← Quay lại trang sách

phương ngữ

Anh thấy mình bị bỡn cợt khi cậu lễ tân khách sạn tìm cách buộc dây căng tấm rèm ở cạnh giường. Chú cần chiếc màn chống muỗi, không phải thứ này, anh nói. Cậu lễ tân đực mặt ra, rồi kêu vậy là cái mùng chú ơi .

Mình không thuộc về nơi chốn này, anh nghĩ. Sự khác biệt khiến mỗi lời đôi bên thốt ra là một chuỗi mật chú. Người đàn bà đã chỉ đường anh khi ở ngã ba, rằng quẹo tay mặt đi một đỗi nữa là đụng, nhớ dòm kỹ coi chừng huốt ; thằng bé rón rén cong đuôi chạy mất khi anh vẫy tay gọi nó ăn roi (sau này anh biết xứ này ăn roi chỉ có mỗi một nghĩa là bị đánh đòn, ở đây trái cây nọ được gán cho cái tên khác); hay cô gái phục vụ trong quán cơm cứ đực ra khi anh đòi một cái muôi, cứ cho là những người đó học không đến nơi đến chốn, nhưng cậu lễ tân khoe mình là sinh viên năm hai, cậu hẳn đã kháng cự ráo riết với ngôn ngữ chuẩn quốc gia dày đặc trong mớ sách giáo khoa, nên không phân biệt được màn với rèm.

Chuyến đi đầu tiên tới phương Nam, như sau này anh nhớ, là chóng mặt khi nhìn những con thuyền (ở đây chúng cũng được mang những cái tên khác, tùy vào hình dạng) rập rờn trên mặt sông đầy sóng, là những bản nhạc bolero uể oải vẳng bên đường, cùng với mùi trái chín rữa trong những khu vườn, là lạc trong bao hiểu lầm tai hại bởi thổ ngữ. Thứ thổ ngữ muốn tìm hiểu từ nguyên người ta phải theo dấu chân những sắc tộc sống chồng lấn lên nhau, của những lưu dân dong buồm đến đây khai phá, của bao cuộc xâm lược từ bên ngoài. Ám tối, lấm bùn, vấy cát, mặn và thô mộc, anh cảm giác chúng thiếu sự trau chuốt, mài giũa. Anh không biết người ta gọi kiếng (thay vì kính) hay kiểng (thay vì cảnh, trong cây cảnh) là vì kỵ húy một viên tướng có công mở đất, hay bởi trại âm mà thành. Anh ngờ có những từ vựng nảy ra bởi người bị khuyết mất vài cái răng, hoặc hở vòm miệng, nên chúng có vẻ hơi vẹo vọ. Chữ miệt , như anh biết nó có hàng chục nghĩa, nhưng chẳng nghĩa nào có thể dùng thay cho miền , như họ nói. Nơi mà dấu ngã (-) không hề tồn tại trong cách phát âm của cư dân bản địa, anh vừa nghe vừa đoán, nhưng cả v, hay r họ cũng chẳng thèm đánh lưỡi, mím môi.

Như sau này anh nhớ, miền sông của thuở internet chưa đủ làm phẳng mọi khoảng cách địa lý, không phải quang cảnh, mùi vị thức ăn, mà chính phương ngữ làm anh cảm thấy mình bị khước từ. Khư khư dùng những từ vựng xa lạ, mặc kệ sự bối rối của du khách, người bản địa tước đi sự tự tin vốn có trong anh. Như tước vỏ mía. Cảm thấy những gì mình từng học và đọc đều ít nhiều vô nghĩa. Nhìn theo đường bay của con muỗi, trong anh xuất hiện một nỗi hoang mang, không biết muỗi kêu ở đây có khác tiếng muỗi làng mình. Những đồ vật quen thuộc, tầm thường như đôi đũa, cái cốc bỗng đầy bí ẩn khi anh chợt nghĩ chẳng rõ ở nơi đây chúng mang cái tên nào khác. Sự cô độc phủ chụp xuống anh, trước khi anh nhận ra mình không có bạn, thậm chí một người quen nào.

Rồi mưa ập đến, suốt ba ngày cuối cùng của chuyến đi. Mưa đuổi theo anh tận ga tàu. Lúc đó anh không biết miền sông luôn can dự, hóng hớt mọi cơn áp thấp nhiệt đới, mọi trận bão gần, như thể nó cho mình có nghĩa vụ gánh bớt một phần giông gió cho cả nước. Quá nhiều chuyện anh không biết, ở tuổi ba mươi bảy. Vào buổi sáng đầu tiên trời lên cơn trút nước, anh bảo cậu lễ tân giữ xe máy lại, lúc nữa mưa tạnh anh lại thuê chạy lang thang. “Chắc cú là mưa cả tuần luôn đó, chú”, cậu ta nói, mặt rõ lo cho cái máy ảnh mà cậu từng khen dòm quá xá ngầu .

Cậu ta đúng. Không còn phân biệt được cơn nào với cơn nào, đây là trận thứ mấy, mưa dính ríu lấy nhau. Nửa đêm, nghe tiếng mưa dội lên những bề mặt, chẳng biết mình đang tỉnh hay mưa theo vào tận chiêm bao, anh bỗng nhận ra ở miền châu thổ này, tiếng mưa mới là thứ phương ngữ nhức nhối nhất. Mưa nhốt anh trong bốn bức tường, những khối mây sũng nước ngoài kia ngầm báo cuộc phóng thích còn xa. Mở cửa sổ, mùi axit ngái khắp phòng, lẫn trong bụi mưa là cánh mối. Phóng mắt dài một chút, có thể thấy dòng sông trước mặt phồng lên. Bờ kè bên sông, như tối qua anh còn thấy một đám đàn ông ngồi uống rượu, ca vọng cổ, giờ đã ngập sâu. Những trụ đèn bị bôi xước, không còn ra một đường nét nào. Thỉnh thoảng, mưa nặng hạt đến mức nơi tiếp giáp giữa mặt sông và nước trời không còn phân biệt nổi.

Thành phố vốn bị những con sông chảy qua chia cắt thành nhiều đảo, nhưng mưa cô lập đến từng ngôi nhà. Mỗi nhà là một hòn đảo nhỏ. Đứng ở cửa sổ, anh nhìn cái khăn ướt lạnh bị bỏ rơi trên sào phơi trước một căn nhà đóng chặt cửa, tự dưng nghĩ những người bị mưa vây hãm trong đó hẳn đang nói với nhau bằng thứ ngôn ngữ mà họ vừa mới tùy tiện nghĩ ra, không phụ thuộc vào bất cứ chuẩn mực, hệ thống nào. Vào những ngày trời đất làm nên ảo giác rằng thế giới ngoài kia đã trôi sạch, đã tan chảy theo nước mưa, vũ trụ chỉ còn một nhúm người mình thôi, mình nói gì mà chẳng được. Và một khi mưa ngớt, mớ từ vựng sơ sinh nọ tuôn ra theo những cánh cửa mở toang, chúng trôi nổi khắp nơi, bằng cách nào đó, nhiều từ đã sống sót.