⚝ 4 ⚝
H ỏng bét, xem ra mình đã nói lời không đúng rồi.
Lôi Dung nghĩ trong lòng, nhưng lòng dạ cực thâm sâu, cô chỉ mỉm cười với vẻ điềm đạm, dùng phong thái như thể để đối mặt với sự cười nhạo xảy đến đột ngột.
“Cô Lôi Dung, cô không biết rồi.” Tu Thúc giải thích, “Vừa nãy lão Từ gọi tôi là Quách tiên sinh, không phải do tôi họ Quách, mà vì ngành phong thủy tướng trạch đã được sáng lập nên bởi học giả trứ danh thời Đông Tấn là Quách Phác, nên kể từ đấy mọi người gọi chúng tôi là Quách tiên sinh thôi.”
Đây là kiến thức mà Lôi Dung chưa từng nghe qua, vì vậy cô hết sức tò mò, “Nghe lời bác già Từ nói, hình như các ông còn được chia làm tiểu Quách tiên sinh và đại Quách tiên sinh gì nữa phải không? Điều này có gì khác nhau không ạ? Chẳng lẽ một người thì phụ trách chọn dương trạch, còn một người thì giúp chọn âm trạch?”
Tu Thúc lắc đầu, “Không phải đâu, mặc dù rất nhiều người cho rằng thầy kham dư và thầy phong thủy là giống nhau, nhưng những năm gần đây trong ngành chúng tôi cũng đã hình thành nên sự phân chia: người chọn mộ địa cho người chết được gọi là thầy kham dư, còn người chọn đất ở cho người sống thì được gọi là thầy phong thủy. Thầy phong thủy cũng được chia làm hai dạng, một dạng chuyên chọn địa điểm để xây nhà, và đề xuất ý kiến sửa đổi đối với chuyện cây cảnh trong nhà và hệ thống nước, phương vị của cửa và cửa sổ, lắp đặt nội thất, bố trí đặt vật dụng, từ đó khai vận hóa sát, dạng này vẫn được gọi là thầy phong thủy theo thói quen; dạng còn lại là khi trong nhà từng có người đột tử, sau đó có hộ mới muốn vào ở, để đề phòng bị hung linh quấy rối, người đặc biệt đến để đuổi trừ hoặc xoa dịu hung linh, được gọi là Quách tiên sinh. Sự khác biệt giữa tiểu Quách tiên sinh và đại Quách tiên sinh là ở chỗ, tiểu Quách tiên sinh thuộc phái Hình pháp , còn đại Quách tiên sinh thì thuộc phái Lý khí .
Lôi Dung nghe mà thấy lơ mơ, “Nhưng theo tôi thấy, thì hình như ông chưa giải thích rõ, ông chỉ giải thích một khái niệm vốn đã khá xa lạ bằng một khái niệm càng xa lạ hơn nữa.”
Tu Thúc nói, “Pháp y Lôi đúng thật là tra hỏi đến tận gốc rễ, phong thủy học Trung Quốc có cực kỳ nhiều trường phái, như phái Bát trạch , phái Ngũ hành , phái Phiên quái , phái Kỳ môn gì đó, nhưng nói cho cùng, thì chỉ có hai phái lớn: phái Hình pháp và phái Lý khí , để tôi nghĩ xem nên nói thế nào cho cô dễ hiểu một tí... Cô xem qua Tiếu ngạo giang hồ chưa?”
“Dĩ nhiên là rồi.”
“Kiếm pháp của Hoa Sơn phái được chia làm hai trường phái lớn: Kiếm tông và Khí tông , đúng chứ?”
“Vâng”
“Phái Kiếm tông chủ yếu luyện chiêu thức kiếm và tập kiếm pháp, một lòng rèn kỹ năng bên ngoài, giành chiến thắng bằng kỹ xảo kiếm thuật; còn phái Khí tông chủ yếu luyện khí công và tu nội lực, trước sau giữ thế thủ và áp chế địch bằng nội công thuần phác. Phái Hình pháp chính là Kiếm tông , họ nhấn mạnh việc khảo sát các điều kiện dẫn đến sự hình thành của hung trạch từ đủ các loại nguyên nhân bên ngoài, thông qua việc thay đổi việc bố trí đặt các vật dụng hoặc bố cục xây dựng trong hung trạch để đạt được mục đích “yên trạch”; còn phái Lý khí chính là Khí tông , tìm tòi nguyên nhân bên trong hình thành nên hung trạch, coi trọng trừ bỏ ác khí, xua đuổi hung linh, hóa hung trạch thành cát địa .”
“Nói vậy thì, chắc chắn ông là đại Quách tiên sinh rồi.”
Tu Thúc sững người, “Làm sao cô biết?”
Lôi Dung cười nói, “Ông bảo rằng Kiếm tông một lòng vụ ngoại, Khí tông thì chấp ý thủ trung, người xưa có câu: vụ ngoại phi quân tử, thủ trung đại trượng phu, ắt hẳn ông sẽ không tự đội chiếc mũ ‘phi quân tử lên đầu mình.”
Tu Thúc khẽ chắp tay bảo, “Cô Lôi Dung đây quả nhiên là thông minh sáng suốt hơn người! Nhà tàng thư Đinh Nhuế Phác thời Thanh từng nói trong sách Phong thủy khu hoặc rằng: “Thuật phong thủy, đại để không nằm ngoài hai nhà Hình pháp, Lý khí , những người ở thời Đường Tống, ai cũng được thu nhận riêng bởi các tông phái khác nhau, không dùng chung lẫn nhau, cả nghìn năm nay, đại Quách tiên sinh và tiểu Quách tiên sinh tựa như thù địch với nhau, có hắn thì không có ta, có ta thì không có hắn, việc tẩy dọn hung trạch chỉ có thể mời một nhà, tuyệt không thể mời cả hai nhà. Từ thời Dân quốc trở về sau, theo dòng du nhập của cái được gọi là khoa học hiện đại, tiểu Quách tiên sinh bắt đầu được ưa chuộng, nhưng những năm gần đây, đại Quách tiên sinh chúng tôi thì dường như ngày càng được chào đón hơn.”
“Vì sao lại như thể ạ?” Lôi Dung hỏi.
“Với tiểu Quách tiên sinh thì, sở dĩ có chữ ‘tiểu, là để hình dung rằng kỹ năng của họ, chẳng qua chỉ là những kỹ xảo dị thường động tác nhỏ, mánh lới nhỏ mà thôi, sao có thể so được với đại Quách tiên sinh, người truy cứu đến cùng nguyên nhân bên trong phân biệt các loại khí và hóa giải sát, đến quỷ thần cũng không sao dò nổi!” Nói đến đây, mỗi sợi râu của Tu Thúc đều giương hết lên.
Lôi Dung không ngốc, chỉ có điều thi thoảng cô lại bị lệch pha, thốt ra những câu nói làm người ta trở tay không kịp, dở khóc dở cười, như lúc này đây, thình lình bật ra câu, “Sao tôi lại nhớ là Phong Thanh Dương, người lợi hại nhất Hoa Sơn phải là người thuộc Kiếm tông mà?”
Vừa nghe xong, ngũ quan trên mặt Tu Thúc co lại thành hình chữ “quýnh” [6E] , qua một hồi lâu lắm mới nén trầm giọng xuống mà nói, “Hừ... nếu không phải vì tiểu Quách tiên sinh vô dụng, thì đã không đến nỗi làm cho Phong Chi Thự thoáng cái chết nhiều người như vậy!”
“Tu Thúc!”
Lưu Tiệp và Cục phó Tần không hẹn mà cùng gọi.
Giọng của họ đều khẩn thiết và sợ hãi, rõ ràng là nhìn thấy một lỗ hổng chưa từng nghĩ tới xuất hiện trên đê, muốn lấp mà muộn rồi.
Những người khác trong phòng đều hiện lên vẻ mặt hoảng hốt.
Một cách nhạy bén, Lôi Dung phát hiện ra rằng, chuyện mà Tu Thúc nhắc đến có lẽ chính là sự kiện khủng khiếp dẫn đến sự “hy sinh toàn bộ trên mặt trận công tác” của tiểu đội công nhân vệ sinh đặc chủng trước đó.
Rốt cuộc thì sự kiện ấy là gì? Vì sao họ phải giữ kín bưng như thể?
Lôi Dung hiểu rằng, khi một nhóm người muốn cùng nhau bảo vệ một bí mật, phương pháp phá vỡ tốt nhất không phải là đặt câu hỏi công khai mà là dò hỏi riêng tư, vì muốn bảo mật thì cần phải có sự kiềm chế và nghị lực, nhưng tiết lộ bí mật thì về mặt ý nghĩa nào đó, lại là bản năng của loài người. Do vậy, cô không vội tung mối nghi vấn trong lòng mình, mà đặt một câu hỏi khác cho Tu Thúc, “Được thôi, quả thực tôi không biết một tí gì về ngành nghề này của các ông, thế nhưng... xin thứ lỗi tôi nói thẳng, phạm vi nghiệp vụ của các ông chẳng phải rất hẹp, số lượng nghiệp vụ chẳng phải cũng rất ít hay sao, có bao nhiêu người sẽ gặp phải hung trạch khi mua nhà cơ chứ?”
“Pháp y Lôi, cô nhầm rồi.” Bỗng nhiên La Khiêm đứng dậy nói, dường như gã cảm thấy mình hơi thất thố, bèn cười hì hì hai tiếng với mọi người, “Lúc nãy Sở phó Lưu đã nói ra một số liệu, không biết cô có để ý hay không, ở thành phố chúng ta, bình quân mỗi ngày xảy ra khoảng một vụ án giết người trong nhà, như vậy sẽ tạo ra gần 400 căn hung trạch trong một năm, mời đại Quách tiên sinh và tiểu Quách tiên sinh, “phí cát-xê” một lần thôi đã là sáu nghìn tệ, nhưng nhà nào mua hung trạch cũng không dám tiết kiệm khoản chi này, cộng thêm việc ở thành phố tỉnh lỵ này của chúng ta, tổng cộng đại Quách tiên sinh và tiểu Quách tiên sinh chỉ có hai người thôi, mà tiểu Quách tiên sinh thì lại... vì vậy, số lượng nghiệp vụ không phải là rất ít, mà là làm không kịp.”
Lúc này Lôi Dung mới ý thức được rằng, mỗi năm 400 căn hung trạch thật sự không phải là con số nhỏ, còn nhớ dạo trước cô từng thấy trên tin tức, một công ty địa ốc có tiếng ở Bắc Kinh đã xây dựng một kho số liệu hung trạch rất toàn diện, theo thống kê, số lượng hung trạch của toàn Bắc Kinh là... bao nhiêu căn ấy nhỉ?
Nói xong những lời này, La Khiêm nhìn Tu Thúc, dường như mong nhận được một, hai câu tán thành từ ông ta, nhưng Tu Thúc lại không nhìn gã lấy một lần, gã đành hậm hực ngồi xuống.
“Chú em La nói không sai.” Mãi đến lúc này Tu Thúc mới chầm chậm cất lời, “Từ sau khi tiểu Quách tiên sinh làm hỏng chuyện đến giờ, đại Quách tiên sinh tôi đây bận đến nỗi chỏng bốn vó lên trời, ngoài việc trừ tà ra, còn lãnh thêm một nhiệm vụ đặc biệt từ nơi Sở phó Lưu và Cục phó Tần, hôm nay vốn dĩ định báo cáo một chút với mọi người, nhưng ai ngờ vì sự đến trễ của tôi, làm cho bao nhiêu bạn bè muốn bỏ đi không nói một lời, thật sự muôn phần xin lỗi!”Ngay lập tức, trong phòng vang lên một tràng tiếng nói cuống quít, “Tu Thúc, ông khách sáo quá”, “Không phải là chúng tôi bỏ đi không nói một lời đâu, chỉ là uống nhiều nước quá nên muốn đi vệ sinh thôi”, “Nào có chuyện thông cảm với không thông cảm, đều là bạn bè...”
Tu Thúc nghe xong những lời này với khuôn mặt không chút cảm xúc, rồi đi thẳng một mạch đến trước mặt gã chuyên gia xử lý vật phẩm hóa sinh nguy hiểm nọ, cúi khom lưng xuống, nhìn vào mắt gã nói, “Ban nãy tôi nghe anh Triệu Long nói, anh là người theo chủ nghĩa duy vật, không thể tin rằng sau khi con người chết đi sẽ có hồn ma gì đó, càng không thể tin rằng có hung linh gì đó đi hại người, có phải vậy không?”
Trên người Triệu Long không còn một tí khí thế ngạo mạn nào lúc nãy nữa, gã co rụt trên ghế như một đứa con dâu nhỏ bị ức hiếp, nhưng vẫn ráng gắng gượng lấy thể diện, “Tu Thúc, ông trông này, tôi đang đứng ở góc độ là một người làm công tác nghiên cứu khoa học để thể hiện quan điểm của mình với tư cách là một chuyên gia...”
Tu Thúc khẽ nhấc cặp kính mắt, lưng khom xuống thấp hơn, mặt áp lại gần hơn một chút nữa, “Thế thì, nếu đứng ở góc độ của một người bình thường, thì anh nhìn nhận như thể nào?”
Triệu Long khép chặt môi lại, môi dưới gắng sức bặm chặt lên trên, không nói một lời. Bóng của Tu Thúc phủ lên trên mặt gã, làm gã hiện lên với vẻ ảm đạm khôn cùng, một quả đầu trông cứ như thể đã bị gác lên trên máy chém vậy.
Tu Thúc cười lạnh lùng, đứng thẳng lưng nói, “Anh Triệu Long không nói gì, không có nghĩa là trong lòng anh đã chịu phục, con người mà, giữa cái vẻ hiện ra trên mặt với điều trong lòng, vốn dĩ đã khó bề ăn khớp đồng nhất với nhau, tôi sẽ không so bì, càng sẽ không để tâm, lúc nãy khi quý vị đứng dậy muốn bỏ đi, đã thêm cho tôi một tràng tước vị, mê tín phong kiến, ngụy khoa học gì đấy, vậy mà tai tôi lại thính, đã bị ngăn bởi cánh cửa mà vẫn nghe thấy rõ mồn một, từ trong thâm tâm tôi biết, đây cũng không phải là suy nghĩ thật sự của mọi người. Tuy nhiên, với tư cách một đại Quách tiên sinh, tôi vẫn muốn kể cho mọi người nghe, công việc này của chúng tôi rốt cuộc có phải là lừa tiền hay không…”
La Khiêm vừa thốt lên một câu “Sao có thể chứ”, bỗng gã nhận ra lời xen vào này thật không phù hợp, vội vàng ngậm miệng lại.
“Quý vị có lẽ đã nghe nói về Hoàng đế trạch kinh rồi nhỉ? Quyển sách này là trứ tác kinh điển về người và môi trường kiến trúc, nhà phong thủy nhất định phải học thuộc lòng, mới có thể ra trận được.” Tu Thúc vừa thả bộ đi lại trong phòng họp vừa nói, “Chữ ‘Trạch này, có nghĩa gốc là nơi để ký thác, trong phần mở đầu của Hoàng đế trạch kinh có nói: Phu trạch giả, nãi âm dương chỉ khu nữu, nhân luân chi quỹ mô, nhân chi trạch nhi lập, trạch nhân nhân nhi tồn, nhân trạch tương phù, cảm thông thiên địa, cố bất khả độc tín mệnh dã [7E] nghĩa là sao? Quý vị chỉ cần chú ý đến câu cuối cùng là được, con người không thể chỉ một lòng tin vào số mệnh, làm cho đúng chuyện nhà ở, thì đến vận mệnh cũng có thể đảo ngược, đủ thấy là chuyện này không thể bị xem thường. Vậy thì, phong thủy nhà ở thật sự có sức mạnh lớn như thể sao? Đương nhiên rồi! Người xưa từ lâu đã hiểu rằng, môi trường nhà ở có mối liên quan mật thiết đến sức khỏe, khí vận, thậm chí là có khi chuyện sinh tử của con người. Trước hết hãy nói về chuyện chọn địa điểm: trong Tả truyện có nói: Tử chi trạch cận thị, thu ải ngao trần, bất khả dĩ cư , nghĩa là nhà ở nằm gần khu chợ náo nhiệt, vừa ồn ào phức tạp, vừa nhiều đất bụi, không thích hợp để ở; trong sách Dương trạch toát yếu có nói: Đàn tế, cổ mộ, cầu kiều, nhà bia, một khối sát khí hiểm hóc; bốn bề hoang vu, không một bóng người, một vùng đãng khí; núi trống nhà vắng chỉ độc nhất một thôn làng, một phái khí u ám mịt mù , những nơi này đều không phải là nơi thích hợp để xây nhà sinh sống. Lại nói về xây cất nhà cửa: trong sách Hoàng đế trạch kinh có nhắc đến ngũ hư , cần tuyệt đối tránh: nhà to người ít, nhất hư; cửa nhà to mà trong nhà nhỏ, nhị hư; tường vách không xong, tam hư; giếng bếp không gần nhau, tứ hư; đất trạch nhiều mà nhà ốc nhỏ, sân vườn rộng, ngũ hư , còn cả phương hướng cửa sổ, tỉ lệ giữa phòng khách và phòng ngủ, màu sắc của tường nhà, thì càng phải chăm chút nhiều hơn nữa, hễ có chút sơ suất thôi là có thể dẫn đến tai họa. Cả chuyện xanh hóa vườn nhà: sách Trạch phổ thông ngôn có chép: cành nghiêng hướng cửa, khóc lóc tang hồn; cửa đối cấy không, ho hắng bầm bệnh [8E] . Sự kiện tử vong liên tiếp xảy ra tại viện dưỡng lão Phong Thụ Lĩnh, vừa đúng có thể chứng tỏ cho lý thuyết này.”
Lôi Dung nghe thấy thì thích thú, cô vốn cứ tưởng chuyện mua nhà chẳng qua chỉ là chuyện lựa một phương hướng và tầng lầu thôi, không ngờ bên trong có nhiều thứ phải coi trọng như thể, mặc dù những điều mà Tu Thúc nói đến phần nhiều để chỉ chuyện xây cất nhà mái bằng thời xưa, nhưng nghĩ kỹ một chút thì, quả thực là có lý, ví dụ như chuyện “ngũ hư”, dĩ nhiên cũng có cái mà cô không hiểu lắm: cành cây trong sân vườn nghiêng hướng vào cửa mà có thể chết người, đâu có nghiêm trọng đến thế...
Tuy nhiên, “Sự kiện tử vong liên tiếp xảy ra ở viện dưỡng lão trên Phong Thụ Lĩnh”, là chuyện như thể nào?
“Có lẽ có người sẽ nói, trong phong thủy có bao hàm cả các lý lẽ khoa học nhất định, cái đấy còn chấp nhận được, nhưng bọn Quách tiên sinh chuyên môn phụ trách việc xua đuổi hung linh trong hung trạch các ông, thì lại là mê tín từ đầu đến đuôi. Đại sai thay! Đại sai thay! Phần mở đầu của Hoàng đế trạch kinh có nói: Phàm nhân sở cư, xô bất tại trạch. Tuy chỉ đại tiểu bất đẳng, âm dương hữu thù, tung nhiên khách cư nhất thất chỉ trung, diệc hữu thiện ác. Phạm giả hữu tai, thận nhi họa chỉ, do dược bệnh chỉ hiệu dã . Không khó để lý giải ý nghĩa của lời này: Nhà có lớn nhỏ khác nhau, hai khí âm dương cũng có khác biệt, nhưng chỉ cần có người ở trong ấy, thì sẽ sinh ra hành động tốt hoặc cử chỉ xấu, nhưng hễ đã giết người trong nhà thì sẽ tạo thành sát khí, nhất định phải khử sát trấn tà thì mới có thể chấm dứt được tai họa.” Tu Thúc nói, “Dựa trên tác dụng khác nhau của khí đối với người cư ngụ, người xưa chia khí làm sinh khí và ‘sát khí, phàm là những gì có ích cho thân thể và tâm hồn của người cư ngụ thì tức là sinh khí, trái lại, những thứ có hại cho thân thể và tâm hồn của người cư ngụ thì tức là ‘sát khí, nói cho cùng thì hung linh chính là oan hồn không mất đi được của người chết bất đắc kỳ tử, oán khí không đi mà thành một luồng sát khí ứ đọng trong nhà…”
“Càng nói càng vớ vẩn.”
Một tiếng nói đột ngột vang lên trong phòng, tràn đầy sự khinh bỉ và coi rẻ, có lẽ vì tất cả mọi người ở đây đều có một sự kính nể không sao hiểu được dành cho Tu Thúc, vì vậy khi tiếng nói này phát ra, như thể trong một buổi tụ họp fan của một ca sĩ nào đó, ai đó đã đột ngột gào lên một câu “Không lẽ các người đều không nhận ra hắn bị lệch tông sao”, ngay trong tích tắc, nó như một tấm bia bắn tên, thu hút vô số ánh nhìn khiển trách.
Nhưng Lôi Dung lại nảy sinh niềm hứng thú đối với tiếng nói lệch tông này, nhìn theo hướng nguồn tiếng nói phát ra, chỉ thấy một người đàn ông tầm hơn bốn mươi tuổi, trên khuôn mặt đầy râu rậm rạp, có đôi con ngươi to như thể mắt bò, khuôn mặt đầy nanh ác trông như từng miếng mì chưa lên men mọc lồi lên, mũi hơi đỏ, cặp môi dày cộm không che được chiếc răng cửa hơi gồ ra ngoài, dưới tai phải có một vết sẹo dao chém rất dài, từ mang tai kéo dài ra xiêu xiêu vẹo vẹo chạy suốt vào trong cổ áo, cứ tựa như đã xăm lên da ba chữ “không quan tâm”.
Lúc nãy nghe Cục phó Tần giới thiệu, người này tên là Bộc Lượng, hình như là trưởng đồn cảnh sát nào đấy, Lôi Dung bất giác nhớ đến người bạn thân của mình - Mã Tiếu Trung, trưởng đồn cảnh sát Vọng Nguyệt Viên. Mã Tiếu Trung có lẽ là trưởng đồn cảnh sát nổi tiếng nhất Bắc Kinh, anh ta là một người béo thấp, miệng hơi méo nhẹ, khắp người từ trên xuống dưới đều cà lơ phất phơ, cả một bụng toan tính xấu, trong đầu đầy những ý tưởng tồi, mũ cảnh sát trên đầu chưa bao giờ đội ngay ngắn được ngày nào, với các phần tử phạm tội hình sự, gã ra tay cực ác, nhưng đối với các bà con chú bác trong khu vực thì lại nhiệt tình nồng ấm đến mức như thể người trong nhà... Cái người tên là Bộc Lượng trước mắt đây, có cái đà ác ấy của Mã Tiếu Trung, nhưng lại không có sự láu cá gian xảo của Mã Tiếu Trung, có vẻ hơi “đơ” hơn một chút.
“Anh nói cái gì?” Tu Thúc đứng lại, nhìn sững Bộc Lượng.
Bộc Lượng hất cằm, “Tôi bảo là ông càng nói càng vớ vẩn!”
Trong phòng họp, có vài người nhìn vào ánh mắt của Tu Thúc, tuy vẫn cung kính như trước, nhưng lại không che giấu được một niềm vui trên nỗi đau của người khác.
Tu Thúc không mảy may rối trí, “Tôi nói vớ vẩn chỗ nào? Nguyện nghe tỏ tường.”
Dường như Bộc Lượng không mấy hiểu “nguyện nghe tỏ tường” nghĩa là gì, anh ta liếc mắt nhìn Tu Thúc rồi nói, “Ông tán hết cả nửa ngày trời, tôi thì ít học, nói thực là nghe không hiểu lắm, dù gì cũng là những thể văn văn ngôn thôi, những thứ mà người xưa viết, điều nào điều nấy đều là anh thứ tư trong Bách gia tính [9E] - hàng loạt lý lẽ. (Họ Lý). Nhưng trong quá khứ, tôi xuất thân từ đại đội cảnh sát hình sự của thành phố, tôi không dám nói ngoa là đã có mặt ở tất cả hiện trường án mạng trong những năm ấy, có mười phần thì cũng đã đi hết tám, chín phần, từng thấy qua xác chết, từng giẫm lên vũng máu, nhặt qua tàn thi thể, đào lấy cả xương sọ... có nơi khủng khiếp rùng rợn nào mà tôi chưa từng bước vào? Nhưng trước giờ tôi vẫn chưa thấy qua hung linh nào cả, ông thấy nhà nào từng có người chết thì đều biến thành tivi màn hình phẳng hết cả hay sao? Từ trong bức tường nào cũng có thể bò ra được một cô Sadako [10E] à?”
Trong phòng vang lên một tràng cười rúc rích.
“Ồ!” Tu Thúc khẽ nâng gọng mắt kính, “Thì ra anh là cảnh sát, cảnh sát là nhân viên công vụ, có câu ‘ Nóc nhà nha môn ba thước gió ’, hung linh có oán khí tại tâm, không đòi mạng thì không buông xuôi, thủ đoạn đòi mạng thường thảm khốc cùng cực, sau khi xuống dưới kia rồi, phần lớn đều bị tuyên xử khổ hình ở điện Diêm La, vì vậy chúng rất ít khi vướng lụy với người của công ở dương thế, tránh chịu tội thêm lần thứ hai, cho nên chuyện anh không nhìn thấy được là rất bình thường.”
“Nói vậy, người xưa từng thấy qua thật hả?”
“Từng thấy qua thật.”
“Được thôi!” Điệu bộ Bộc Lượng như muốn sống mái đến cùng, “Thế ông nói cho tôi nghe xem thời xưa từng có những căn hung trạch nào, lần lượt từng xảy ra những chuyện hung linh làm hại người nào, nói trước, phải có xuất xứ, có tên có họ, không được là chuyện ma trong Liêu Trai, không được là chuyện mà ông tự biên xằng chế bậy, ông nói được ba chỗ, tôi sẽ chịu thua ngay lập tức!”
Trong một thoáng, khắp phòng họp lặng ngắt như tờ, tất cả đều nín thở lặng nhìn theo Tu Thúc, bầu không khí đè nén nặng nề đến nỗi như đồng cỏ lặng ngắt trước trận bão tố.
Có lẽ, thật sự có một trận bão tố đang được ấp ủ ngoài kia?
Lôi Dung nhìn căn phòng không có cửa sổ này, lại nhớ đến bầu trời xám mờ mịt mà cô nhìn thấy trên đường đến nơi ở của Đường Tiểu Đường sáng nay.
Tu Thúc nhìn Bộc Lượng, ánh mắt bình lặng như mặt ao đầm xưa, “Về hung trạch, từ xưa đã có thuyết ‘tứ tam, có nghĩa là chia làm bốn loại, những hung linh tác quái cũng có ba loại. Thế thì tôi sẽ nhận lời yêu cầu của anh, thuật lại tỏ tường cho anh hay về những hung trạch có thật được ghi chép trong các cổ thư thuộc loại sử liệu, anh cứ lấy điện thoại ra, mở trang Baidu [11E] , tôi nói đến phần nào, anh tra đến phần đấy, nếu có nói sai một từ, hay có bịa đặt một trường hợp nào, thì xem như tôi thua.”
Bộc Lượng không chút khách sáo, lần mò lôi từ trong túi quần ra một chiếc điện thoại màn hình rõ to, đặt lên bàn, mở trang Baidu lên.
“Trong mắt người ngoài, hung trạch không là gì ngoài một ngôi nhà từng xảy ra án mạng, nhưng thời xưa ở Trung Quốc từng phân chia chúng thành bốn loại.” Tu Thúc tiếp tục bước chậm rãi, “Loại thứ nhất gọi là ‘ Quan hung trạch ’, tức là nhà bất lợi đối với viên quan đang cư ngụ, trong Thái Bình quảng ký có nhắc đến một người tên là Viên Gia Tộ, nhậm chức Huyện thừa huyện Viên, ai ngờ quan trạch của viên huyện thừa ấy là một căn hung trạch, ‘ vi giả tận tử, sác nhiệm xô nhân cư, ốc vũ thôi tàn, kinh cức sung tắc ’ [12E] . Viên Gia Tộ trước nay luôn ngay thẳng trong sạch, ‘ tiễn kì kinh cức, lí kì tường viên ’ [13E] , trấn áp được luồng khí hung sát. Loại thứ hai được gọi là ' Nghịch lữ hung ', nghịch lữ là lữ quán, lữ quán từng xảy ra án mạng, hung linh có oán khí quá thịnh, làm bất lợi đến tất cả lữ khách đến ở trọ. Ngu Sơ tân chí chép, vào đầu thời Khang Hy, tại một lữ quán ở ngoại thành Thiên Tân, có vị lữ khách đến ở trọ, gặp ngay lúc đông khách hết phòng, chủ quán bảo ‘ kì hậu nhất thất, dạ đa quỷ ’ [14E] , làm nhiều khách sợ mà bỏ đi, do vậy, đến tận lúc ấy vẫn bỏ không, không ai dám ở. Lữ khách bảo là không sợ, sau đó anh ta ‘ thủ bút đồ xích diện, trước bào hoa, trang Quan Công ’ [15E] , đêm khuya tĩnh mịch, đột nhiên một thiếu phụ tóc dài phủ kín mặt bước ra từ sau giường lò kêu oan, hôm sau anh ta tháo dỡ gạch giường lò ra, phát hiện một xác chết phụ nữ bị chôn ở dưới, đó là người tiểu thiếp bị giết hại bởi chủ nhà trước đó.”
Những điều mà Tu Thúc nói, những người trong phòng chưa từng nghe qua, trong nháy mắt ai nấy đều nghe mà thấy hứng chỉ ngời ngời, chỉ có Bộc Lượng là dùng đầu ngón tay vừa ấn vừa lướt trên màn hình điện thoại.
“Loại thứ ba là loại thường gặp nhất, cũng chính là loại mà bình thường hễ nhắc đến hai chữ hung trạch là chúng ta sẽ nghĩ ngay đến, chính là ‘ tư trạch hung ’. Có tội phạm giết người xông vào nhà, hoặc trong nhà tự dấy lên tranh chấp nội bộ rồi chém giết lẫn nhau, hoặc là tự mình nghĩ quẩn không thông suốt rồi treo cổ tự vẫn, một xác chết trong nhà, thì trong nhà sẽ có thêm một hung linh, căn nhà ấy cũng tự nhiên trở thành hung trạch, dĩ nhiên là chết vì bệnh hay những cái chết tự nhiên khác thì không tính. Sự đáng sợ của hung trạch, không nằm ở chỗ từng có người chết, cho dù một căn nhà từng có hàng trăm hàng nghìn người chết đi nữa, nếu không có hung linh tác quái, thì cũng không được xem là hung trạch, cùng lắm chỉ là một ‘ chuẩn hung trạch ’, chỉ có những căn xảy ra sự cố tử vong hoặc gây thương tích thì mới là hung trạch theo đúng nghĩa.”
Bất giác Lôi Dung nhớ ra, trên đường đến đây, Lưu Tiệp cũng từng nêu qua quan điểm tương tự với Tu Thúc, nếu nói vậy thì, chí ít về sự lí giải đối với từ ‘ hung trạch ’ này, Lưu Tiệp chịu ảnh hưởng sâu sắc từ Tu Thúc.
Tu Thúc tiếp tục nói, “Về ‘ tư hung trạch ', những án lệ trong lịch sử thực sự nhiều không đếm xuể, thế nên tôi sẽ không nếu ví dụ nữa...”
“Này này!” Bỗng nhiên Bộc Lượng nhấc đôi mí mắt hơi sưng phủ lên, “Hai ví dụ mà ông nêu lúc nãy, tuy không xuất xứ từ Liêu Trai, nhưng cũng không phải sử liệu chính quy gì đâu nhỉ, nếu như ông đã bảo tiền lệ của ‘ tư hung trạch ’ rất nhiều, thì lấy hai ví dụ từ trong sử liệu có độ tin cậy cao hơn ra xem nào!”
“Độ chân thật trong đã sử tư gia, thì nhất định sẽ ít hơn so với chính sử sao? Chưa chắc đâu. Tuy nhiên, cứ tạm thời nghe theo lời hạn định của ông. Đã từng nghe về Triều dã thiêm tải chưa? Đấy là một quyển bút ký được viết bởi học giả thời Đường là Trương Trạc, về sau rất nhiều nội dung trong đó được trích dẫn lại trong Tư trị Thông giám , mức độ uy tín và đáng tin cậy rất cao. Trong đó có nhắc đến chuyện, có một người tên là Trịnh Tòng Giản, trong nhà anh ta lúc nào cũng có chuyện kỳ lạ xảy ra, người trong nhà không mắc bệnh thì cũng gặp tai nạn ngoài ý muốn, thế là Trịnh Tòng Giản mời một thầy phù thủy đến điều tra, phát hiện ra một thi thể dưới nền nhà phòng khách, đó là một người họ Khấu, bị chủ nhà trước đó giết hại rồi chôn dưới đất, ‘ di xuất cải táng, ư thị toại tuyệt ’ [16E] . Tu Thúc trưng ra điệu bộ gặp đòn đỡ đòn, ung dung thong thả, “Còn cả Vạn lịch dã hoạch biên , tập bút ký viết bởi Thẩm Đức Phù, vị này học rộng, có sở trường khảo chứng, Vạn lịch đã hoạch biên xứng danh là bách khoa toàn thư của thời nhà Minh, bấy lâu nay đều được giới nghiên cứu sử học coi trọng, ông không những cho rằng Địa lý cát hung, thời diệc hữu nghiệm ’ [17E] , hơn nữa trong sách còn ghi chép về hung trạch ở nhiều nơi, ‘ tín hồ hình gia chỉ thuyết bất vu ’ [18E] , trong đó nơi có tiếng nhất là nhà của viên sử quan Thẩm Tông Bác, lúc Thẩm Tông Bác mới vào ở, ông ta cảm thấy nhà rất rộng rãi, sạch sẽ gọn gàng, chỉ có một chuyện rất kỳ lạ, cứ đến tối, thắp nến lên, lúc nào ánh nến cũng rất yếu ớt, ‘ gia chí thập số cự diệc nhiên ’ [19E] , trong căn nhà tối nghìn nghịt đầy bóng lạ đung đưa, làm bất an lòng người, vừa hay hàng xóm của Thẩm Tông Bác là bố của Thẩm Đức Phù, bố ông ta cảm thấy e là trong nhà có thứ gì đó không sạch sẽ, che mất tia sáng, bèn khuyên ông ấy chuyển nhà, Thẩm Tông Bác không nghe. ‘ Nhất nhật sách khang, tắc kiến nhất thiếu phụ thi tại yên, uyển nhiên như sinh ’ [20E] , Thẩm Tông Bác sợ đến nỗi hồn xiêu phách lạc, vội vã chuyển đi, mới biết được lúc trước tại sao không thắp đèn sáng lên được, có thể là do hung linh tác quái.”
Nói đến đây, Tu Thúc khẽ nhìn Bộc Lượng, chỉ thấy anh ta trừng mắt nhìn Tu Thúc, rõ ràng là hai chuyện này đều xác thực không sai, không bới móc được gì.
Tu Thúc vẫn giữ sắc mặt như cũ, tiếp tục nói, “Loại hung trạch thứ tư gọi là...”
Tựa như vừa giương đao lên vung một đường, đột ngột chém đứt hết mọi âm thanh.
Tu Thúc đứng yên, ngẩng đầu lên, trông lên ngọn đèn trần hình tròn trên trần nhà, bờ môi nhúc nhích khe khẽ, như một người ngồi trong giếng khô ngưỡng vọng lên bầu trời không thể chạm tới trên đỉnh đầu mà cầu nguyện điều gì đó, thần sắc ông ta vô cùng quái lạ, có chút u ám, có chút lo âu, lại có chút sợ hãi không dám nói thành lời.
Trong khoảnh khắc, căn phòng cũng chìm vào bầu không khí phảng phất như trong giấc mộng.
“Sao đấy? Ngắt điện rồi à?” Bộc Lượng cười khẩy nói.
Tu Thúc cúi đầu xuống, nhìn ông ta một cái, “Không có gì, loại hung trạch thứ tư, vì nó cực kỳ đặc biệt và hiếm thấy, nên tạm thời tôi sẽ không nói đến.”
Loại hung trạch thứ tư, có thể là gì? Lôi Dung nghĩ ngợi, thực sự không nghĩ ra được còn có loại hung trạch nào có thể thêm vào danh hàm “đặc biệt và hiếm thấy” như vậy, không lẽ bản thân hung trạch thôi còn không đủ đặc biệt và hiếm thấy sao?
“Tôi tiếp tục nói đến chủng loại của hung linh.” Tu Thúc tiếp tục dạo bước, bước đi vừa từ tốn lại vừa có tiết tấu, tuy đang ở trong một phòng họp không lớn, nhưng đi vòng quanh bàn làm việc, lại dường như đang đi trong một vùng đồng nội mùa xuân, ngâm thơ với vẻ mừng vui tự đắc, “Có thể với rất nhiều người, hung linh vốn là oán khí của con người sau khi chết hóa thành, thì nghiễm nhiên sẽ có hình dạng người, nhưng điều này là sai hoàn toàn. Vạn vật đều có hồn, một khi linh hồn thoát ra khỏi xác phàm, do bởi cơ duyên, cũng có khả năng ám vào vạn vật, một khi điều huyền bí bên trong bị khám phá bởi người có tâm tính bất lương, hắn cũng có thể ‘chế tạo ra hung linh, điều này cũng tạo thành ba loại hình lớn của hung linh.”
“Đầu tiên là vật dụng. Chính là điều mà tôi đã nhắc đến lúc nãy, sau khi hung linh thoát ra khỏi xác, khí oán độc ám vào một số vật phẩm, động vật, thực vật, có thể tác quái trên tất cả mọi thứ, đặc biệt, khi sự việc giết người là vì cướp của, nhưng tên tội phạm giết người lại bỏ trốn thục mạng trong kinh hoàng, chưa kịp mang tiền của đi, lúc ấy hung linh sẽ ám lên của cải giống y như Grandet [21E] , làm một kẻ nô lệ giữ của đến chết. Trong Thái bình quảng ký có một mục chép rằng: có một người nghèo tên là Tô Át, thực sự không mua nhà nổi, bèn dùng một ít đồng bạc trong tay để ‘ tàn giá chí nhất hung trạch ’ [22E] , sau khi vào ở rồi, Tô Át nghe lời chỉ bảo của phương sĩ, đào nền nhà lên, ‘ đắc nhất thiếc ủng, khai chi, đắc tử kim tam thập cân ’ [23E] , đây chính là tiền lệ có thật về hung linh ám trên tiền của.”
“Nếu vào thời nay, hung linh sẽ ám lên đâu? Thẻ tín dụng? Thẻ ngân hàng? Alipay hay ví WeChat?” Bộc Lượng mỉa mai.
Nhưng Tu Thúc không quan tâm, tiếp tục nói, “Kế đến là chí yểm, chính là việc tạo ra hung linh bằng hành vi con người. Làm một hình nhân bằng gỗ giấu trong hốc tường, dọa người ta sợ chết khiếp, nói trong nhà có ma... cái này đa phần để biến nhà đắt tiền thành hung trạch, sau đó mua bán lại bằng giá rẻ bèo, thời nay đã không còn dùng nhiều nữa. Dưới đây, tôi sẽ nói nhấn mạnh về thi hài”.
Có lẽ do hai chữ “thi hài”, thần sắc của mọi người đều thoáng rùng mình, Lôi Dung cũng không ngoại lệ, ban đầu cô chỉ ngồi yên để lắng nghe, nhưng lúc này lại vô thức đặt một cánh tay lên bàn.
“Hung linh không phải là vật hữu hình, mà là một thứ sát vô hình, trong sách Duyệt vi thảo đường bút ký , Kỷ Hiểu Lam có một đoạn nói hay vô cùng: ‘ Hoành vong lệ quỷ, đa niên trầm trệ giả, suất tại u phòng không trạch trung, thị bất khả cận, cận tắc vi hại ’ [24E] . Hung linh có một đặc điểm gọi là 'hữu thất tắc cứ, kiến khoảng tắc thế' . Nghĩa là chỉ cần bị hãm hại trong nhà, thì luôn ở trong nhà không chịu đi; trái lại nếu bị hại ngoài vùng đồng hoang hoặc ngoại ô, thì sẽ không dễ tác quái, nôn nóng tìm thế thân đến vậy.” Tu Thúc nói, “Thế thì, có người sẽ hỏi, trong nhà thì hung linh tồn tại ở trạng thái như thể nào? Nếu nhìn từ ghi chép thời xưa, chỉ cần có một chút thông tin cơ thể của người bị hại còn lưu lại trong nhà, thì hung linh sẽ không rời đi...”
Lôi Dung giơ tay lên.
Tu Thúc nâng tay phải để bằng lên, bày một tư thế “xin hãy nói”.
“Tôi là một chuyên gia pháp y.” Lôi Dung đứng dậy nói, “Nói từ góc độ khoa học, tôi không cách nào đồng tình với cách nói của ông về chuyện hung linh tồn tại, bởi vì những gì ông thuật lại lúc nãy, tất thảy đều là ghi chép của người đi trước, nói từ góc độ chứng cứ, đó đều là nhân chứng mà không phải vật chứng, huống hồ đó là nhân chứng từ rất lâu đời, giá trị đáng tin cậy của chúng bị giảm đi rất nhiều...”
“Ơ?” La Khiêm ưa xen ngang lại cất lời, còn cố tình nâng tông giọng lên rất cao, “Hàng nghìn hàng vạn học giả thời xưa suốt mấy nghìn năm nay, những chuyện ghi lại bằng giấy trắng mực đen, cũng không đáng tin cậy hay sao?”
“Không đáng tin cậy.” Lôi Dung nói, “Đối với một người làm công tác khoa học, chỉ cần thiếu mất chứng cứ thử nghiệm để khả dĩ nghiệm chúng thêm lần nữa, thì dù bất cứ chuyện gì được ghi chép trên bất cứ điển tịch nào, cũng tồn tại một nhu cầu thiết yếu phải nghi ngờ chất vấn. Thế nhưng, do tôi không có cách nào chứng minh rằng hung linh thật sự không tồn tại, vậy nên tôi cũng chỉ có thể đến mức không đồng tình mà thôi. Tuy nhiên, về cách nói của Tu Thúc vừa nãy, tôi muốn đặt câu hỏi, dựa trên quan điểm của ông, nếu sau khi phần tử phạm tội giết người, hắn lau rửa sạch sẽ vết máu, dời thi thể ra khỏi nhà, thì căn nhà này sẽ không có hung linh tồn tại nữa hay sao?”
“Khó lắm.”
“Gì cơ?” Lôi Dung nghe mà không hiểu lắm.
“Tôi nói là, khó lắm.” Tu Thúc gỡ kính mắt ra, dùng một mảnh vải hình dáng như miếng da rắn lau chùi tròng kính với vẻ tỉ mỉ, “Sau khi hung phạm đã giết người, phần nhiều sẽ đào tẩu ngay lập tức, dù có dời xác thì cũng rất khó để đem hết mà không sót lại một phần liên quan nào ra ngoài, luôn luôn có một chút gì đấy bị bỏ quên trong nhà, trở thành đối tượng để hung linh ám vào, ví dụ như một đoạn ngón tay bị chặt đứt, một chiếc răng, thậm chí là một chiếc móng tay.”