← Quay lại trang sách

DAY

“Anh ăn gì đi, được không?”

Giọng Tess lôi tôi ra khỏi phiên gác của mình. Tôi rời mắt khỏi hồ nước, nhìn thấy cô bé cầm ra một miếng bánh mì kẹp pho mát, ra hiệu bảo tôi cầm lấy. Đáng lẽ tôi phải thấy đói. Tôi chỉ ăn nửa quả táo kể từ cuộc gặp gỡ đêm qua với tay đặc vụ chính phủ kỳ lạ kia. Nhưng không hiểu sao bánh mì kẹp pho mát, vẫn còn mới khi được đem về từ cửa hàng nơi Tess tốn vài đồng quý giá để mua, lại trông chẳng hấp dẫn chút nào.

Tôi vẫn cầm lấy. Không đời nào tôi bỏ phí thức ăn ngon, đặc biệt khi cần phải tiết kiệm mọi thứ chúng tôi có để mua thuốc kháng dịch.

Tess và tôi đang ngồi trên cát bên dưới một cầu tàu, nằm trong phần hồ cắt qua khu vực của chúng tôi. Chúng tôi giữ cho mình nằm áp sát mặt cát nhất có thể để những tên lính nhàn rỗi và công nhân say rượu ở phía trên không thể nhìn xuyên qua đám cỏ đá kia và thấy chúng tôi. Chúng tôi hòa vào bóng tối. Từ nơi chúng tôi ngồi có thể nếm được vị muối trong không khí và nhìn thấy ánh sáng của trung tâm thành phố Los Angeles phản chiếu trên mặt nước. Đống đổ nát của những tòa nhà cũ lấm chấm trên mặt hồ, ấy là những tòa nhà bị chủ và cư dân bỏ lại khi nước lũ dâng cao. Những bánh xe nước khổng lồ và tua bin khỏa nước bên bờ hồ phía sau bức màn khói. Đây có lẽ là khung cảnh yêu thích của tôi ớ khu Lake đẹp đẽ nhếch nhác này.

Tôi xin rút lại lời đó. Thực ra nó vừa là cảnh yêu thích vừa là cảnh ít yêu thích nhất của tôi. Bởi vì trong ánh đèn điện lung linh đẹp đẽ của trung tâm thành phố, tôi cũng nhìn thấy sân vận động tổ chức kỳ Sát hạch hiện ra lờ mờ ớ phía Đông.

“Anh vẫn còn thời gian,” Tess nói với tôi. Cô bé ngồi đủ gần để tôi có thể cảm thấy cánh tay trần của em dựa vào tay tôi. Mái tóc em có mùi bánh mì và quế của cửa hàng. “Có thể một tháng hoặc hơn. Chúng ta sẽ tìm thấy thuốc kháng dịch trước cả lúc đó, em chắc chắn đấy.”

Đối với một cô gái không gia đình, không chốn ở, Tess lạc quan đến đáng ngạc nhiên. Tôi cố gắng mỉm cười vì em. “Có lẽ vậy,” tôi nói. “Có thể bệnh viện sẽ nới lỏng việc canh gác sau vài tuần.” Nhưng trong lòng, tôi hiểu rõ hơn ai hết.

Sáng sớm hôm nay, tôi đã liều nhìn trộm vào nhà để xem mọi người thế nào. Chữ X kỳ lạ vẫn nằm trên cửa nhà tôi. Mẹ tôi và anh John dường như không sao, ít nhất cũng đủ khỏe để đứng và đi lại bình thường. Nhưng Eden... lần này Eden đang nằm trên giường với một miếng vải trên trán. Mặc dù nhìn từ xa, tôi cũng biết thằng bé đã gầy đi vài cân. Da nó xanh xao còn giọng nói thì yếu và khô khốc. Khi tôi gặp anh John ở sau nhà, anh bảo rằng Eden đã không ăn gì kể từ lần trước tôi ghé qua. Tôi nhắc anh John nên tránh xa phòng của Eden khi nào có thể. Ai mà biết được cái thứ bệnh dịch dở hơi này truyền nhiễm như thế nào. Anh John đã cảnh báo tôi đừng hành động nguy hiểm như vậy nữa, nếu không chằng mấy rồi tôi sẽ tự đưa mình vào chỗ chết thôi. Tôi đã cười anh. Anh John sẽ không bao giờ nói thẳng với tôi điều này, nhưng tôi biết mình là cơ hội duy nhất của Eden.

Bệnh dịch có thể lấy đi mạng sống của Eden thậm chí trước khi nó có cơ hội tham gia kỳ sát hạch.

Có thể trong cái rủi lại có cái may. Vào ngày sinh nhật thứ mười, Eden sẽ không bao giờ phải ra khỏi nhà, chờ xe buýt đưa đến sân vận động tố chức kỳ Sát hạch. Thằng bé sẽ không phải đi theo hàng chục đứa trẻ khác lên cầu thang sân vận động vào vòng tròn bên trong sân, hoặc chạy để các giám khảo Sát hạch nghiên cứu hơi thở và tư thế, hoặc trả lời hàng trang dài dằng dặc những câu hỏi trắc nghiệm ngu ngốc, hoặc sống sót qua cuộc phỏng vấn với cả một đám giám khảo thiếu kiên nhẫn. Thằng bé cũng sẽ không bao giờ phải chờ đợi ở một trong những nhóm mà chằng biết sau đó nhóm nào sẽ trở về nhà, nhóm nào sẽ bị đưa đi đến những nơi gọi là “trại lao động”.

Tôi không biết nữa. Trong tình huống xấu nhất, có khi dịch bệnh lại là một cách nhân đạo hơn để ra đi.

“Eden rất hay bị ốm, em biết đấy,” một lúc sau tôi lại nói. Rồi tôi cắn một miếng bánh mì kẹp pho mát lớn. “Thằng bé suýt chết khi còn nhỏ. Nó bị bệnh đậu mùa, bị sốt, phát ban và gào khóc trong một tuần liền. Đám lính suýt thì đã đánh dấu cửa nhà anh rồi. Nhưng rõ ràng đây không phải bệnh dịch mà cũng không ai khác có vẻ gì là mắc bệnh này.” Tôi lắc đầu. “Anh và John không bao giờ bị ốm.”

Lần này Tess không mỉm cười. “Tội nghiệp Eden.” Sau một thoáng ngập ngừng, cô bé lại nói. “Lần đầu gặp anh, em cũng rất ốm yếu. Nhớ em trông nhem nhuốc thế nào không?”

Đột nhiên, tôi cảm thấy có lỗi khi nói quá nhiều về rắc rối của mình trong mấy ngày qua. Ít ra tôi cũng có một gia đình để quan tâm, lo lắng. Tôi khoác tay lên vai cô bé. “Ừ, lúc đó trông em đến là kinh.”

Tess cười lớn, nhưng đôi mắt cô bé vẫn tập trung vào những ánh đèn từ khu trung tâm. Em dựa đầu vào vai tôi. Em vẫn luôn dựa vào tôi như thế kể từ tuần đầu tiên tôi gặp em, khi tôi nhìn thấy em tại một con ngõ ở khu Nima.

Tôi vẫn không biết điều gì đã khiến tôi dừng lại nói chuyện với cô bé vào buổi chiều hôm ấy. Có lẽ sức nóng đã làm tôi mềm lòng, hoặc có thể chỉ là tôi đang vui vì vừa tìm thấy một nhà hàng vứt nguyên toàn bộ bánh sandwich cũ còn lại trong ngày.

“Này,” tôi gọi cô bé.

Hai cái đầu nữa nhô lên khỏi thùng rác. Tôi ngập ngừng vì ngạc nhiên. Hai trong số họ, một phụ nữ lớn tuổi và một cậu thiếu niên, ngay lập tức bò ra khỏi đống rác chạy vào con ngõ. Người thứ ba, một cô bé chưa đến mười tuổi, vẫn đứng yên tại chỗ, run rẩy khi nhìn thấy tôi. Người em như que củi, mặc bộ quần áo rách tơi tả. Mái tóc ngắn và lởm chởm, cắt cụt lủn ngay dưới cằm em, đỏ hoe dưới ánh mặt trời.

Tôi chờ đợi một lúc, không muốn dọa em như tôi đã làm với hai người kia. “Này,” tôi nhắc lại, “anh làm cùng được không?”

Cô bé nhìn chằm chằm lại tôi không nói một lời. Tôi hầu như không thể nhìn ra khuôn mặt của cô bé vì nó nhem nhuốc bồ hóng.

Khi cô bé không trả lời, tôi nhún vai và bắt đầu đi về phía em. Có lẽ tôi có thể tận dụng được thứ gì đó hữu ích từ thùng rác.

Ngay khi tôi tiến lại cách ba mét, cô bé phát ra một tiếng kêu nghèn nghẹt và chạy vụt đi. Cô bé chạy quá nhanh nên bị vấp, ngã đập tay và đầu gối xuống đường. Tôi khập khiễng bước về phía em. Hồi đó vết thương cũ trên đầu gối đau hơn bây giờ, và tôi nhớ mình đã suýt vấp vì vội vã. “Này!” tôi nói. “Em có sao không?”

Cô bé giật lùi lại, giơ cánh tay trầy xước của mình lên che mặt. “Làm ơn,” cô bé nói. “Làm ơn, làm ơn.”

“Làm ơn gì chứ?” Rồi tôi thở dài, bối rối vì thái độ bực tức của mình. Tôi đã nhìn thấy nước mắt trào lên trong mắt em. “Đừng khóc nữa. Anh sẽ không làm em đau đâu.” Tôi quỳ xuống bên cạnh cô bé. Lúc đầu, cô bé thút thít và cố gắng bò đi, nhưng khi tôi không di chuyển, cô bé dừng lại nhìn chằm chằm vào tôi. Hai đầu gối của cô bé bong cả mảng da, lộ ra lớp thịt đỏ tươi phía dưới.

“Em ở gần đây à?” tôi hỏi cô bé.

Cô bé gật đầu. Sau đó, như thể nhớ ra điều gì, cô bé lắc đầu. “Không,” em nói.

“Anh đưa em về nhà nhé?”

“Em không có nhà.”

“Em không có à? Vậy bố mẹ em ở đâu?”

Cô bé lắc đầu một lần nữa. Tôi thở dài và bỏ túi vải xuống đất, rồi đưa tay về phía em. “Đi nào,” tôi nói. “Em không muốn hai đầu gối nhiễm trùng đâu. Anh sẽ giúp em rửa sạch rồi em có thể lại đi đâu tùy thích. Em cũng có thể lấy một chút đồ ăn của anh. Nghe cũng được phải không?”

Phải mất lúc lâu em mới để tay lên tay tôi. “Vâng,” cô bé thì thầm, khẽ đến độ tôi hầu như không nghe được.

Đêm đó, chúng tôi cắm trại đằng sau một cửa hàng cầm đồ nơi có một đôi ghế cũ và một chiếc trường kỷ rách tung nằm trong con ngõ. Tôi rửa sạch đầu gối cô bé bằng rượu lấy trộm từ một quán bar, để một miếng giẻ cho em cắn nhằm tránh tiếng kêu rên gây sự chú ý. Trừ những lúc tôi chăm sóc các vết trầy cho cô bé ra, em không bao giờ chịu cho tôi đến gần. Cứ khi nào tay tôi vô tình quệt vào tóc hoặc tình cờ chạm vào tay cô bé, thì em lại rúm người như phải bỏng vậy. Cuối cùng tôi đành từ bỏ nỗ lực bắt chuyện với cô bé. Tôi để em ngủ trên trường kỷ, trong khi tôi gấp áo của mình làm gối và cố gắng nằm thoải mái trên vỉa hè.

“Nếu sáng mai em muốn bỏ đi thì cứ đi đi,” tôi nói với cô bé. “Em không cần phải đánh thức anh dậy để tạm biệt hay đại loại như vậy đâu.” Mí mắt tôi nặng dần, nhưng cô bé vẫn hoàn toàn tỉnh táo, nhìn tôi chằm chằm không chớp mắt, ngay cả lúc tôi ngủ thiếp đi.

Sáng hôm sau em vẫn ở đó. Em đi theo khi tôi nhặt nhạnh thùng rác, chọn ra quần áo cũ và thức ăn thừa còn ăn được. Tôi đã thử đuổi em đi. Tôi thậm chí đã quát em. Một đứa trẻ mồ côi đi theo sẽ vô cùng bất tiện. Nhưng mặc dù tôi đã khiến em khóc vài lần, khi liếc nhìn đằng sau tôi vẫn thấy em ở đó, lẽo đẽo theo sau tôi.

Hai đêm sau, khi chúng tôi ngôi cạnh nhau bên đống lửa sơ sài, cuối cùng cô bé cũng cất tiếng nói. “Em tên là Tess,” em thì thầm. Sau đó, em nhìn tôi đăm đăm như muốn đoán xem phản ứng của tôi thế nào.

Tôi chỉ nhún vai. “Biết thế cũng tốt,” tôi nói.

Và mọi chuyện là như vậy.

☆ ☆ ☆

Tess bật tỉnh. Tay em đập vào đầu tôi.

“Au,” tôi lẩm bấm đưa tay xoa trán. Cơn đau chạy dọc cánh tay đang lành của tôi, và tôi nghe tiếng những viên đạn bạc Tess đã gắp ra từ quần áo của tôi giờ đang leng keng trong túi. “Nếu em muốn đánh thức anh, chỉ cần vỗ nhẹ là được rồi.”

Em giơ ngón tay ra dấu im lặng. Giờ thì tôi tỉnh hẳn. Chúng tôi vẫn đang ngồi dưới gầm cầu tàu, nhưng chắc chỉ còn vài giờ nữa là bình minh và đường chân trời đã chuyển màu đen. Ánh sáng duy nhất phát ra từ vài ngọn đèn đường cổ kính dọc theo bờ hồ. Tôi liếc nhìn Tess. Đôi mắt em lấp lánh trong bóng tối.

“Anh nghe thấy gì không?” em thì thầm.

Tôi cau mày. Thông thường, tôi có thể nghe thấy tiếng động đáng ngờ trước khi Tess nhận ra, nhưng lần này tôi không nghe thấy gì cả. Cả hai chúng tôi ngồi yên một lúc lâu. Tôi nghe những đợt sóng vỗ đều đặn. Âm thanh của kim loại khuấy bì bõm trong nước. Thỉnh thoảng lại có tiếng một chiếc xe ô tô phóng qua.

Tôi nhìn Tess một lần nữa. “Lúc đầu em nghe thấy gì?”

“Nghe như tiếng... ùng ục,” cô bé thì thầm.

Chưa kịp ngẫm nghĩ về nó, tôi đã nghe thấy tiếng bước chân và một giọng nói tiến lại cầu tàu phía trên chúng tôi. Cả hai chúng tôi lùi sâu hơn vào bóng tối. Đó là giọng một gã đàn ông và tiếng bước chân nặng nề đến kỳ lạ. Vài giây sau tôi nhận ra gã đàn ông ấy đang đi bộ cùng với một kẻ khác. Hai tên tuần cảnh.

Tôi lùi ra xa hơn về phía bờ, một chút đất đá rời ra. Chúng lặng lẽ lăn xuống bờ cát. Tôi vẫn tiếp tục lùi cho đến khi lưng chạm một bề mặt cứng và trơn nhẵn. Tess cũng lùi lại giống tôi.

“Có tin đồn,” một tên cảnh sát nói, “lần này bệnh dịch bùng phát ở khu Zein.”

Tiếng chân bước nặng nề ngay trên đầu chúng tôi và tôi thấy bóng họ đi dọc theo đầu cầu tàu. Từ xa, những dấu hiệu đầu tiên của ánh sáng đang biến đường chân trời thành một màu xám ảm đạm.

“Tôi chưa bao giờ nghe nói bệnh dịch xuất hiện ở đó.”

“Chắc là một chủng bệnh mạnh hơn.”

“Họ định sẽ làm gì?”

Tôi căng tai để nghe những gì tên cảnh sát còn lại nói, nhưng bây giờ cả hai đã ở đủ xa để tiếng nói của họ chỉ còn là tiếng thì thầm. Tôi hít một hơi sâu. Khu Zein cách đây những ba mươi dặm, nhưng nếu dấu X màu đỏ kỳ lạ trên cánh cửa nhà mẹ có nghĩa là họ đang bị nhiễm chủng bệnh mới này thì sao? Và Cử tri sẽ làm gì đây?

“Anh Day,” Tess thì thầm.

Tôi nhìn em. Em đang quay lưng về phía bờ, mặt hướng ra hồ. Em chỉ vào vết lõm chúng tôi để lại trên bờ hồ. Khi tôi quay người lại, tôi nhìn rõ thứ em đang chỉ vào.

Bề mặt cứng tôi dựa lưng vào hóa ra là một tấm kim loại. Khi phủi bớt đất đá đi, tôi thấy rằng tấm kim loại được đặt nằm sâu trong bờ, vậy có thể vật này từ đầu đã tạo nên độ dốc của bờ hồ. Tôi nheo mắt nhìn bề mặt của nó.

Tess nhìn tôi. “Nó rỗng.”

“Rỗng thật sao?” Tôi áp tai vào tấm kim loại lạnh như băng. Một làn sóng tiếng ồn đập vào tai tôi, tiếng ùng ục và xì xì mà Tess đã nghe thấy trước đó. Đây không chỉ là một cấu trúc kim loại để chống đỡ cho bờ hồ. Khi lui lại xem xét kỹ hơn, tôi nhận thấy các biểu tượng khắc trên bề mặt của nó.

Một biểu tượng lá cờ Cộng hòa, in mờ trên tấm kim loại. Biểu tượng còn lại là một con số nhỏ màu đỏ:

318