← Quay lại trang sách

Chương 3

Chính ngay trong buổi ăn trưa đó ông Floche, không chuẩn bị ngôn từ, bất đồ đặt tôi đối diện với gia đình Saint-Auréol. Ông cha hồi hôm, đáng lẽ ít ra cũng có thể báo cho tôi biết mới phải. Tôi nhớ lại ngày xưa đã lấy làm kinh dị cũng như thế này, tại Vườn Bách Thảo, lần đầu tiên biết tới con phoenicopterus antiquorum hay hồng hạc mỏ bẹt. Tôi không thể nói ông nam tước hay bà nam tước ai cổ quái hơn ai: Hai người xứng đôi; cũng giống ông bà Floche vậy, giá ở viện bảo tàng người ta đã đem để vào lồng kính hai người cạnh nhau không do dự; gần bên những “giống mất tích”.

Trước mặt họ, thoạt tiên tôi cảm thấy một mối tôn kính không rõ rệt nào đó khiến cho mình, những giây lát đầu tiên, đứng trước những nghệ phẩm hoàn tất hoặc đứng trước những kỳ quan của Thiên nhiên, đâm ra ngẩn ngơ không còn khả năng phân tích. Chậm rãi tôi mới đi tới chỗ phân chất cảm tưởng mình…

Nam tước Narcisse de Saint-Auréol vận quần ngắn, giày có khuyên nên nổi bật hẳn lên, cà vạt vải sa và tấm xây trước. Yết hầu lồi ra, cũng như chiếc cằm, lọt ra ngoài cổ áo và cố ẩn núp dưới một núi vải sa; chiếc hàm hễ nhích động là chiếc cằm cũng hết sức gắng sao để bắt gặp cái mũi, cái mũi nó cũng chiều lòng thuận theo. Một con mắt khép lại bít bưng; khóe môi nhếch lên và bao nhiêu nếp nhăn khuôn mặt cũng hướng lên con mắt kia long lanh sáng thu mình sau gò má và có vẻ bảo: Coi chừng! Một mình tôi, nhưng đố có cái gì lọt khỏi tôi.

Bà de Saint-Auréol chìm hẳn trong một lớp sóng đăng ten giả. Đôi bàn tay run run, mang đầy nhẫn lớn, lọt sâu vào trong tay áo lay động. Một thứ mủ bằng vải taffetas đen đệm thêm những miếng đăng ten trắng bọc hết cả khuôn mặt; bên dưới cằm, hai đường dải taffetas buộc lại, được đánh trắng vì phấn mà khuôn mặt điểm trang ghê khiếp đã để rơi rớt xuống. Khi tôi vào, bà đứng nghiêng sừng sững trước mặt tôi, hất đầu ngược ra sau, và bằng một giọng mũi khá mạnh không cao không thấp:

- Dì ạ, thiên hạ đã từng xử sự với họ Saint-Auréol khá hơn kia…

Bà ám chỉ ai? Chắc bà dụng ý cho tôi cảm thấy, cho bà em cảm thấy, rằng không phải tôi hiện đang ở tại nhà họ Floche ở đây; vì bà nói tiếp nghiêng đầu sang bên, đon đả, và đưa tay mặt về phía tôi:

- Nam tước với tôi, chúng tôi hân hạnh đón tiếp ông dùng bữa.

Tôi đưa môi chạm chiếc nhẫn, từ cái hôn tay tôi thẳng người dậy đỏ mặt, vì cái thế của tôi ở giữa họ Saint-Auréol và họ Floche tỏ ra làm cho họ lúng túng. Nhưng bà Floche ra vẻ không chú ý gì đến sự xuất hiện của bà chị. Còn ông nam tước hiện hữu của ông như thể là khó hiểu, mặc dù ông khả ái ngọt ngào với tôi. Suốt thời gian tôi ở Quartfourche không làm sao thuyết cho ông gọi tôi bằng cách gì khác chứ đừng gọi bằng ông de Las Cases; điều này khiến ông quả quyết đã lắm lần gặp cha mẹ tôi ở điện Tuileries… nhất là một ông chú của tôi đã có chơi bài piquet với ông:

- A! Con người độc đáo! Mỗi lần hạ bài xuống ăn, ông la thật lớn: Domino!

Lời lẽ nào của ông nam tước cũng đại khái theo tầm mức ấy. Ở bàn ăn, hầu như chỉ có ông là người nói; rồi ngay liền sau bữa ăn, ông khép kín lặng câm như xác ướp.

Lúc chúng tôi rời phòng ăn, bà Floche đến bên tôi, rồi nói nhỏ:

- Xin phép ông Lacase cho tôi nói một câu chuyện nhỏ, được chăng? - Câu chuyện, trông bề ngoài bà không muốn cho ai nghe, vì bà đã bắt đầu kéo tôi về phía vườn cây trái, trong khi nói thật lớn tiếng lên rằng bà muốn chỉ cho tôi coi hàng cây dọc bờ tường.

Khi chắc chắn không ai có thể nghe ngóng được, bà vào chuyện:

- Chuyện thằng cháu tôi… Tôi không muốn, trước mặt ông, ra vẻ chỉ trích cách giáo huấn của cha Santal… Tuy nhiên, ông là người đi sâu vào ngay cội nguồn học thức (lời bà), chắc ông chỉ giáo cho chúng tôi được.

- Xin bà hãy nói; tôi xin tận tâm sốt sắng với bà.

- Là thế này: Tôi sợ rằng đề tài luận đề của cha, với một đứa còn nhỏ quá, có phần đặc biệt.

Tôi bảo, thoáng vẻ lo âu:

- Luận đề gì?

- Luận đề tú tài.

- À! Ra thế, - tôi định bụng từ nay không còn ngạc nhiên gì nữa.

Tôi tiếp lời:

- Đề tài ra sao?

- Này nhé, ông cha ngại rằng những đề tài văn chương hoặc là những đề tài triết lý thuần túy đâm ra chiều đãi cái mơ hồ huyễn hoặc của một bộ óc trẻ đã thiên nặng về cõi mộng… (ít nữa ông cha nghĩ như thế). Thế nên ông đã hối thúc Casimir chọn một đề tài về sử.

- Nhưng, thưa bà, điều ấy có thể đứng vững được lắm chớ. Còn đề tài chọn là đề tài gì?

- Tôi xin lỗi; tôi sợ nhớ cụt mất cái tên: Averrhoès.

- Ông cha chắc hẳn có nhiều lý do chọn lựa đề tài ấy, đề tài thoạt nhìn cũng có vẻ đặc biệt một chút thật đấy.

- Cả hai cùng nhau chọn đấy. Còn những lý do ông cha trưng dẫn ra, tôi sẵn sàng nép mình theo; ông ấy bảo tôi, đề tài đó biểu hiện một lợi ích về giai thoại đặc biệt có khả năng dán chặt sự chú tâm thường khi hơi bềnh bồng của Casimir, với lại (và hình như đây là điều mấy ông giám khảo cho là quan trọng hơn cả) đề tài từ trước đến nay chưa hề được ra.

- Tôi không nhớ đề tài đã được ra thật…

- Và dĩ nhiên muốn kiếm tìm một đề tài chưa hề được ra, buộc phải kiếm tìm phần nào ngoài những lối đi đã cũ mòn.

- Cố nhiên như thế rồi ạ!

- Có điều tôi thú thật với ông, tôi lo ngại… nhưng mà có lẽ tôi lạm dụng chăng?

- Thưa bà, xin bà tin rằng thiện chí của tôi và ước muốn được việc cho bà không bao giờ cạn được.

- Thế thì chuyện nó như thế này: Rồi đây Casimir có năng lực hoàn thành luận đề khá xuất sắc không, điều này tôi không đặt thành một sự hồ nghi, nhưng tôi sợ rằng, vì thích chuyên biệt… vì cái thích hơi sớm trước tuổi… e cha lơ đễnh phần nào phần giáo huấn tổng quát, thí dụ như môn tính đố, hoặc môn thiên văn…

Tôi thẫn thờ hỏi lại:

- Thế ông Floche nghĩ sao về những cái ấy, thưa bà?

- Ồ! Ông Floche đồng ý với mọi điều cha làm, mọi điều cha nói.

- Còn bố mẹ?

Do dự một chút rồi bà bảo:

- Bố mẹ cháu ủy thác con cho chúng tôi.

Kế đó, dừng bước lại:

- Vì tính mềm mỏng của ông có tác dụng, tôi mong ông, ông Lacase ạ, gợi chuyện để Casimir cho biết; tuy vẫn không có vẻ gì là cật vấn nó trực tiếp… và nhất là không ngay trước mặt ông cha để ông ta có thể nghi ngại. Tôi chắc chắn có thể may ra ông…

- Tôi rất sẵn sàng, thưa bà. Chắc có lẽ với tôi, tìm cớ để cùng em đi ra ngoài, đối với tôi sẽ không khó gì. Em sẽ đưa tôi đi viếng một nơi nào đó của hoa viên…

- Nó lúc đầu tỏ ra rụt rè chút đỉnh đối với những người chưa quen biết, nhưng bản chất nó cả tin.

- Em và tôi sẽ chóng trở nên thân thiện, tôi tin như thế.

Ít lát sau, bữa ăn dặm lại họp mặt chúng tôi lần nữa:

- Casimir à, cháu nên chỉ cho ông Lacase coi cái hầm đá; bà chắc chắn ông sẽ thích thú.

Rồi tiến đến bên tôi:

- Ông đi nhanh trước khi ông cha xuống, kẻo cha lại muốn theo ông.

Tôi bước ngay ra hoa viên; thằng bé cà nhắc hướng dẫn tôi. Tôi mở đầu:

- Giờ này là giờ giải trí?

Nó không đáp. Tôi lại nói:

- Em không khi nào học tập sau bữa ăn dặm?

- Dạ có chứ; nhưng hôm nay cháu hết bài để chép.

- Em chép gì thế?

- Dạ luận đề.

- Thế à!…

Sau vài mò mẫm tôi hiểu ra rằng luận đề kia là công trình của ông cha, ông cha sai thằng bé sửa sạch và chép lại, thằng bé có chữ viết ngay ngắn. Nó chuyển thành bốn bản trong bốn cuốn tập bìa cứng mà mỗi ngày nó mỗi bôi đầy vài trang. Vả chăng Casimir quả quyết nó rất thích thú “sao chép”.

- Nhưng sao lại bốn lần?

- Vì cháu nhớ khó khăn.

- Em có hiểu những điều em viết không?

- Dạ có hiểu. Những khi khác cha giải thích cho cháu; hoặc là cha bảo lớn lên nữa cháu sẽ hiểu.

Ông cha đã biến gọn học trò mình thành một thư ký sao chép. Ông hiểu nhiệm vụ mình theo cách đó sao? Tôi cảm thấy lòng phừng lên và tự đề nghị sẽ không ngớt cùng ông chuyện trò gay cấn. Sự bất bằng tự nhiên thôi thúc bước chân đi; Casimir nhọc mệt bước theo tôi; tôi nhận ra nó vã mồ hôi. Tôi đưa tay, nó giữ lấy bàn tay tôi trong tay nó, khập khiễng cạnh bên tôi trong khi tôi chậm bước.

- Học tập của em chỉ có thế, cái luận đề ấy?

Nó nói ngay:

- Thưa không, đâu phải.

Nhưng càng đẩy đưa câu hỏi xa hơn, tôi hiểu rằng phần khác rút lại chẳng được bao nhiêu; và chắc hẳn cảm nhận sự kinh dị của tôi, nó nói tiếp:

- Cháu đọc sách nhiều.

Như thể thằng nghèo bảo: Tôi có quần áo khác nữa!

- Thế em thích đọc gì?

- Chuyện du lịch đi xa.

Kế đó nó quay nhìn tôi, cái nhìn trong đó nghi vấn nhường chỗ cho lòng tin tưởng:

- Cha đã có ở bên Tàu; ông biết không?…

Và sắc điệu giọng nói của nó, đối với thầy, biểu lộ sự kính phục tôn cẩn không cùng.

Chúng tôi đi tới chỗ hoa viên mà bà Floche gọi là “hầm đá”; hầm bỏ phế đã từ lâu, ở lưng chừng dốc làm thành một thứ bộng lấp đằng sau đám bụi rậm. Chúng tôi ngồi xuống một phiến đá mà mặt trời xuống đã thấp làm cho hầm hấp nóng. Hoa viên dứt ở đây chẳng có bờ rào; chúng tôi đã để lại phía bên trái một con đường chạy xuống chênh chênh có bờ ngăn nhỏ cắt ngang; dốc đổ xuống khá dựng đứng khắp nơi dùng làm bờ chống đỡ thiên nhiên.

Tôi hỏi:

- Casimir, em đã đi xa chưa?

Nó không trả lời, cúi mặt… Dưới chân chúng tôi, lũng nhỏ thu đầy bóng tối; mặt trời đã giáp ngọn đồi khép phong cảnh lại trước mặt chúng tôi. Một khóm cây lật và sồi kết quanh một gò đá vôi chằng chịt những lỗ như một nơi đầy hang thú; cảnh trí ít lãng mạn tương phản với vẻ mềm mại nhất loạt của vùng đất.

Casimir bỗng the thé:

- Ông nhìn mấy con thỏ kia!

Rồi lát sau, đưa tay chỉ đám cây, nó nói tiếp:

- Có hôm cháu với ông cha trèo lên đó.

Đi về, chúng tôi ngang qua bờ ao đầy cây ty tảo. Tôi hứa với Casimir chuẩn bị cho nó một cần câu và bày vẽ cho nó cách câu ếch.

Đêm đầu tiên ấy, kéo dài hơi quá chín giờ, chẳng khác mảy may những đêm về sau, và, tôi nghĩ, cũng không khác bao đêm trước đó, bởi vì các chủ nhân có cái hay là không chan hòa tình cảm với tôi. Ngay sau bữa ăn, chúng tôi vào phòng khách, nơi này trước đó, trong bữa ăn, Gratien đã nhúm lửa. Một cây đèn lớn, đặt ở mút bàn chạm trổ, rọi sáng luôn cỗ bài jacquet ông nam tước đang đấu với ông cha ở cuối bàn kia cùng với cái bàn tròn nơi mấy bà chơi một ván bài bésigue kiểu Đông phương rộn ràng.

Trước tiên bà de Saint-Auréol bảo:

- Ông Lacase quen với các thú vui Ba Lê chắc sẽ cho trò du hí của chúng tôi hơi nhạt…

Trong khi đó, ông Floche, ở góc bếp lửa, thiu thiu trong chiếc ghế bành rộng; Casimir, khuỷu tay trên bàn, đầu ôm trong tay, môi trễ nhỏ rãi, tiến sâu vào “Vòng quanh Trái đất”.

Cho có vẻ và để thủ lễ tôi làm mặt quan thiết tới cuộc bài bésigue của các bà; người ta có thể chơi bài này, giống như chơi bài whist, thiếu mất một tay, nhưng hay hơn cả là chơi tay tư, để được thế bà de Saint-Auréol niềm nở nhận tôi cùng một phe ngay khi tôi tự đề cử. Mấy buổi tối đầu tiên, bao nhiêu cái vụng về của tôi gây lụy cho phe chúng tôi và đem lại khoái chí cho bà Floche, bà này sau mỗi lần được, tự tiện đưa bàn tay gầy guộc mang găng vỗ nhè nhẹ lên cánh tay tôi. Có những cái gan dạ, những cái đòn ngón, những cái tinh vi. Bà Olympe chơi kỹ, hợp phe. Đấu hội, ghi điểm, ướm thử một lời tố tùy theo bài mình có; cái này dọn chỗ phần nào cho phỉnh gạt; bà de Saint-Auréol mạo hiểm táo tợn, mắt long lanh, lưỡng quyền ửng đỏ và cằm nhích động; khi nào bà thật sự có bài tốt, bà đá chân mạnh vào tôi dưới gầm bàn; bà Olympe lập công đương đầu với bà, nhưng bị chưng hửng theo giọng nói sắc sảo của bà già, bà này không kêu con số mới mà bỗng nhiên kêu lên:

- Verdure, chị dối nhá!

Xong phần đầu, bà Floche rút đồng hồ ra, và như thể đã đến đúng giờ:

- Casimir! Nào, Casimir; đến giờ.

Thằng bé như từ cơn mê thoát ra mệt nhọc, đứng lên, đưa bàn tay mềm nhũn ra cho các ông, đưa trán ra cho các bà, kế đó bước ra kéo xệch một chân.

Trong khi bà de Saint-Auréol mời chúng tôi phục thù, thì hội đầu bài jacquet kết thúc; lúc đó có khi ông Floche thay thế ông anh rể; ông Floche và ông cha, không ông nào kêu bài, phía các ông chỉ nghe có tiếng con xúc xắc lăn trong ống và trên bàn; ông de Saint-Auréol trong chiếc ghế bành rộng đang nói một mình hay hát lẩm nhẩm, và đôi khi, thình lình, thọc mạnh chiếc kẹp gắp xuống xuyên qua ngọn lửa, một cách trịch thượng đến nỗi tung tóe than hồng ra xa; bà Olympe vội chạy lại thu dọn trên tấm thảm cái mà bà de Saint-Auréol gọi một cách thanh đẹp là điệu múa đóm lửa… Rất thường khi ông Floche để cho ông nam tước vướng vào ông cha còn mình thì không rời chiếc ghế bành; từ chỗ tôi, tôi có thể thấy ông không phải ngủ như ông bảo, mà gục đầu trong bóng tối, và đêm đầu tiên nhân ánh lửa vọt lên bỗng rọi sáng mặt ông, tôi có thể nhận ra ông đang khóc.

Đến chín giờ một khắc, bài bésigue xong, bà Floche tắt đèn, trong khi bà Verdure thắp lên hai ngọn đèn đem đặt ở hai bên cỗ bài jacquet.

- Cha đừng bắt ông thức khuya quá, - bà de Saint-Auréol căn dặn, đập quạt một cái lên vai chồng.

Tôi thiết tưởng là điều lịch nhã, ngay từ đêm đầu tiên, phải vâng theo hiệu lệnh của các bà, để mặc cho mấy ông chơi jacquet mê mẩn và để cho ông Floche trầm tư, ông là người lên ngủ sau hết. Trong phòng trước, mỗi người cầm lấy một chân đèn, các bà cáo biệt tôi kèm theo những cử chỉ trịnh trọng giống như hồi sáng. Tôi vào buồng tôi; chẳng mấy chốc tôi nghe tiếng các ông bước lên. Chẳng mấy chốc tất cả im hơi. Nhưng ánh sáng còn xuyên qua bên dưới đôi cánh cửa một lúc lâu. Nhưng hơn một giờ sau đó, nếu cần việc gì đi ra ngoài hành lang thì có cơ gặp bà Floche hay bà Verdure ở đó mặc áo ngủ, lo một vài việc sắp xếp cuối cùng. Sau đó nữa, khi ngỡ là tất cả đều tắt ngấm, thì ở ô kính một phòng kín nhỏ không mở ra hành lang nhưng đón ánh sáng từ hành lang, ta có thể trông thấy, nhờ cái bóng lù mù, bà de Saint-Auréol hãy còn loay hoay.