Chương 6
Đến bây giờ một nỗi buồn thương thường trỗi dậy trong tôi giống như luồng khí huyết nóng bừng từng dâng lên, chực tuôn trào mỗi lần rạo rực “thời thanh xuân”. Có lẽ đây là triệu chứng lão suy nơi tôi. Vì ngày xưa tôi chưa hề thương ai và cũng chẳng buồn cho ai, còn hôm nay tuy buồn thương như vậy, nhưng rất vẩn vơ, không rõ bởi người nào, việc gì và bây giờ phải thổ lộ giãi bày cùng ai cho khuây khỏa. Tôi chỉ có cách ngước nhìn lên trời cao mà thở dài não nuột. Một chứng bệnh lạ phát sinh, ấy là lúc nào, ở đâu, thấy gì, làm gì... tôi đều buột miệng than vãn. Xem báo, đọc sách, thấy cao ốc đại lầu dựng lên, nhìn cầu kiều cũ xưa sập xuống, nghe chuyện hay, ngóng chuyện dở, được biểu dương, bị công kích, lúc thành công, khi thất bại... tất tất một lời than, thậm chí khi nhàn hạ dạo bước cũng than, than cho đến lúc không còn sự việc gì nữa để mà than và tương tự, rên cho tới khi chẳng đau ốm gì nữa để mà rên. Tôi nghĩ, chắc lúc lâm chung có lẽ sẽ không nói nổi một câu hoàn chỉnh, và cũng giống như “Kẻ hai mặt” sau lần “sinh hoạt vợ chồng” chỉ phát ra tiếng thở dài quyện vào hai âm tiết “xong rồi” mà thôi.
Tôi không than thân mà cũng chẳng trách người, tôi chỉ biết cám ơn số phận đã yêu thương tôi hết mực, cho tôi gặp người này, bảo tôi một việc nọ và luôn cầm một quả quýt vàng rộm múa trước mặt tôi, hình như vừa muốn tôi thấy rõ lại vừa muốn tôi nhìn nó một cách mơ hồ; lúc kéo tôi xuống, khi vứt tôi lên, và kết cục tôi đã sống một đời giữa tối và sáng, giữa tường minh và hắc ám, giữa minh bạch và hồ đồ, giữa rất rõ và rất mờ, khiến tôi mơ màng trong nhân tình thế thái, lúc tôi tự cho mình là giác ngộ thì lại ngộ ra mình vẫn còn u mê. Sau khi tôi học thư pháp, đã có người đến xin chữ, tôi hỏi, anh thích chữ gì, người ấy bảo “nan đắc hồ đồ” của Trịnh Bản Kiều, hình như anh ta sinh bất phùng thời, có tài mà lận đận, dư thừa bao điều “minh bạch” nay muốn tìm những gì “mơ màng hiếm có”. Tôi cười to và nói rằng, này anh bạn, tôi và anh chưa hề có một lần minh bạch, rõ ràng, kể cả Trịnh Bản Kiều cũng vậy, suốt đời trong u u minh minh, sáng chẳng ra sáng, tối không ra tối, ngay bốn chữ “nan đắc hồ đồ” của Trịnh vẫn không biết giảng từ đâu và như thế nào. Tôi múa bút vung cho anh bức thư họa “nan đắc minh bạch”. Nghe nói anh ta mang nó về nhưng không treo, bởi vì quá nhiều người cho mình là thông minh, điều họ biết là toàn thế giới, tuy nhiên cũng không ít người cơ bản chẳng cần mò tận tới căn nguyên, hồ đồ cả một đời mà rồi minh bạch cũng một đời. Có điều không minh không bạch lại dễ sống hơn, “làm” cho thật rõ ràng ấy là một nỗi khổ, hạnh phúc chỉ có được khi chúng ta ở giữa hai cõi minh bạch và hồ đồ. Mãi tới già tôi mới biết số phận đã thi ân cho mình, và xin cám ơn người bằng những lời than.
Như đã kể ở trên, tôi và đám “đầu trâu mặt ngựa” đều bị đội chuyên chính quần chúng cách mạng quản chế, mỗi ngày cùng đi lao động với họ tôi tự nhiên tỏ ra đồng tình, thương xót. Tôi không biết ngày xưa lúc đang làm cán bộ, họ đã phạm sai lầm gì, cũng chưa thấy họ chỉ tay năm ngón, đứng trên đầu thiên hạ hay áp bức quần chúng ra sao, chỉ thấy hôm nay họ phải cúi đầu, khom lưng, quỳ gối trước những người đứng đầu, lãnh đạo nông trường, thậm chí kể cả tôi, cuộc sống cơ cực hơn phạm nhân lao động cải tạo nhiều lần. Phạm nhân như chúng tôi sau giờ phu phen, thu quân trở về ấp trại còn có một mảnh trời riêng mà nấu, nướng, chưng, chiên những động thực vật hoang dã hái bắt ngoài đồng rồi xé ra, rồi ngấu nghiến một cách ngon lành. Lũ phạm ấy căn bản chẳng cần nghĩ về quá khứ hay nghĩ đến tương lai, nếu thi thoảng có nhớ nhà là nhớ người thân sẽ mang tới cho chúng cái ăn. Còn ở đây, những con “hổ sống”, những tên “đầu trâu mặt ngựa” thì ngược lại phải kiểm thảo quá khứ, báo cáo hiện tại và đảm bảo tương lai, phải viết các tài liệu phát giác để ứng phó với người quản giáo, hình như cả một đời đều chất đống nơi đây, ngay đến lúc đi vào giấc ngủ cũng mang một khuôn mặt khổ đau.
Quần chúng cách mạng không chút tình người đối với bầy “hổ sống”, nghĩ ra bao thủ đoạn độc ác để dày vò họ, nửa đêm hứng lên lôi họ ra đánh cho sứt đầu mẻ trán, sống dở chết dở, thật là thảm thương. Gặp những trường hợp như vậy, tôi thường liên tưởng đến một cuốn tiểu thuyết cách mạng đã từng đọc, miêu tả tình cảnh các chiến sĩ cách mạng trong chế độ cũ phải ngồi tù ra sao, có cái gì đó giống với bây giờ. Tôi không tham gia “văn cách” nên tất nhiên không hiểu được những đạo lý cao siêu của nó, tôi cũng không có thời gian để nghiền ngẫm các bài viết của lãnh tụ “văn cách”, nhưng cứ theo tình cảm của mình thì tôi có khuynh hướng nghiêng về tầng lớp cán bộ bị đấu tố, bị hành hạ, mãi cho tới khi câu chuyện dưới đây mà tôi sẽ kể đã xảy ra.
Bốn mùa lần lượt lướt qua, ngày tháng tự nhiên trôi chảy, chẳng hề khiến tôi đau đớn hay khó chịu. Ngược lại nhiều năm sau tôi lại rất nhớ, muốn quay về với cái thời bị đội chuyên chính quần chúng cách mạng quản chế, và cái thời phải đi lao động cải tạo. Chúng thường tái hiện trong giấc mơ. Tôi mơ thấy mình bị bắt mà không chút sợ hãi, ngược lại rất hân hoan như “thời thanh xuân” tái tạo, tựa hồ tôi sinh ra là để đối mặt với thách thức. Tôi đã có thể lý giải vì sao hàng chục triệu thanh niên trí thức năm ấy phải lên rừng xuống biển về nông thôn, đến những nơi không đáng phải đến để chịu khổ chịu nạn, thế mà bây giờ hồi tưởng lại họ vẫn cất cao lời ca “xứng danh tuổi trẻ”. Tôi và những thanh niên trí thức già nua kia có chung một cảm thụ, chúng tôi hoài niệm thanh xuân của cái “thời thanh xuân”, thanh xuân dù quẳng đến đâu, dù đặt ở chỗ nào cũng là một khoảng thời gian rực rỡ nhất trong đời. Dẫu “thời thanh xuân” của chúng ta không ra gì, nhưng bước vào tuổi trung niên và nhất là khi đã suy lão, nó lại xứng danh, quý báu vô cùng. Có lẽ đó là một nguyên nhân khiến nhiều người dám nai lưng gánh vác tội ác của quá khứ, thậm chí còn tô hồng cho nó. Thử hỏi có ai dám thừa nhận mình đã hao phí tuổi xuân vì sự việc nào đó mà hoàn toàn vô vị.
Thật vậy, vầng dương mà “thời thanh xuân” ta từng nhìn thấy cũng khác hẳn với bây giờ. Một lần tôi đi du lịch bên Mỹ tới bang Indiana thăm khu bảo lưu của người da đỏ. Trên xa lộ bỗng òa lên một tiếng, vòng tròn tịch dương khổng lồ tím hồng rơi xuống đẹp tới mức tôi không thể nào tả xiết, mãi sau mới nghĩ ra, vì nó giống những buổi chiều tà giữa mênh mông nông trường năm xưa, thời còn cải tạo. Số phận an bài và cái “thời thanh xuân” của mình chỉ cho tôi gặp được những cảnh tượng, thời khắc như vậy, không còn cách chọn lựa nào khác, vì thế lúc về già, cảm thụ của tôi với cuộc sống hầu như dựa trên các thể nghiệm thu được khi hãy còn trai trẻ.
Hồi đó đọc trang nào nhớ kỹ trang ấy, còn bây giờ một hai câu ngắn cũng quên ngay. Tuổi già dễ dàng khô cứng, vỏ não suy yếu, không đủ sức dung nạp cái mới, chúng tôi chỉ còn là một giá thể chứa đựng những gì của truyền thống mà thôi. Hôm nay bảo tôi thuật lại việc hôm qua đã làm, có khi ấm ớ, nhớ không ra, nhưng lại đủ khả năng thao thao bất tuyệt bao chuyện tào lao của ba, bốn chục năm về trước.
Bây giờ là mùa đông, việc đồng áng của nông dân ở miền Bắc không nhiều, vì vậy mà người ta thường gọi là “đồng nhàn”. Nhưng quần chúng cách mạng không đành lòng để bầy “hổ sống” và lũ “đầu trâu mặt ngựa” cũng thong thả, rảnh rang như họ. Chưa có nơi nào trên thế giới lại chủ trương thuần phục bằng lao động, lại cho rằng không ngừng cưỡng bức lao động mới có thể biến kẻ xấu thành người tốt. Công việc ngoài đồng thì ít nhưng ở khu dân cư vẫn nhiều và không bao giờ làm hết. Những người cầm đầu và lãnh đạo nông trường bắt đầu chỉnh kế hoạch lao động cho đám “đầu trâu mặt ngựa”, còn hạ lệnh cho họ phải viết “lời hứa cuối năm”, chủ đề cũng cứ là “phục tùng, phục tùng mãi”, cũng cứ là chịu sự quản chế và giám sát của quần chúng cách mạng. Phần tử “đầu trâu mặt ngựa” nào nặng tội cũng cứ một kiểu tra tấn gánh bằng hết chỗ đất này từ đây đến đó, rồi từ đó đến đây, cho tới lúc thân xác nhừ tử mà đất kia cũng rã rời. Giờ đây suy ngẫm lại, tôi vẫn không lý giải nổi vì sao quá trình lao động giản đơn trùng lặp như thế lại có thể cải tạo được tư tưởng con người.
Công việc “đông nhàn” phân cho tôi - một con “hổ chết” lãnh đạo bầy “hổ sống”, một phần tử “hữu phái” lãnh đạo lũ “đầu trâu mặt ngựa” là quét dọn nhà vệ sinh. Nói lãnh đạo cho oai thế thôi chứ thực tế cũng làm việc cật lực, lại còn đầu tàu gương mẫu “cán bộ đi trước, làng nước theo sau”. Về cái khoản quét dọn nhà vệ sinh thì đừng tưởng xấu hổ hay bẩn thỉu, đây là sự tin cậy và tín nhiệm của quần chúng cách mạng đối với tôi, vì dãy nhà vệ sinh kia thuộc khu vực tập thể nông trường, nơi cư trú của lãnh đạo, cán bộ và gia đình họ. Không phải bất cứ tên “đầu trâu mặt ngựa” nào cũng có thể bén mảng tới đây. Nghe nói phải đề phòng bọn chúng đầu độc, ám hại quần chúng cách mạng và thế hệ con em họ, những người nhận lãnh giao ca lịch sử, mang sứ mạng kế nghiệp và nhất là ngăn chặn bọn chúng làm gián điệp săn tin thu thập những “chỉ thị mới nhất” để chống phá cách mạng. Nhưng với tôi thì tự do vác xẻng, một loại vũ khí rất lợi hại, ra vào khu tập thể mà chẳng ai hỏi han, kiểm soát gì cả. Đám hậu thế cách mạng lại thích chọc tôi, biến tôi thành cái bia để bắn súng cao su rồi nô đùa thoải mái. Cha mẹ lũ trẻ cũng không bảo ban con cái mình mà còn cười theo hành vi vô lễ của chúng. Về phần tôi thì cứ tưởng là mình đã trở thành một thành viên của quần chúng cách mạng mà cảm thấy tự hào, ấm áp và hăng hái viết bản bảo đảm như sau: “Quyết tâm chịu sự giám sát của quần chúng cách mạng, lấy tư tưởng Mao Trạch Đông bách chiến bách thắng để đấu tranh, tấn công ý thức hệ giai cấp phi vô sản, thông qua công tác quét dọn nhà vệ sinh mà cải tạo thế giới quan hủ lậu, thối nát của mình, làm cho quần chúng cách mạng khỏi lo hậu họa về sau, toàn tâm toàn ý triệt để chấp hành đường lối cách mạng của Mao Chủ tịch”.
Nhà vệ sinh nông trường nói thì có vẻ vậy thôi chứ thực chất là ba bức tường đất lợp tranh, chia ra hai bên nam nữ bằng một vách ngăn đạp nhẹ là đổ. Mỗi phía đào bảy tám lỗ lộ thiên, sáng “vào ca” tôi đều thấy phân ùn cao như núi, may là mùa đông nên mùi hôi thối cũng bị đóng băng, nếu không thì đến chết ngạt. Khổ sở là thế nhưng tôi chẳng hề kêu ca gì cả, bởi lẽ được tự do đi lại, công việc cũng nhẹ nhàng không phải dầm mưa lội tuyết như các chiến hữu “đầu trâu mặt ngựa” khác. Ngày lại ngày mình tôi phải hốt sạch tổng cộng 80 núi phân, đưa ra bên ngoài phủ kín đất và đào sâu thêm các lỗ lộ thiên trong nhà, công việc cứ thế trôi qua cả một mùa đông giá rét.
Thế rồi ngày hôm ấy xảy ra một hiện tượng càng lúc càng làm tôi như lạc vào mê lộ. Tôi bí mật theo dõi điều tra như kiểu trinh sát viên phá án. Đó là những mảnh băng y tế, giấy báo, vở tập học sinh, tất cả đều dính máu, tất cả đều xuất hiện bên nhà vệ sinh nữ. Tôi đâm nghi, hay là vùng này nhốt lũ “hổ cái”, nhưng tại sao khi đấu tố, “hổ đực” thường bị sứt đầu mẻ trán, còn con cái lại mang thương tích ở phần hạ bộ. Vì hiếu kỳ, vì nóng lòng muốn giải mã nên từ hôm đó vừa quét dọn nhà vệ sinh, hốt phân, đào lỗ, tôi vừa để mắt trông chừng có con “hổ cái” nào ló đầu ra hay không, mãi mà chẳng thấy, chỉ toàn là quần chúng cách mạng nữ ra ra vào vào nhà vệ sinh vứt xả những của nợ ấy. Tàn dư của “chủ nghĩa nhân đạo giai cấp tư sản” lại trỗi dậy trong tôi, tôi thương các cô quá chừng, sao lại liều mình đấu đá với bầy “hổ đực” để bây giờ mang họa vào thân, máu me đầm đìa...
Sau này nghĩ lại sự ngu dốt của mình, tôi cảm thấy nực cười, nhưng bình tâm mà xét và liên hệ với nhiều sự việc đã xảy ra, tôi ngộ ra một điều: cả đời chúng ta đều ở vào trạng thái vô tri và con nít. Những việc mà một thời ta cứ tưởng vô cùng quan trọng, vô cùng căng thẳng, vô cùng âu lo, những niềm vui đáng mừng, đáng reo, đáng cười thuở ấy giờ đây nghĩ lại mới thấy là hư không, bi cũng như hoan, tất cả đều vô vị. Chúng ta như con rối cho cuộc đời giật dây, dù sống đến trăm tuổi đi nữa vẫn là đứa hài nhi. Cảm thấy âu lo thật không đáng âu lo, cảm thấy phẫn nộ thật không đáng phẫn nộ, cảm thấy khổ não thật không đáng khổ não, cảm thấy vui mừng thật không đáng vui mừng... mọi thứ đều hư ảo, không chân thực. Đến như bản thân mình cũng chỉ là một đóa phù vân, khi đạt tới cảnh giới này tôi mới biết, thế là “thời thanh xuân” của mình đã cáo chung, chấm hết.
Nhưng lúc đó tôi đang còn “thanh xuân” trai trẻ, những vật thể dính máu kia cứ làm tôi day dứt và muốn tìm cho ra chân tướng. Cuối cùng đành thỉnh giáo các vị “đầu trâu mặt ngựa”, nhờ tài trí thông minh của tập thể để khai sáng vùng u tối trong tôi. Thế là chúng đã cười đến vỡ trời, khiến quân cách mạng phải bao vây, nhưng khi sáng tỏ ngọn nguồn thì cả “bên ta” lẫn “bên địch” không ai tránh khỏi đau bụng vì cười lâu quá, to quá. Mọi người khen ngợi tôi có công lao tạo nên một khoảnh khắc vui vẻ ngây ngô giữa không khí đấu tranh giai cấp cực kỳ tàn nhẫn. Hơn hai mươi con “hổ sống” vừa nghe tôi tường thuật xong liền ngã lăn trên nền trại lạnh ngắt và hai mươi mấy điệu cười chẳng cần chỉ huy của người nhạc trưởng cứ thế đồng thanh cất lên. Tôi ngơ ngác, lạc điệu giữa một giàn giao hưởng và hốt hoảng, lo lắng vì nhiều tên “ đầu trâu mặt ngựa” đã tràn trề nước mắt. Mãi sau, một lão “hổ sống” nhịn cười, bạo dạn, “thưa cán bộ, đó là chuyện của phụ nữ, cô nào, bà nào cũng có... cán bộ không biết hay sao”, lão ta kéo tôi vào một góc tiếp tục giảng bài sinh vật học, tôi gật đầu lia lịa như đứa trẻ vỡ lòng nuốt mọi điều mới mẻ đời cho.
Hóa ra là như vậy, thế mà tiểu thuyết cũ lại sử dụng cụm từ “thân tử bất phương tiện” hoặc giả “thân tử lai liễu”, quá lắm mới gọi “chảy đỏ”, nghĩa là dám đem cả tứ thơ “hoa lạc thủy lưu hồng” đẹp nhường ấy mà gán cho cái sự uế tạp nhường kia. Tôi trách sách xưa ẩn ý hại người, không lộ liễu như ngày nay, đọc là hiểu ngay, chẳng phải tưởng tượng gì cả. Tôi cũng cười hề hề với các thầy tiền bối, vẻ mặt ngây ngô không ra dáng cán bộ chút nào. “Phản bội” nói, điều nghi vấn của “cán bộ” là câu chuyện cười hiếm có trên đời, phạm tôi phải truyền lại cho hậu thế, kẻo mai một đi thì uổng quá. “Đặc vụ” bình luận, chẳng trách mà “cán bộ” cứ vào ra trại cải tạo mãi, bởi vì dấu ấn “ngu xuẩn nhất của kẻ cao quý” hằn quá sâu nơi “cán bộ”. “Phần tử chống cách mạng” thì cho tôi là giả bộ ngu ngơ không biết chuyện đó, chứ ngần ấy tuổi đầu, lại là trí thức sao mà yếu kém thế, song lão khen tôi đóng kịch, chọc cười giỏi thật. “Kẻ hai mặt” từng chịu ơn tôi cho phép lão “sinh hoạt vợ chồng” một lần ngay giữa thanh thiên bạch nhật nên nói năng có vẻ giữ mồm, giữ miệng hơn, “cán bộ” của chúng ta không giả vờ hay đóng kịch đâu, đúng là “cán bộ” chưa biết đó thôi, ở xã tôi có một vị tú tài, tuổi đã hơn 30 mà chưa biết “sinh hoạt vợ chồng” là làm chuyện gì, “đọc sách thật quá ư vô dụng!”, lão kết luận.
“Phái đi theo tư bản” chau mày suy nghĩ, lão nói, các vị cười thỏa thích nhỉ, nhưng nào biết đây là một sự kiện quan trọng. Bọn chúng đã xâm phạm tài sản quốc gia, ăn cắp bông băng y tế dùng vào việc riêng tư. Thủ phạm chính là hai con nhóc y tá Tiểu Vương, Tiểu Lý. Hồi mới ra trường về đây nhận công tác, bản thân tôi đã mất công đi làm thủ tục hộ khẩu cho chúng, thế mà giờ lên mặt “tạo phản” hành hạ chúng ta, phải tìm cách chống lại “tạo phản” mới xong. Còn nữa, không khí đang vui bỗng trở nên căng thẳng, cả bầy “hổ” nằm im nghe “chúa sơn lâm” phán. “Phái đi theo tư bản” hạ giọng, nói rất khẽ, phạm tôi xin đề nghị “cán bộ” điều tra tỉ mỉ, trong số giấy báo mà họ sử dụng vào việc uế tạp đó có hình ảnh lãnh tụ, “chỉ thị tối cao” hay “lời vàng ý ngọc” nào không. Nếu có, nhờ “cán bộ” thu gom vật chứng, nhân đấy chúng ta sẽ tổ chức phản công chính trị, các vị rõ chưa. Sự nghiệp chống “tạo phản”, sự nghiệp phản công chính trị mà thành công thì cái mũ “hữu phái” trên đầu “cán bộ” sẽ được cởi bỏ đầu tiên, còn chúng ta cũng thoát khỏi thân phận làm trâu làm ngựa như bây giờ. Chẳng ai ngờ sự việc lại nghiêm trọng đến nước này. “Phái đi theo tư bản” quả là có tầm nhìn chính trị, hỏi ra mới biết trước đây lão từng làm trưởng ban tuyên huấn đảng ủy nông trường, đã một thời đa mưu túc kế mà vẫn không tránh nổi mũi giáo của phái “tạo phản”, chung cuộc trở thành “đầu trâu mặt ngựa” cam chịu đọa đày.
Sáng hôm sau, tôi lại vác xẻng lên đường vào “phân xưởng” như mọi ngày. Nhưng kể từ thời khắc này tôi vừa quét dọn nhà vệ sinh, phục vụ quần chúng cách mạng, cải tạo thế giới quan, nhân sinh quan “hữu phái” tư sản, vừa thu gom vật chứng cho bầy “hổ sống” và lũ “đầu trâu mặt ngựa” giúp chúng dấy lên cuộc phản công chính trị, chống lại phe “tạo phản”. Nhưng nhiệm vụ “Phái đi theo tư bản” giao phó đã không hoàn thành, chẳng phải do tôi sợ bẩn, ngại khó không làm mà vì quần chúng cách mạng nữ ở đây khá cẩn thận, thắp đuốc cũng tìm không ra hình ảnh, chỉ thị nào cả. Tôi phản ánh tình hình với “Phái đi theo tư bản”. Lão lắc đầu động viên, “cán bộ” hãy cứ kiên trì, nhẫn nại mai phục, ắt sẽ có ngày thành công. Tôi thở dài, “kiên trì, nhẫn nại, thành công”, thế là mình đã vô cớ lao đầu vào cuộc sát phạt và tự nhiên mất dần nỗi đồng tình, thương xót bầy “hổ sống” và lũ “đầu trâu mặt ngựa”. Các người cũng thật giảo hoạt, đa mưu túc kế, chứ chẳng thua kém hay oan ức gì đâu. Sau đó tôi may mắn được chia tay với họ và gặp một người đàn bà kỳ lạ, chân tình hơn tất cả, chị mãi là thần tượng của đời tôi.
Nhiều năm sau Đài truyền hình trung ương đã truyền trực tiếp tiết mục phỏng vấn tôi tại hiện trường. Người dẫn chương trình yêu cầu tôi phát biểu một câu ngắn gọn nhưng khái quát được cảm thụ bấy lâu nay về chủ đề “danh nhân hạ hải”. “Hạ hải” là thuật ngữ mới xuất hiện gần đây trong thời cải cách, mở cửa để chỉ những người “xếp bút nghiên đi làm kinh tế”. Tân toan khổ lụy đủ điều, nhưng vì chưa chuẩn bị trước, lại chỉ nói một câu, đến như “vĩ nhân” còn lúng túng, chứ “danh nhân” tôi thì đã ăn nhằm gì. Tôi không có khả năng tinh luyện hàm súc, nay đối mặt với ống kính của nhà quay phim, nghĩ là sẽ trơ mặt lên màn hình, suy đi nghĩ lại âu cũng như một pha quảng cáo và tôi mở mồm nói đại.
- Muốn đạt được lợi ích lớn nhất cho cá nhân mình, điều đầu tiên là phải đặt nhu cầu của người khác lên vị trí số 1, vì vậy theo tôi, bản chất kinh tế thị trường là loại kinh tế “vì nhân dân phục vụ”!
Chương trình “danh nhân hạ hải” phát lên sóng, và tôi nhận được khá nhiều cú điện thoại: Hay, câu nói của ông thật là xuất sắc, bỗng chốc đã gắn bốn chữ “kinh tế thị trường” với năm chữ “vì nhân dân phục vụ” thành bộ “cửu tự” dính chặt tựa keo sơn, và nhiều tờ báo, tạp chí sau đó thường viện dẫn “danh ngôn” này, nhưng khán giả và độc giả nào có biết, lúc lâm trận bị dồn tới chỗ chết, vì muốn sống nên mới bật ra như thế.
Thế rồi sang xuân, quần chúng cách mạng nông trường bắt đầu mở chiến dịch giải phóng cho “đầu trâu mặt ngựa”, người số 1 được thả tự do chính là tôi - con “hổ chết”. Thoát khỏi sự quản chế của đội chuyên chính quần chúng cách mạng, tôi vẫn còn mang mũ “hữu phái”, vẫn chưa trở thành công nhân nông nghiệp chính thức, nhưng đã đỡ hơn nhiều vì từ nay được sống trong xã hội bình thường và làm một người lao động bình thường.
Điều khiến tôi cảm thấy rất bất ngờ là “Ủy ban cách mạng” nông trường đã cho phép tôi về Bắc Kinh thăm mẹ. Từ sự kiện bất quy tắc này mà mãi đến nay tôi vẫn giữ gìn một cảm nhận, dù xã hội có loạn lạc tới mức nào đi nữa, thì con người và động vật cứ khác nhau. Kỳ nghỉ thăm người thân không do tôi đề xuất yêu cầu mà trong lúc cùng nhau lao động trên đồng ruộng, nhân khi tán gẫu, một lãnh đạo nho nhỏ của nông trường ngẫu hứng đã xướng lên “cậu có thể về quê thăm mẹ”, tôi hỏi cần phải làm những thủ tục gì thì anh ta bảo, “viết báo cáo đưa cho mình là đủ”, nói đoạn vị lãnh đạo đó nheo nheo con mắt. Tôi không hiểu anh ta nheo mắt là có ý nghĩa gì, bởi vì đấy chẳng phải một thói quen, lao tâm khổ tứ mãi mà vẫn tìm không ra lời giải. Sau này khi thần kinh ổn định, tôi mới vỡ lẽ, hơn một nửa động tác của loài người là vô ý thức và tương tự, hơn một nửa suy nghĩ trong đầu óc họ cũng chẳng nên công cán gì.
Báo cáo xin về quê thăm người thân nhanh chóng được thông qua, phê duyệt, tôi chỉ có ba mươi mấy nhân dân tệ mà cũng đòi leo lên xe lửa đi Bắc Kinh. Đây là số tiền do chư vị “đầu trâu mặt ngựa” kẻ ít người nhiều quyên góp giúp tôi. Hồi còn đang lao động cải tạo, tôi nghe người ta nói ngồi tàu hỏa không cần mua vé, nhưng tôi đã nhầm, đó chỉ là những chuyến tàu của Hồng vệ binh đi kéo bè kết mảng đổ về Quảng trường Thiên An Môn để được nhìn, được nghe Mao Chủ tịch ra chỉ thị, chứ đâu tới mức thỏa mãn mọi nhu cầu của dân chúng. Tuy vậy tôi vẫn yên tâm vững bước, không có tiền nhưng ta có “thời thanh xuân”, nhân viên đoàn tàu kiểm tra đuổi xuống, còn ta cứ thế trèo lên, hơn ngàn cây số hành trình mà phải bảy ngày bảy đêm, cuối cùng thì cũng về tới Bắc Kinh. Tác dụng của “thời thanh xuân” thật quá sức tưởng tượng, chẳng đồng xu dính túi nhưng có thể đi khắp thế gian.
Các bạn độc giả lượng thứ cho tôi, rằng dưới đây sẽ không kể tình cảnh hai mẹ con tôi đã gặp nhau như thế nào, bởi vì trong cuốn tiểu thuyết “Chết theo thói quen” tôi có viết sơ qua, ngay như ở tác phẩm đó tôi cũng không muốn nói nhiều. Giống như người bạn tốt đã qua đời, tôi cũng phải giữ lại, lưu lại những gì quý báu nhất cho riêng mình. Trong một đời ở giữa nhân gian với bao cảm tình, với bao tao ngộ, thế nào mà không có lấy một chút tài sản tinh thần tư hữu từng gắn chặt vững bền cùng số phận, nó chính là chùm rễ của cây đời, nếu bộc lộ ra ngoài, nếu bật lên tất cả thì còn gì là nhựa sống. Nhà văn nào đem bán hết chùm rễ quý báu kia, là có nghĩa ông ta bà ta đã “lão lai tài tận”, và ngày khô héo chắc chẳng còn bao xa. Tôi có hơn nửa đời người chìm đắm, và chính mẹ là nguồn lực giúp tôi ngoi lên. Tôi treo tấm hình bà bồng tôi lên vách thư phòng. Trong hình, bà mỉm cười như đang nói với tôi: “Viết đi con”.
Từ một mệnh phụ quý phái, mẹ tôi luân lạc trở thành bà già hè phố sống qua ngày nhờ đôi bàn tay thêu đan, may vá nhưng vẫn giữ phong độ cao sang văn nhã. Tôi nghĩ, nền giáo dục cao đẳng trong xã hội cũ đã giúp bà chịu đựng bao nỗi chà xát, giằng xé của cuộc đời. Mẹ tôi vóc người thấp gầy như thanh củi nhưng mang trên mình cả một nền văn hóa, dù đã hóa thạch cũng khiến người đời chiêm ngưỡng. Bà là pho tượng của nền văn minh quý tộc, chói ngời ánh sáng của những ngày qua mà giờ đây khó có thể tái hiện, thứ ánh sáng càng lâu càng lấp lánh. Cùng với mẹ chưa qua nổi ba ngày đoàn tụ, hoan lạc thì tôi bị cái gọi là “tổ trinh sát tuần tra chân nhỏ” bắt giam. Thuật ngữ “tổ trinh sát tuần tra chân nhỏ” phải là một mục quan trọng trong cuốn từ điển “văn cách”, điển hình rõ nét của nền thống trị chuyên chế mà bất kỳ lỗ hổng nhỏ nào cũng không bỏ qua. Nó gồm những bà, những cô mù chữ thuộc “Ủy ban dân phố” có cái quyền bắt người ngay giữa thủ đô Bắc Kinh, chẳng cần lệnh lạc gì cả, miễn là họ tình nghi. Họ giống như những con chó cảnh sát, ngày đêm ra sức lùng sục, bắt được ai là giao lại cho công an, và công an đã nhốt chung tất cả đàn ông đàn bà bị tình nghi vào một nhà ngục chờ gọi tên tra khảo, xét xử. Chưa có lúc nào, nơi nào trên thế giới lại bày ra cái trò giam giữ hổ lốn gái trai như thế này.
Nơi tôi bị giam thuộc khu vực phồn hoa, đô hội nhất của Bắc Kinh - hai tứ hợp viện (kiểu nhà điển hình ở thủ đô Trung Quốc, bao gồm bốn căn nam bắc tây đông, chung một vòng tường, thường mở cổng ra vào tại góc cung tốn - ND), nguyên là phủ đệ một đại quan nhất phẩm đời nhà Thanh. Đây đáng lẽ phải trở thành di tích, thể hiện đầy đủ nền văn minh phố phường cổ Trung Hoa, giờ lại là nhà ngục. Hơn 40 nam nữ “phạm nhân” chen chúc nhau trong một căn phòng rộng khoảng 30 mét vuông, cùng đại tiểu tiện vào một thùng sắt, lúc nào đầy thì “phạm nhân” trực ban khệ nệ xách ra đổ ở nhà xí phía sau. Cho tới bây giờ tôi vẫn chưa sáng tỏ, là hồi ấy phòng giam không đủ, hay người ta cố ý nhốt chung trai gái nhằm thể hiện quan điểm “nam nữ bình đẳng” mà “cải tạo triệt để” chúng tôi. May cho tôi đã thụ giáo bài sinh vật học thường thức do các thầy “đầu trâu mặt ngựa” dạy dỗ, nếu không thì sẽ vô cùng kinh ngạc, ngơ ngác trước nhiều pha “hoa lạc thủy lưu hồng”. Các chị, các bà, các cô chẳng xấu hổ mà tự nhiên hành xử trước bao nhiêu con mắt không còn có chỗ nào nữa để mà nhìn để mà tránh. Tội nhất là trong số “phạm nhân” đó có khá nhiều thiếu nhi 14, 15 tuổi, không hiểu “thời thanh xuân” sau này của chúng rồi bị ảnh hưởng ra sao.
Tôi muốn nhanh chóng kết thúc đoạn văn này, và cũng giống như nhiều nhân sĩ, học giả khác, tôi chẳng đành lòng nói ra những gì xấu xa của “văn cách”, những gì làm mất mặt dân tộc Trung Hoa mà dân chúng Trung Hoa không phải là người chịu trách nhiệm. Năm ngày sống trong nhà giam kiểu đó, chẳng cần ai gọi tên, chẳng cần ai tra khảo thì đã đủ khổ ải lắm rồi bởi mùi xú uế, bởi cảnh trần trụi, và ngày ngày đều cùng nhau hát vang hai ca khúc “Đông phương hồng” và “Ra khơi nhờ tay lái vững”. Người chỉ huy là một cô gái thuộc “đội tuyên truyền công nhân” yêu cầu chúng tôi mở mồm theo nhịp tay của ả. Hát cả ngày từ sáng đến tối, ai có nhu cầu đại tiểu tiện hay gì gì đi nữa thì cứ tự nhiên trong một mớ âm thanh hỗn độn làm “nhạc đệm”, người bên ngoài chắc tưởng chúng tôi trong này vui vẻ lắm, nào có hiểu đó là một kiểu tra tấn.
Tôi là “tai tinh” của mẹ và mẹ là “cứu tinh” của tôi. Bà cụ luôn luôn xuất hiện những khi tôi gặp khó khăn trở ngại nhất. Lần này vẫn thế, ngày ngày hai bữa đưa cơm cho tôi, tôi và vào miệng những miếng cơm nấu từ gạo cao lương đỏ, kèm vài cọng rau xanh, rau vàng, còn bà đứng ngoài cửa nhìn con, điềm đạm như ngày nào đến trường nghe người ta khai trừ, đuổi tôi. Giờ đây nhớ lại tôi không thể nào đoán được lúc ấy tựa cửa, chăm chú, dõi theo một thằng con đã thân bại danh liệt, hơn 30 tuổi rồi mà chưa thoát cảnh trầm luân bà nghĩ những gì. Với tôi, qua những bước dày vò tra tấn, bị đuổi học, bị lao động cải tạo, bị tổ chuyên chính quần chúng cách mạng quản chế và bây giờ lại bị tổ trinh sát tuần tra chân nhỏ bắt giam, thì bà xem đó như đứa trẻ tập đi, có vấp ngã mới biết đứng dậy rồi tiếp bước, bà không hề tỏ ra kinh ngạc và trách cứ tôi điều gì. Tương tự, tôi cũng chưa từng nghe mẹ mình oán thán hay hờn dỗi với ai. Bà rất mong đất nước phú cường. Bà không ngờ văn cách lại tồi tệ đến thế nhưng cứ vẫn âm thầm chịu đựng. Bà đứng ngoài cửa sổ dặn tôi, nếu được thả tự do trở về nông trường thì hãy nhanh chóng ổn định nơi ăn chốn ở, nhất là việc làm. Bà sẽ lên đấy cùng tôi, “sống cuộc đời của người dân lao động”. Bà nói thuở nhỏ ở nhà quê nên rất thích nuôi vịt, nếu trên nông trường có điều kiện bà sẽ nuôi một con mèo. Bà rất ngây thơ cho rằng nông trường là cõi đào nguyên. Tất nhiên là tôi không dám làm bà cụt hứng kể cho bà nghe nông trường có nhiều “hổ sống”, “hổ chết” và nhất là cơ man bao anh hùng đả hổ.
Mãi sau này tôi mới rõ vì sao mình lại bị công an giam năm ngày cùng chung với phụ nữ, năm ngày đại tiểu tiện chẳng phải xấu hổ là trai hay gái, ai có nhu cầu cứ thế tự nhiên công khai mà giải quyết. Nguyên nhân chủ yếu là mẹ tôi trong năm ngày mới chạy đủ tiền mua vé tàu hỏa cho con mình rời Bắc Kinh trở về nông trường. Từ đó tôi không đồng ý với cách nói “văn cách” gây tổn thất cho nhà nước, kỳ thực thì những tổn thất ấy đã phân bổ lên đầu bách tính, cơm ăn cho phạm nhân gia đình phạm lo liệu, vé tàu xe tống khứ phạm nhân sau khi phóng thích vẫn gia đình phạm đi mua, thậm chí vô phước bị hành quyết, gia đình đã mất người thân lại còn phải thanh toán tiền súng đạn. Chiều hôm ấy mẹ tôi nộp đủ 21 đồng 8 hào lên công an thì ngay sáng hôm sau bốn tiểu tướng đeo băng đỏ áp giải tôi ra ga xe lửa tống lên tàu. Lúc đó những người lao động bắt đầu đi quét đường. Ngang qua nhà, nhìn lên khung cửa đèn vẫn chưa bật sáng, tôi đành im lặng để mẹ ngủ thêm chút nữa, nào ngờ đấy là lần mẹ con tôi mãi mãi xa nhau. Trưa đến, mẹ tôi đưa cơm vào mới biết con mình được phóng thích trả tự do, bà về nhà, trù tính chuyện mai mốt lên nông trường nuôi mèo, nuôi vịt...