt của chị đều dính dáng đến đề tài “tính dục”, ngôn ngữ trực diện hơn, chọc thẳng hơn so với thời trước “văn cách” khiến tôi những ngày nghỉ nằm một mình, bỗng dửng dưng nhớ tới chị, nhớ những câu chuyện chị kể “sinh hoạt” với “Chim sẻ” như thế nào và trong người cảm thấy nong nóng.
Mùa tiểu mạch chín rộ, chín rất nhanh, gặt không kịp, phơi phóng cũng khó khăn, ông đội trưởng phân công tôi, chị và một số người nữa làm cái việc rê hạt. Mỗi người cầm một thúng tiểu mạch, đứng đầu gió, giơ cao lên và đổ xuống từ từ, những cọng rơm, hạt lép, rác rưởi vì nhẹ nên bay xa hơn, hạt nào chắc, nặng ùn lại một đống, xem như “quạt sạch” đưa vào nhập kho. Đây là công việc tuy nhẹ nhàng, nhưng đòi hỏi kỹ thuật và nhất thiết phải tranh giành với gió. Những khi lặng gió thì tha hồ nằm dài giữa sân phơi, ngủ hay tán gẫu, nhưng không được chuồn khỏi vị trí công tác. Tôi và chị cùng tựa vào đống rơm chờ gió, trời xui đất khiến thế nào mà tôi đã liếc mắt nhìn trộm “bộ ngực ưởn ưởn” của chị, chị giả vờ không chú ý và càng trễ tràng hơn như muốn dâng hiến. Chị âu yếm hỏi:
- Lão hữu chưa từng lấy vợ hay sao?
- Hoàn cảnh không cho phép vì tù tội liên miên.
- Thế bây giờ Lão hữu có thích phụ nữ hay không?
- Lúc thích, lúc không.
- Em hỏi thật Lão hữu nhé, không kết hôn nhưng đã có lúc nào Lão hữu chạm vào phụ nữ hay chưa?
- Cũng không luôn.
Chị cười rũ rượi, đoạn lấy một cọng tre vẽ nguệch ngoạc xuống đất, vẫy tôi lại xem và hỏi:
- Đã chạm vào cái này chưa?
Tôi nheo mắt nhìn ngang nhìn dọc mà đoán không ra là cái gì, nó vừa giống quả đào chín mọng, lại giống con mắt nhắm nghiền, và càng như chữ “nhất” toe ra hai cánh, cuối cùng đành nói đại:
- Mắt con trâu mù thì chạm vào làm gì? - Thế là chị bò ra ôm bụng mà cười, cười tới mức bộ ngực ưởn ưởn rung rung, cười trào nước mắt - Anh ơi là anh, thế là còn trinh nguyên, thế là chưa biết gì cả, tội nghiệp quá Lão hữu ơi!
Tôi chẳng biết sự thể ra sao, thấy chị cười, cứ thế cười theo, mãi sau này lúc về già mới nghiệm thấy “thời thanh xuân” thật là đáng quý, mới cảm thụ được bức thư tình chị trao, “một quả đào chín mọng, một con mắt nhắm nghiền, một chữ nhất toe ra hai cánh” không phải, nó chỉ giống như thế, chứ không là như thế, mà vô cùng quý báu, có thương nhau, có yêu nhau mới đem ra dâng hiến. Ôi một bức thư tình độc nhất vô nhị, cổ kim đông tây tìm không thấy, người nhận nó phải khắc cốt ghi xương cho tới lúc qua đời.
- Lão hữu ơi, em lại hỏi thật anh, anh có muốn “ấy” phụ nữ hay không? - Tôi trả lời:
- Phỏng có ích gì, vừa mệt lại vừa nguy hiểm, chi bằng nằm đọc sách còn thú vị hơn, vả lại bây giờ có người đàn bà nào chờ tôi đâu mà nói tới chuyện “ấy” hay không “ấy”.
Tôi bỗng thấy mặt chị biến sắc, tất cả những gì nghịch ngợm, chọc đùa, thô lỗ đều biến mất, chỉ còn lại một vẻ yêu kiều, âu yếm, cảm thông, pha chút thương hại, chị nói trong hơi thở gấp gáp lạ thường:
- Lão hữu ơi, anh có muốn không, để cho hiểu mùi đời thì em xin được lấy thân mình dâng hiến, anh sẽ được chạm vào cái mà em vừa vẽ kia kìa, kẻo tội nghiệp quá...
Tôi cứ nghĩ chị ta nói đùa như mọi ngày cho đỡ mệt, bèn trả lời:
- Cám ơn em đã có tấm lòng quý báu, nhưng anh chưa đủ gan dạ để mà tận hưởng, “Chim sẻ” biết được thì chẳng phải chuyện chơi. - Chị cười và e thẹn nói:
- Không hề gì, ngày mai “Chim sẻ” đi thành phố mua thuốc trừ sâu, tối không về, đêm mai anh trốn đến với em, em để cửa và nằm chờ anh đó - chị cúi mặt xấu hổ, và càng cuối câu càng nhỏ lại cho tới im bặt.
Ngày thứ hai “đôi hồng” chúng tôi lại gặp nhau trên sân phơi thóc, nhưng không như mọi lần nói năng thoải mái, cả hai cứ lấm lét trộm nhìn. Hai chúng tôi im lặng làm việc cật lực một ngày và quả nhiên lúc sắp tan tầm thu quân thì thấy “Chim sẻ” oai phong ngồi trên máy kéo dẫn đoàn người đi thành phố công tác. Chị nói không sai chút nào, đêm nay “Chim sẻ” vắng nhà và Lão hữu ơi, sẽ có một người phụ nữ đợi anh. Chị đưa mắt nhìn tôi như có ý cổ vũ, động viên, tôi gật đầu và nhìn lên ngực chị, bỗng thấy trong người “thời thanh xuân” trỗi dậy. Tôi chờ cho trăng lên, chờ cho xóm làng yên ắng và đúng như thằng ăn trộm lò dò đến nhà “Chim sẻ”, đưa tay gõ nhẹ, mới cái thứ nhất thì cánh cửa đã “kẹt” một tiếng và mở toang, chị liền mắng tôi:
- Đi “ấy” vợ người ta mà còn lịch sự gõ cửa, lấy cái xẻng chống chặt, rồi mau lại đây.
Chị nằm chung với ba đứa con trên cái “khang” đất, một loại giường phổ biến của dân phương Bắc, phía dưới đốt củi sưởi ấm, rộng gần cả gian nhà, ban ngày làm bàn ăn, bàn tiếp khách, ban đêm lau sạch trải chăn và lăn ra ngủ. Chị kéo tôi vào vị trí “Chim sẻ” vẫn ngự mỗi ngày. Trên người chị không còn một mụn vải, hình như chị đã khỏa thân như thế chờ tôi. Chị giục tôi vào chăn cho ấm, tôi ngoan ngoãn làm theo và mới hay “thanh xuân” bất diệt, những gì ưởn ưởn, bằng bằng, thắt thắt, vênh vênh giờ đây nhờ xúc giác mà sung sướng đến mê hồn. Khi gần tới cao trào, có thể do tôi mạnh mẽ quá nên tấm chăn động đậy làm cho đứa nhỏ nhất nằm cạnh chị mớ ngủ, khóc thét, kêu cha. Chị bình tĩnh, một tay ôm lấy lưng tôi vuốt ve kích thích giữ đà, còn tay kia vỗ nhẹ vào mông thằng bé và cất cao lời ru xanh rờn:
À ơi, con ơi con ngủ cho muồi,
Để mẹ với chú đang còn... chung vui...
Kết quả là thằng bé ngủ tiếp, còn tôi không nhịn được cười đã ha ha thành tiếng, chắc lũ nhỏ tưởng cha chúng nó thật, chứ không phải tên ăn trộm, đang ăn trộm một thứ quý giá nhất của mẹ chúng. Nhưng kỳ lạ thay sau tiếng cười tôi bỗng mềm như bún, cố gắng mấy cũng không khôi phục nổi, và trong người cảm thấy khó chịu vô cùng. Biết thế này đừng “sinh hoạt” mà lại hay.
Tôi tụt xuống, lóp ngóp bò dậy ngồi thừ ở đầu “khang”, một lát sau chị cũng dậy, hai tay ôm chặt cả người tôi, sao mà giống cái hồi lên sáu đến thế. Trong màn đen như mực, một người thiếu nữ đã bao bọc cả đời tôi, khiến tôi “thanh xuân”. Có khác chăng là giờ đây “bộ ngực ưởn ưởn” trần trơn đang áp sát lưng tôi và “khuôn mặt bầu bầu” dán chặt nơi cổ tôi. Chị thỏ thẻ: Đừng buồn nghe anh. Rõ khỉ, ước gì thời gian quay ngược, tôi xin được giảm đi mười tuổi thọ để cảm thụ lần nữa cái lần “thanh xuân” oái oăm đó. Tôi sẽ xác tín, chứng minh một điều bí ẩn nơi chị, và biết đâu nhờ đấy mà đạt tới “thanh xuân” tột cùng.
Tôi vội vàng mặc lại quần áo và vội vàng chia tay với chị. Chị vẫn cứ ôm chặt lấy tôi, rồi nói một câu và với tôi nó như là ngạn ngữ, nhớ tới nó tôi không bao giờ chịu thua, nhụt chí, nửa chừng. Cám ơn chị, người thiếu phụ Bạch Ngạn Hoa, chị như sinh vật ngoài hành tinh đến với tôi giữa lúc “thanh xuân” muộn màng, thui chột và biến tướng, nhưng lại giúp tôi sang trang, mở ra một “thời thanh xuân” khác. “Anh ơi, sau này đừng có bao giờ khiếp sợ trước mỗi lần vào cuộc”, cô gái Bạch Ngạn Hoa thay đổi hình dạng, lời em nói cứ như các nhà hiền triết. Không, em vẫn thế và tôi thầm kêu: Bạch Ngạn Hoa, Bạch Ngạn Hoa.
Trương Hiền Lượng