← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 2

“Bắc Dakota,” Amos Decker lẩm bẩm.

Anh đang ngồi cạnh Alex Jamison trên chiếc máy bay phản lực Embraer cỡ nhỏ dùng cho đường bay khu vực. Họ đã bay trên một chiếc phản lực cỡ lớn 787 tới Denver, nơi hai người phải chờ một giờ đồng hồ trước khi lên chiếc máy bay nhỏ hơn nhiều này. Chẳng khác gì chuyển từ một chiếc limo rộng rãi sang chen chúc trên chiếc xe bé tẹo của các chú hề rạp xiếc.

Decker, người cao tới hơn một mét chín lăm và nặng gần một trăm ba mươi sáu kilogram, đã rên lên khi anh quan sát chiếc máy bay nhỏ thó rẽ về phía cửa lên máy bay của họ, và còn rên dữ hơn khi thoáng nhìn thấy những chiếc ghế ngồi tí xíu bên trong. Anh đã phải nêm người thật chặt trong khoảng không gian của mình, tới mức anh dám ngờ rằng chẳng cần đến dây an toàn để giữ cho anh được bình yên trong trường hợp có nhiễu động.

“Anh đã bao giờ tới đó chưa?” Jamison hỏi. Cô ngoài ba mươi tuổi, cao ráo, thân hình khỏe khoắn đến hoàn hảo, tóc nâu dài, đủ xinh đẹp để đàn ông không ngớt nhìn chăm chú. Cô từng là nhà báo và bây giờ là một đặc vụ FBI. Cô cùng Decker được phân công vào một nhóm điều tra của Cục.

“Chưa, nhưng chúng tôi từng có lần đấu bóng bầu dục với đội Bang Bắc Dakota khi tôi còn ở đội Bang Ohio. Họ tới Columbus để thi đấu.”

Decker từng chơi bóng bầu dục ở trường đại học cho đội Buckeyes, sau đó có một sự nghiệp thi đấu nhà nghề ngắn ngủi cùng Cleveland Browns trước khi một chấn thương khủng khiếp trên sân để lại ở anh hai hệ quả: hội chứng siêu trí nhớ hyperthymesia , hay trí nhớ hoàn hảo, và hội chứng cảm giác kèm synesthesia , nghĩa là các kênh dẫn truyền tín hiệu giác quan của anh bị hòa lẫn vào nhau. Giờ đây, anh không thể quên bất cứ điều gì và nhìn thấy những thứ như các con số hiện lên dưới một số màu sắc nhất định, hay kịch tính hơn, những xác chết gắn với màu xanh ánh điện chập chờn.

“Đội nào đã thắng vậy?” Jamison hỏi.

Decker lườm cô. “Cô đang cố tỏ ra hài hước à?”

“Không.”

Anh nhúc nhích từng phân trên ghế. “Nó từng được gọi là hạng D-I và hạng D-II khi tôi còn chơi. Giờ thì trở thành FBS và FCS.” Khi Jamison trông có vẻ bối rối, anh nói thêm, “Bang Ohio, Alabama, Clemson, Michigan, LSU đều là những trường thuộc FBS, nhóm hàng đầu, những anh cả. Các trường như Bang Bắc Dakota, James Madison, Grambling, Florida A & M là các trường thuộc FCS, hay nhóm hạng hai. Gần đây, Bang Bắc Dakota đã có tiến bộ khá nhiều. Nhưng thường thì khi thi đấu với nhau, hầu như là các trường FBS thắng áp đảo.”

“Vậy tại sao lại xếp họ đấu với nhau?”

“Với đội thuộc nhóm hàng đầu, đó là một chiến thắng dễ dàng, còn với đội còn lại đó là một ngày kiếm bộn cùng cơ hội được lên truyền hình.”

“Nhưng không phải là một trận đấu đặc biệt hay để theo dõi?”

“Khi ta thắng thì đó luôn là một trận đấu hay. Và nếu tỷ số chênh lệch, các cầu thủ ra sân đầu trận được trở lại băng ghế sau ba phần tư hay thậm chí sau nửa trận đấu. Khi còn là một cầu thủ mới vào nghề, đó là cách tôi được tham gia trận đấu. Khi là một cầu thủ trong đội hình ra sân, tôi rất trân trọng quãng nghỉ bổ sung mà một lần thay người đem lại cho mình.”

“Tôi chẳng thấy có ý nghĩa gì cả. Một đội bóng nghiền nát một đội khác vì tiền.”

“Điều đó chỉ thực sự có ý nghĩa với những người đỡ đầu cho các trường và đám kế toán của NCAA mà thôi.”

Jamison lắc đầu và nhìn ra ngoài cửa sổ trong khi họ hạ xuống dưới những đám mây đen dày. “Dưới kia trông có vẻ bão tố.”

“Về cơ bản, sẽ nóng ẩm cực độ trong vài ngày tới, kèm theo một cơn bão tệ hại cùng sấm sét, nhiệt độ tụt, rồi đêm nào cũng gió máy ào ào cho xem. Nhưng chẳng bao lâu nữa, đến lượt mùa bão tuyết xuất hiện và nơi này trông sẽ hệt như Nam Cực.”

“Tuyệt,” Jamison mỉa mai.

“Nhưng hãy nhìn vào mặt tích cực.”

“Là gì vậy?”

“Cô sẽ không phải tập thể dục trong vài ngày tới. Chỉ cần đi bộ tới chỗ đậu ô tô cũng làm cô mất một kilogram nước rồi. Nhưng sau đó, cô sẽ phải tích mỡ cho mùa đông.”

Máy bay hạ thêm độ cao. Bay ngược những cơn gió mạnh thổi trực diện và những luồng không khí bất kham, chiếc máy bay chẳng khác gì một hòn cuội nảy thia lia qua mặt nước cần sóng. Jamison bám chặt lấy tay vịn ghế và cố hít thở sâu trong khi dạ dày cô đang xóc lên dằn xuống. Khi cuối cùng bộ lốp của chiếc máy bay cũng chạm vào lớp nhựa đường và nảy lên khi hạ cánh xuống đường băng, cô từ từ thả lỏng nắm tay và áp một bàn tay lên bụng. Một tia chớp nhoáng lên như một mũi giáo lởm chởm ở đằng xa.

“Quả là vui,” cô thốt lên, thở không ra hơi trước khi nhìn sang Decker, trông chỉ có vẻ buồn ngủ. “Việc đó không làm anh bận tâm sao?” Cô hỏi.

“Cái gì cơ?”

“Nhiễu động!”

“Chuyện đó đâu có gì lớn,” anh lập tức nói.

“Bí mật của anh là gì vậy? Bởi có vẻ tất cả những người khác trên máy bay đều cầu nguyện, kể cả các tiếp viên.”

“Tôi đã sống sót qua một vụ hạ cánh khẩn cấp khi còn học đại học. Động cơ ngừng hoạt động khi cất cánh. Phi công lượn vòng lại, xả một ít nhiên liệu, rồi động cơ còn lại cũng ngừng hoạt động và anh ấy phải lập tức hạ cánh. Sau đó, người ta phát hiện ra là hai lần liên tiếp chim lọt vào động cơ. Chúng tôi đã chạm đất mạnh tới mức làm gãy càng đáp và nứt thân máy bay. Tất cả mọi người kịp thoát ra ngoài trước khi nhiên liệu của chiếc phản lực bốc cháy và lửa thiêu trụi máy bay. Quả tình, tôi đã mất cái túi đựng quần áo,” anh dửng dưng nói thêm.

“Chúa ơi,” Jamison tái mặt thốt lên. “Thế thì tôi thật ngạc nhiên khi anh lại không bồn chồn hơn tôi đấy.”

“Tôi đã xem xét nguy cơ. Xác suất để tôi gặp một cú thứ hai như thế là cỡ một phần tỷ. Tôi cảm thấy giờ đây mình đã miễn nhiễm rồi.”

Họ xuống máy bay, ký các giấy tờ để nhận chiếc SUV họ thuê, rồi lái xe rời khỏi Cảng hàng không Quốc tế Williston Basin.

“Ái chà,” Jamison thốt lên khi họ ra ngoài và gió quất vào hai người. Thậm chí, cả chàng khổng lồ Decker cũng phải vất vả vật lộn. “Tôi không nghĩ mình đã mang đúng quần áo,” cô ngao ngán nhận xét. “Đáng lẽ tôi phải mang thêm đồ dày hơn.”

“Cô còn cần gì thêm ngoài quần, một cái áo sơ mi, phù hiệu và súng chứ?”

“Với phụ nữ thì khác, Decker à.”

Jamison lái xe trong khi Decker nhập thông tin vào phần mềm chỉ đường trên điện thoại của anh. Rồi anh ngả lưng ra sau quan sát con đường vùn vụt trôi qua. Lúc này là sáu giờ tối, và họ đang chạy thẳng vào cơn bão đang hình thành. Những đám mây đen kịt đáng ghét nhô lên phía trước họ như một con trăn lừng lững vươn mình sắp sửa làm chuyện gì đó đáng sợ trên dải đất miền thượng Trung Tây này.

“Irene Cramer,” Decker nhẹ giọng nói trong khi họ chạy xe.

Jamison gật đầu và nét mặt cô trở nên nghiêm nghị. “Được một người đang lần theo một con sói phát hiện ra đã chết giữa nơi hoang vu.”

“Đáng chú ý hơn cả là có vẻ xác nạn nhân đã bị giải phẫu”

Decker nói thêm.

“Lần đầu tiên tôi gặp chuyện này đấy. Với anh thì sao?”

“Tôi từng thấy qua những thi thể bị cắt xẻ, nhưng không giống mấy bức ảnh này. Hiện trường vụ án hoàn toàn sạch sẽ, ngoại trừ bãi nôn của gã kia.”

“Một kẻ giết người hàng loạt chăng? Có phải vì thế chúng ta nhận được cuộc điện thoại? Bogart chẳng nói gì mấy.”

Ross Bogart là trưởng nhóm điều tra nhỏ của họ. Anh đã ra lệnh cho hai người tới Bắc Dakota sau cuộc phổ biến tóm tắt nhiệm vụ ngắn nhất trên đời.

“Có thể.”

“Khi nói chuyện với anh, giọng Ross nghe có lạ không?” Jamison hỏi. “Khi anh ấy nói với tôi thì có đấy.”

Decker gật đầu. “Anh ấy không thể nói với chúng ta điều mà anh ấy muốn cho chúng ta biết.”

“Làm sao anh biết vậy?”

“Ross là một người thẳng thắn phải nghe lệnh của những tay đầy toan tính chính trị.”

“Tôi không thích những bí ẩn ở cả hai đầu của một cuộc điều tra.” Jamison cằn nhằn.

“Tôi nghĩ đây không nhất thiết là một gã giết người hàng loạt.”

“Tại sao không?”

“Tôi không tìm ra thông tin nào khớp với vụ này trong cơ sở dữ liệu. Tôi đã kiểm tra trước khi chúng ta bay.

“Có thể là một nhân vật mới.”

“Những tay mới thường không phức tạp tới mức này.”

“Có thể hắn đang cố gắng tạo dựng tên tuổi cho bản thân” Jamison chỉ ra.

“Tất cả bọn chúng đều cố tạo dựng tên tuổi cho bản thân,” Decker trả lời.

“Nhưng người ta không mời Cục vào cuộc vì một vụ án mạng địa phương”

“Tôi nghĩ chúng ta cần chú trọng vào nạn nhân chứ không phải kẻ sát nhân.”

“Anh tin rằng Irene Cramer quan trọng với Cục vì lý do nào đó chăng?”

“Và điều đó có thể giải thích cả sự kín miệng của Bogart.”

“Bất chấp điều đó, rõ ràng chúng ta đang đối diện với một tên sát nhân có kỹ năng pháp y.”

“Đặc điểm này có thể áp dụng cho không ít người, bao gồm cả những người thuộc phía chúng ta.”

“Biết đâu là một điều tra viên pháp y biến chất?" Jamison đề xuất.

Decker trông có vẻ không chắc chắn. “Tìm video trên YouTube quay lại cảnh cắt xẻ ma-nơ-canh thì đơn giản thôi. Nhưng báo cáo viết những vết cắt được thực hiện một cách chuyên nghiệp.”

“Anh nghĩ gã này từng... gì nhỉ, thực hành sao?”

“Tôi chẳng nghĩ gì hết, ít nhất là ngay lúc này.”

“Anh có nhận thấy xa lộ ở đây toàn là bê tông không?” Jamison nói, liếc mắt nhìn qua cửa xe.

“Nhựa đường có vẻ không trụ được tốt trong những điều kiện cực đoan ở đây,” Decker nhận xét. “Cho dù tôi cũng không chắc bê tông bền được đến mức nào.”

“Ái chà, anh quả là một mỏ thông tin.”

“Tôi có thể tra Google hệt như bất cứ ai khác mà.”

“Chúng ta còn phải chạy xe thêm bao lâu nữa?” Jamison hỏi.

Decker liếc nhìn màn hình điện thoại. “Cỡ bốn mươi lăm phút, gần tới biên giới Canada.”

“Vậy tôi đoán đó là cảng hàng không gần nhất rồi.”

“Tôi nghĩ đó là cảng hàng không duy nhất ở vùng này.”

"Hôm nay là một ngày dài mệt nhọc rồi.”

“Và chắc là tối nay còn dài đấy.”

“Anh định bắt đầu cuộc điều tra ngay tối nay sao?” Cô nói, có chút khó tin.

Decker dành cho người đồng nghiệp một cái nhìn nghiêm khắc. “Alex, bắt đầu sớm chẳng bao giờ hại cả. Nhất là khi có một người không đáng phải chết đã lìa đời.”