← Quay lại trang sách

Chương 8

Khi tôi vừa lên tám và Liam gần chín tuổi, chúng tôi được gửi cùng với đứa em nhỏ của chúng tôi, Kitty, đến ở với Ada tại Broadstone. Nơi này cách chỗ chúng tôi sống chỉ vài cây số - dĩ nhiên bây giờ tôi mới biết, nhưng khi tụi tôi còn bé nó cũng xa lắc xa lơ không khác gì Timbuctoo. Nó là một thế giới khép kín; một vùng cá biệt gồm những ngôi nhà của thợ thủ công sát trung tâm Dublin, khớp vào nhau như đồ chơi Lego.

Tôi nghĩ chúng tôi có thể cũng đã bị gửi tới đó khi Kitty còn bé xíu. Có một khoảng cách giữa các lần sinh nở của mẹ tôi lúc đó, và tôi mệnh danh những năm đó là những năm trẻ con chết, những năm ghi dấu lên con người bà và biến bà thành cái tạo vật mà tôi biết sau này.

Tôi không biết họ gọi những tình tiết này là gì. Những phụ nữ độc thân có “những lần tan vỡ”, nhưng vào thời đó các phụ nữ có chồng chỉ hoặc là có thêm con nhỏ, hoặc không có thêm con nhỏ nữa. Dù sao thì mẹ tôi lại tiếp tục nữa, với Alice năm 1967 (chúng tôi làm được gì nếu không có Alice!) rồi ngay sau đó đến Ivor và Jem. Tôi cho rằng sự bất công của việc sinh đôi đã kích thích “cơn kích động thần kinh” cuối cùng của bà. Chắc chắn luôn luôn có những viên thuốc an thần xen giữa thuốc hạ sốt Brufen và warfarin chống đông máu trong đĩa đựng thuốc của bà, và, trong chừng mực tôi biết, bà thường có những cơn run, những khó khăn không thể giải thích được, và những cơn khóc lóc bất chợt.

Đôi khi tôi tự hỏi bà ra sao trước khi chúng tôi phải ra đi, hoặc liệu tôi có biết thứ gì mất đi khi mỗi lần chúng tôi trở về không - liệu “bà mẹ” nào đó, người khiêu vũ với cây chổi và hôn bụng đứa bé, có được thay thế bằng khối thịt người hiền lành này, đang ngồi trong một căn phòng hay không.

❀ ❀ ❀

Nhà của Ada rất yên tĩnh. Thật khó quên được âm thanh hơi thở của ta - đi vào, ngập ngừng ra - cho đến khi ta thấy ngộp, hơi chút thôi, vì chính sự do dự của ta. Đó là sự yên tĩnh của một ngôi nhà không có trẻ con và các phòng đầy đồ đạc. Có nhiều thứ trên mặt lò sưởi và những món be bé trên bàn mà ta không được phép đụng tới. Có những ngăn kéo đầy những thứ đã nhiều năm không dùng đến, hoặc chỉ được dùng một lần mỗi năm. Tất cả những thứ này tách rời nhau, và đều đặc biệt, khác hẳn với ở nhà nơi các thứ không bao giờ tách nhau.

Ada cũng tồn tại theo một cách khác biệt mà mẹ tôi không làm được. Bà cãi cọ với Charlie hoặc ve vãn ông trong nhà bếp. Ba mẹ tôi không bao giờ ve vãn nhau, có vẻ như họ không có khả năng làm chuyện đó.

“Bây giờ bật ti vi lên, để ba mày nghe tin tức.”

Họ nói với nhau thông qua lũ con cái, giống như mọi cặp vợ chồng khác mà tôi biết. Và nếu không có những lời âu yếm linh tinh thì cũng không có cãi cọ gì cả - dù đôi khi một giọng đay nghiến cũng xuất hiện trong cuộc trò chuyện của họ, nó có thể là dấu hiệu của sự lạnh nhạt hay chán ghét cá nhân. Tôi không biết nữa.

Có lẽ tôi sai. Có lẽ họ nói chuyện với nhau thường xuyên, nhưng có cái gì đó quá thân tình ở cách nói của họ mà tôi không nghe được, hoặc không giữ được - cũng như thật khó nhớ lại được tiếng cười cụ thể của ai đó mà ta yêu thương.

Nhưng Ada thì ve vãn Charlie - tôi nhớ rõ điều đó: Ada đong đưa người từ bếp đến bàn, và hát trong khi bày bữa tối cho Charlie. Và tôi nhớ những thứ của bà - cái tủ ngăn kéo ở chiếu nghỉ tầng trên đầy nhóc mảnh vải vụn; những cuốn sách mẫu thêu với những trang mà ta có thể lật giống như những trang giấy mềm của một cuốn sách không có câu chuyện, chỉ hết mẫu này đến mẫu khác. Có một bình thủy tinh chạm khắc đựng đầy lông chim trên mặt lò sưởi trong phòng ngủ của Ada; tôi nhớ tiếng lạo xạo của mấy cái nón rơm của bà, và mùi của những nón nỉ mà bà cất giữ dưới đáy tủ quần áo. Tất cả thứ này có lẽ từ thời kỳ tuổi thơ khó tính của tôi, lúc tám chín tuổi gì đó, khi tôi thích gấp và vuốt phẳng và giữ bí mật mọi thứ. Ngoại trừ mùi bên trong của những chiếc nón, mà tôi nhớ từ hồi lên ba.

Thỉnh thoảng chúng tôi mới ở trong nhà, phần lớn thời gian chúng tôi chạy nhông ngoài đường và chơi quanh hồ, một hồ nhân tạo, nước của nó từng được dùng để làm rượu whisky Ireland. Chính chuyện này buộc Liam đái vào đó, và đây là bức tranh về anh mà tôi có trong đầu, một cậu trai ưỡn bụng dưới ra để phun vòng cung nước đái của mình lên không, nước đái tóe vào dây kẽm gai hoặc bắn, đột nhiên thật dễ, qua một mắt lưới của tấm lưới hàng rào.

Cũng có pháo đài là trạm xe buýt tại Broadstone cần phải bao vây, một bức tường đen, giống như một vách đá được xẻ từ ngọn đồi ra, với bức tượng Đức Mẹ Đồng Trinh đặt trên đỉnh. Chúng tôi quanh quẩn ở các cổng, và sau cùng, một ngày nọ, lẻn vào nơi những chiếc xe buýt hai tầng đậu thành hàng, luồn lách và bò dọc theo hông xe dài ngoẵng, cho đến khi - đó hẳn phải là Liam, khó mà là tôi được - một đứa chúng tôi thò tay tới nắm cửa được lắp giống như mặt đĩa hình bán nguyệt cạnh cửa.

Xììììì.

Ta có thể ngửi thấy họ từ lớp da giả màu xanh bọc ghế, những người từng ngồi đây và lại đứng lên, để người khác có thể ngồi đây và lại đứng lên, hết phút này sang phút khác, hết ngày này sang ngày khác, với việc mua sắm và cuộc sống thường lệ của họ. Và dù chúng tôi không rạch ghế hay xịt sơn lên trần xe, chiếc xe buýt này vẫn quá ù lì và trống trải khi chúng tôi chạy qua nó, đến độ nó khiến chúng tôi nhận ra, cả ba đứa, chúng tôi ở ngoài mọi thứ ra sao, khi được giao cho bà ngoại trông nom - người bất ngờ chẳng có nghĩa gì với chúng tôi - và nhớ ba mẹ chúng tôi, những người ngày càng ít có ý nghĩa. Trong chốc lát, khi Liam vặn mở cánh cửa lửng ngăn chỗ ngồi của tài xế, tôi có cảm giác càng lúc càng mạnh mẽ rằng anh ấy thực sự có thể lái vật thể này, lao loạng choạng xuống tới đồi Constitution, bò lên qua Phibsboro, tới nơi mà gia đình thực sự của chúng tôi đang phát triển mà không có chúng tôi, và đi xa hơn nữa.

Và sau đó chúng tôi bị bắt quả tang. Tôi ở tầng trên và chẳng nghe thấy gì ngoại trừ, sau này nhớ lại, tiếng xăng đan lẹp bẹp của Liam và Kitty khi họ bỏ chạy, Liam quay lại vào phút chót để hét gọi tôi, âm thanh này tôi nghe được, tên của tôi vọng tới, vì một lý do nào đó, từ bên ngoài xe buýt, trong khi bên trong xe có âm thanh của một người đàn ông lên bậc thang, và hình ảnh bàn tay ông ta trên thanh vịn mạ crôm khi ông đu người lên, từng bậc thang một, cuối cùng nửa thân trên của ông ta nhô lên khỏi đầu cầu thang giống như một quả bóng phình to. Sau khi bước lên hẳn ông ta dừng lại, nhìn tôi. Ông ta đội mũ lưỡi trai và mặc áo sơ mi xanh đồng phục, cài khuy muốn bật tung trên cái bụng khổng lồ, cái kiểu bụng cần có thắt lưng để đỡ lấy, như bộ ngực cần nịt vú vậy. Ông ta lê cái bụng bự đó dọc theo lối đi đến chỗ tôi, trong khi tôi bước lui, cho đến lúc tôi vấp té ngồi xuống ở ghế cuối xe buýt. Sau đó ông ta gí nó vào tôi - và cho dù tôi không chắc tát cả chuyện này là có thật, tôi vẫn nhớ rõ độ căng cứng đáng ngạc nhiên và độ nẩy tưng của nó, khi ông ta ép nó vào mặt tôi với cái nút trắng nhô ra trước: sau cùng tôi ngọ ngoạy luồn dưới nó, tọt qua đôi chân nhỏ bé và mùi hôi từ cái quần gabardin tài xé của ông ta. Sau đó tuột xuống cầu thang.

“Cút ra!” ông ta quát với theo tôi, “Cút ra!”

Nhiều tài xế khác quay sang nhìn khi tôi chạy hết tốc lực ra cổng và rồi vượt qua đó.

Chỉ có một đường duy nhất để đi và nó chạy xuống đồi Constitution, cho đến khi tôi hết hơi, ở nơi tôi chắc chắn sẽ gặp Kitty và Liam. Nhưng tôi không tìm thấy họ mãi đến khi tới cổng nhà thờ: Liam, ngay từ hồi ấy, với ý tưởng gì đó về nơi che chở - rằng ngay cả người soát vé xe buýt mặc đồng phục cũng không thể tóm được ta ở đó.

Chúng tôi đi vào để cầu nguyện - và tôi thực sự tin điều này đã xảy ra cùng ngày đó - chúng tôi quỳ gần bàn thờ với ý nghĩ có người đuổi theo ngay sau lưng, và sau khi nhịp tim bình ổn lại chúng tôi nhìn nhau, và giữa cái nhìn ấy nhu cầu bật cười lên đã chuyển dịch đi khi chúng tôi nhìn lên một cái gì thần thánh hơn, cao cả hơn. Thế là, với cảm giác phấn chấn ngoan đạo chúng tôi tạ ơn việc cứu nguy chúng tôi tại ban thờ thánh Felix bằng cách đốt một cây nến và sau đó, khi tôi không tìm được cái khe để nhét mấy đồng xu vào, chúng tôi đốt hai ba cây nến nữa, cho đến khi một linh mục làm hằn lên cánh tay Kitty một vòng những vết thâm tím, và giội xuống chúng tôi, trong khi ông tiếp tục giữ chặt con bé, một bài giảng đầy cuồng mộ về tội lỗi. Và tôi không thể nhớ được một lời nào trong bài giảng đó, hoặc những điều sau đó Ada nói về tình trạng cánh tay của Kitty, dù tôi nhớ rõ cái vẻ sinh động, đậm nét trên bộ mặt đang lảm nhảm của ông linh mục, giống như một quả bí đặc. Và dù lý lẽ thường tình cho rằng hai sự kiện này không thể xảy ra cùng một ngày, tôi vẫn nói rằng chúng đã xảy ra, và khi một người đàn ông đi theo tôi qua những con phố nhỏ Venice, nhiều năm sau, với dương vật cương cứng trong tay, tôi đã lủi nhanh vào một nhà thờ như thể mời gọi một thứ gì tồi tệ hơn - thay vì điều đó tôi chẳng nhận được gì cả: những chiếc ghế trống không, mốc meo trên tường,, một mẩu giấy dán bên dưới một bức tranh sơn dầu xám xịt với chữ “di Tintoretto” (của Tintoretto) viết bằng bút bi. Có một nhà nguyện phụ tối đen với cảnh thiên đường vẽ trên trần, ít nhất là khi ta bỏ đồng 100 Live cho những ngọn đèn sáng lên. Ngoài ra tất cả đều tồi tàn, tĩnh lặng. Chẳng có điều tồi tệ hơn chờ chực xảy ra với tôi. Tôi quỳ quay lưng vào khung chữ nhật trắng lóa của cánh cửa mở, nhưng tay người Ý trên đường không xuất hiện sau lưng tôi, chẳng đứa bé nào từ phòng xưng tội bước ra với hai bàn tay chắp lại giữ một chén tinh trùng, không vị thánh nào nhúc nhích. Tôi cúi đầu cầu nguyện giống một phụ nữ trong một bộ phim hồi thập niên năm mươi, tôi cầu nguyện rằng nó sẽ rời khỏi tôi, cái cảm giác nghẹt thở rằng đây là cách tôi sẽ chết, mặt tôi bị kẹp trong cái quần gabardin kinh tởm, màu xanh biển hoặc đen, và dương vật của người lạ thọc sâu trong họng tôi và cái gì, cái gì, cái gì?

Cái gì đó xoay trong bụng tôi. Một con dao. Không phải con dao.

Nó không thật.

Nhưng cờ-lích. Ánh đèn trong nhà nguyện phụ sáng lên, với một tiếng động lớn, tiếp theo là tiếng chạy máy móc chậm chạp của mớ tiền của ai đó tuôn ra. Tôi quỳ đó nhìn những người Đức và người Anh bước vào, đoán ra bí mật của hộp đựng đồng xu và bật cảnh thiên đường lên, trong khi ngay sau lưng tôi gã người Ý đó với dương vật cương cứng cứ lần lữa ngay khung cửa mở của nhà thờ, hoặc không. (Dù sao thì hắn định làm gì với nó vậy?) Dù sao đi nữa hắn cũng không qua được ngưỡng cửa, và khi kết thúc việc cầu nguyện vô thần tuyệt vọng của mình tôi quay lại thì thấy hắn đã đi mất. Thật là tốt. Có điều lúc này, khi tôi đi trên phố, hắn có mặt khắp nơi.

Nói chung chúng tôi là những đứa bé ngoan. Tôi tưởng tượng rằng chúng tôi là những đứa bé ngoan, trong những ngày ở Broadstone đó; hơi lặng lẽ, hơi lo lắng, có lẽ; Liam đặc biệt dễ có những dao động đột ngột và thay đổi đường hướng, nhưng những thứ này không chỉ đáng sợ mà cũng thường vui nhộn và dù Kitty có là một mối phiền hà thì nó cũng phiền hà theo một kiểu con nít, và chẳng có gì tai hại ở bất cứ đứa nào trong chúng tôi mà tôi có thể nghĩ ra - tại sao phải có cơ chứ?