← Quay lại trang sách

Chương 4

Ngày thứ hai của tôi ở Quartfourche giống như ngày đầu một cách thật rõ rệt; giống nhau từng giờ một; nhưng tính hiếu kỳ có được chăng lúc ban đầu đối với công việc của những người trong nhà cũng hoàn toàn xẹp xuống. Mưa rây nhỏ giăng đầy trời từ sáng. Không bách bộ được, chuyện của các bà càng vô vị thêm, thế là tôi dốc hầu hết giờ trong ngày vào công việc. Trao đổi được đâu dăm câu với ông cha là nhiều. Vào lúc sau bữa ăn trưa, ông mời mọc tôi đến hút điếu thuốc cách phòng khách vài bước trong một thứ như là nhà để xe có cửa kính mà mọi người gọi một cách hơi bay bướm là vườn cam, vì mùa mưa nên có đưa vào đây một ít ghế nhỏ, ghế dài ở vườn.

- Kìa, cậu, - ông cha nói, khi tôi đề cập hơi thiếu bình tĩnh tới vấn đề giáo dục thằng bé, - nếu được đem hết thảy ánh sáng yếu ớt của tôi thắp sáng lên cho Casimir; tôi còn đòi hỏi gì hơn thế nữa; tôi đã phải chịu thua không khỏi tiếc nuối. Lẽ nào, xiêu vẹo như nó, cậu lại chấp nhận tôi cứ nằng nặc đòi nó múa may trên dây đu hay sao? Tôi đã phải mau mau rút ngắn tầm nhắm của tôi. Nếu nó cùng tôi lý tới Averrhoès, là tại vì tôi bận lo một thiên biên khảo về triết học của Aristotle và để khỏi phải cùng với nó ê a một vài cái gì đó không hiểu, tôi lấy làm thích thú, một sự thích thú tâm cảm, lôi kéo nó vào công việc của mình. Đề tài đó hay đề tài nào khác cũng thế thôi; điều quan trọng là bắt Casimir bận bịu ba bốn giờ một ngày; làm sao có thể đừng bẵng nhẵng một chút nào đó nếu nó phải bắt tôi cũng mất một khoảng thời gian giống như nó? Và chẳng lợi ích gì cho nó, tôi nhận với cậu như thế… Thôi đủ về chuyện đó, nhé.

Nói xong, vứt điếu thuốc để mặc cho tắt ngấm, ông đứng lên trở vào phòng khách.

Thời tiết xấu cản trở tôi đi ra ngoài với Casimir; chúng tôi buộc lòng dời cuộc đi câu đã dự tính đến hôm sau; nhưng đứng trước đứa bé thất vọng, tôi tìm cách tạo cho nó một thú vui nào khác; đặt tay lên bàn cờ, tôi dạy nó chơi trò gà chồn, trò này khiến nó mê say cho tới buổi ăn tối.

Buổi tối khởi đi giống hệt buổi trước; nhưng tôi đã hết nhìn hết nghe ai; một nỗi chán không tên, bắt đầu đè nặng lên tôi.

Ngay liền sau khi ăn, một thứ gì như loạt đạn nổi dậy; bà Verdure hai lần bỏ dở cuộc bài bésigue để đi xem xét trong các phòng trên “thử mưa có tới không”. Chúng tôi đành phục thù thiếu mất bà; ván bài thiếu hào hứng. Bên góc bếp lửa, trong chiếc ghế bành thấp gọi một cách bình dân là “ghế xe”, ông Floche, dặt dìu theo tiếng mưa rào, đã thiếp ngủ ngon lành; trong chiếc ghế bành rộng, ông nam tước ngồi đối diện than thở vì phong thấp và làu bàu.

- Chơi jacquet sẽ làm ông khuây khỏa cho xem, - ông cha phí công nói đi nói lại, cuối cùng không có địch thủ bèn rút lui, đem Casimir đi ngủ luôn.

Đến tối hôm đó, một lần nữa một mình trong buồng, một nỗi khắc khoải không sao dẹp tan thắt bóp cả lòng cả xác thân tôi, nỗi chán chường thành ra gần như nỗi kinh hãi. Một bức tường mưa ngăn cách tôi với ngoại vật, xa mọi đam mê, xa cuộc sinh hoạt, giam tôi vào một cơn ác mộng xám xịt, giữa bao kẻ dị thù chẳng có vẻ gì là người cho lắm, những kẻ máu lạnh, màu sắc bạc phai mà trái tim thì đã hết đập từ lâu. Tôi mở va li và cầm cuốn cẩm nang lên: Tàu lửa! Bất cứ giờ giấc nào, ngày hay đêm… nó mang tôi đi thôi! Tôi ngạt thở ở nơi này…

Sự nôn nóng cản trở giấc ngủ hồi lâu.

Khi tôi thức dậy hôm sau, quyết định của tôi có lẽ vẫn không kém chắc chắn, nhưng hình như tôi hết có thể thất thố với người nhà, hết có thể bỏ đi mà không bịa ra thác từ nào chấm dứt chuỗi ngày này. Tôi đã chẳng nói sẽ chậm chân ít nhất là một tuần lễ ở Quartfourche đó sao! Thôi! Thì có hung tin thình lình triệu hồi tôi lên Ba Lê vậy… May tôi có cho địa chỉ; thế nào họ cũng gửi ngược về Quartfourche đầy đủ thư tín của tôi; tôi nghĩ nếu hôm nay không đến tay tôi một phong thư bất kỳ nào có thể cho mình khôn khéo sử dụng thì cũng lạ lắm đó… và tôi lại mong đặt hy vọng vào sự xuất hiện của người đưa thư. Người đưa thư dẫn xác tới sau mười hai giờ trưa một chút, vào giờ tàn bữa ăn; chúng tôi đâu đã rời bàn đứng dậy nếu Delphine không đem tới cho bà Floche xấp thư từ báo chương nghèo nàn mà bà phân phát ra cho thực khách. Hại thay hôm đó nhằm lúc ông cha Santal được khoa trưởng của Pont-l’Évêque mời đi dùng cơm; lối mười một giờ ông đã kiếu từ ông Floche với tôi, ngay lúc đó tôi không dè rằng như thế ông cha đã thổi giành mất cả xa lẫn mã của tôi rồi còn gì.

Như thế nghĩa là tại bữa ăn trưa, tôi đóng kịch vở hài kịch nhỏ mà tôi đã dự liệu. Bóc ra một phong thư trong những cái bà Floche giao cho tôi, tôi thốt lên nho nhỏ:

- Thôi rồi! Chán thế!…

Và vì giữ ý, mấy người không có ai ghi nhận lời thở than của tôi, tôi làm già thêm:

- Thật là nghịch đời!

Tôi làm ra vẻ ngạc nhiên và khổ tâm, trong khi lại lướt mắt đọc một mảnh giấy vô thưởng vô phạt. Cuối cùng bà Floche ướm lời hỏi han tôi, giọng e dè.

- Có tin gì trái ý thế ông?

Tôi vội vàng đáp:

- Thưa không có gì trầm trọng cho lắm. Nhưng hoài của! Tôi thấy buộc lòng phải trở lên Ba Lê không chậm trễ, do đó mà tôi phật lòng.

Từ đầu bàn tới cuối bàn, nỗi kinh dị chẳng chừa một ai, vượt quá sự mong mỏi của tôi đến độ cảm thấy mình đỏ mặt bối rối. Nỗi kinh dị ấy được biểu lộ trước tiên bằng một sự im lặng ê ẩm, kế đó ông Floche, cuối cùng bằng một giọng nói hơi rung động:

- Có thể nào như thế thật sao, ông bạn trẻ? Còn công việc của anh! Của chúng mình…

Ông không sao nói hết lời. Tôi không tìm được gì đáp lại, không tìm được gì để nói, và cảm thấy, phải, mình cũng xúc động phần nào. Mắt tôi dừng lại trên đỉnh đầu Casimir, nó thì đang cắm mũi vào đĩa, cắt quả táo ra nhiều mảnh nát. Bà Verdure đâm ra đỏ mặt phấn khích.

Bà Floche vu vơ yếu ớt:

- Tôi thiết tưởng nếu ép cầm giữ ông lại thì đó là một việc làm khiếm nhã.

Bà de Saint-Auréol bẵng nhẵng bảo:

- Cầm giữ vì những trò tiêu khiển của chốn Quartfourche này có thể mua vui đấy ư!

Tôi tìm cách chống chế:

- Thưa bà, xin bà tin cho rằng chẳng có gì…

Nhưng chẳng buồn nghe tôi, bà nam tước đã nói oang oang vào tai chồng ngồi bên cạnh:

- Ông Lacase chưa chi đã muốn bỏ đi đấy!

- Hay! Hay! Xúc động lắm.

Ông lãng tai vừa nói vừa mỉm cười hướng về tôi. Trong khi đó bà Floche hướng về phía bà Verdure:

- Nhưng tính ra làm sao đây…? Con ngựa vừa mới đi với ông cha.

Đến đây tôi nhượng một bước:

- Quý hồ sáng mai tôi có mặt ở Ba Lê vào giờ sớm nhất là được… Nếu cần, chuyến xe lửa đêm nay đã đủ.

- Bảo Gratien lập tức đi xem thử con ngựa của Bouligny dùng được không. Nói rằng phải đưa người đi cho kịp chuyến xe lửa… - và bà quay sang tôi: - Chuyến bảy giờ đã đủ, đúng thế chứ, ông?

- Thưa bà, tôi xin lỗi vì làm bà bận bịu…

Bữa ăn kết thúc trong im lặng. Ngay liền sau đó ông Floche nhỏ người kéo tôi đi, và đến khi chúng tôi chỉ riêng hai người trong hành lang dẫn tới thư viện, thì:

- Nhưng này, anh… bạn… tôi chưa tin nổi… nhưng anh cần phải tìm quen vô số những… Có thể như thế thật chăng? Nghịch đời thật! Nghịch đời chán thật! Thế mà chính tôi đã chờ cho xong xuôi công việc vào đầu của anh để đặt vào tay anh những giấy tờ khác tôi đã lấy ra tối hôm qua; tôi tin tưởng ở giấy tờ này, thú thật như thế, để lưu ý anh một cách mới mẻ và để cầm giữ anh lâu hơn. Thế này tôi phải đưa ra cho anh ngay mới được. Anh lại đây với tôi; anh còn chút thì giờ tới chiều; bởi tại tôi không dám ngỏ lời với anh để anh trở lại chốn này, chứ gì nữa?

Đứng trước sự thất vọng tủi thân của ông, tôi lấy làm xấu hổ cho cách xử sự của mình. Tôi đã làm việc không ngừng nghỉ suốt cả ngày hôm qua và buổi sáng hôm nay, để đến độ nói cho ngay chẳng còn có gì nhiều cho tôi sàng sảy với mớ giấy lúc đầu ông Floche giao cho tôi; nhưng khi chúng tôi đi vào chốn ẩn cư của ông, là liền đấy, ông rút ra từ đáy ngăn kéo, bằng một động tác bí hiểm, một cái gói bọc vải và buộc dây; một tấm giấy nhãn luồn dưới sợi dây, mang danh mục những giấy tờ, xuất xứ của chúng, như là bảng kê khai.

Ông bảo:

- Anh lấy hết cả gói; không lấy gì làm xuất sắc lắm tất cả những cái ở bên trong nhưng lọc lựa cái gì đáng chú ý thì anh sẽ làm nhanh hơn tôi.

Trong khi ông mở ra rồi đóng lại những ngăn kéo khác và loay hoay bận rộn, tôi bước xuống, vào thư viện cắp theo mớ giấy và trải ra trên chiếc bàn lớn.

Một số giấy tờ thực sự có liên hệ tới công việc của tôi, nhưng số giấy tờ này ít ỏi và có tầm quan trọng kém cỏi; số lớn, do chính tay ông Floche, nhằm tới tiểu sử của Massillon, và do đó chẳng chạm tới tôi bao nhiêu.

Có thật thế chăng, ông Floche khốn khổ trông cậy vào bấy nhiêu để cầm giữ tôi? Tôi nhìn ông; lúc này ông rút vào cái túi nhồi bông và, với chiếc kim, chăm chăm mở nút một cách tỉ mỉ từng cái lỗ một của món đồ đang chảy ra thứ nhựa sandaraque làm cho bóng giấy. Xong xuôi đâu đó, ông ngẩng đầu lên và bắt gặp tia mắt tôi. Một nụ cười thật thân mật làm ngời sáng con người ông khiến tôi xê lại nói chuyện với ông, và tựa vào thanh sắt làm đà ngang ở lối vào gian phòng nhỏ của ông, tôi nói:

- Ông ạ, sao ông chẳng bao giờ lên Ba Lê? Họ sẽ sung sướng gặp được ông lắm.

- Tuổi tôi xê dịch khó khăn mà lại tốn kém.

- Thế ông không nuối tiếc thị thành lắm hay sao?

Ông nhấc hai bàn tay, bảo:

- Ôi! Trước, tôi những tính nuối tiếc thị thành hơn thế này. Buổi đầu, vẻ tiêu sơ của điền dã hơi có vẻ nghiêm hàn đối với ai ham chuyện trò, rồi thì cũng quen.

- Thế thì ông lập cư ở Quartfourche chẳng phải là vì thích thú riêng?

Ông rút người ra khỏi cái túi nhồi bông, đứng lên, thân tình đặt bàn tay lên áo tôi:

- Tôi có vài người đồng nghiệp ở Viện mà tôi quyến luyến, trong đó có ông Albert Desnos, giáo sư yêu kính của anh; và tôi rất mực tin rằng tôi có cơ hội được chen chân cạnh họ nay mai…

Ông có vẻ muốn nói nhiều hơn; song tôi không dám đặt câu hỏi trực tiếp quá lắm.

- Thế thì chính phu nhân bị chốn điền dã lôi cuốn đến độ này?

- Kh…ông! Tuy nhiên chính vì nhà tôi mà tôi về đây; còn bà bị gọi về đây là vì một biến cố gia đình nho nhỏ.

Ông bước xuống vào văn phòng lớn và chợt nhận ra chồng giấy tôi đã buộc dây lại rồi. Ông nói buồn bã:

- Kìa! Anh đã coi hết cả rồi à. Chắc anh tìm thấy chẳng bao nhiêu thứ dùng được. Biết làm thế nào? Bao nhiêu mẩu vụn nào nhỏ nhất tôi cũng thu lượm, đôi khi tôi tự nhủ mình mất thì giờ đi sưu tầm những cái vặt vãnh; nhưng mà có lẽ cũng cần những người như tôi hầu tránh việc nhỏ nhặt cho những người khác, như anh đây, họ có thể tiện dụng đích đáng. Rồi bao giờ đọc luận án của anh tôi sẽ lấy làm sung sướng tự nhủ rằng công lao tôi đã giúp anh trong muôn một.

Chuông báo hiệu, bữa ăn dặm lên tiếng gọi chúng tôi.

Làm sao tìm cách biết được “biến cố gia đình nho nhỏ” nào đã đủ sức quyết định buộc cặp vợ chồng già? Tôi thầm nghĩ. Ông cha biết câu chuyện chăng? Đáng lẽ thay vì húc đầu vào ông, tôi phải làm cho ông thuần tính. Cần gì! Bây giờ quá chậm. Dù sao mặc lòng, ông Floche vẫn là một con người phong vận và tôi sẽ giữ kỷ niệm tốt về ông…

Chúng tôi vào đến phòng ăn.

Bà Floche bảo:

- Cháu Casimir nó chẳng dám hỏi ông xem ông có thể dạo vườn một vòng nho nhỏ với nó không; tôi biết nó thích lắm; nhưng có lẽ ông không đủ thì giờ?

Thằng bé đang chúi mặt vào chén sữa nghẹn lời.

- Tôi tính đề nghị với em đưa tôi đi đấy chứ, tôi đã cắt đặt công việc đâu vào đó rồi và sẽ rảnh rang cho đến lúc khởi hành.

Đúng lúc trời ngớt mưa…

Và tôi kéo thằng bé ra hoa viên.

Đến khúc quanh đầu tiên của lối đi, thằng bé cầm bàn tay tôi trong đôi tay nó, ép chặt bàn tay tôi hồi lâu vào khuôn mặt nóng bừng.

- Ông đã bảo sẽ ở lại tám hôm cơ mà…

- Khổ em! Tôi không thể nán lại lâu hơn.

- Ông buồn nản.

- Không! Nhưng tôi phải đi.

- Ông đi đâu?

- Lên Ba Lê. Tôi sẽ trở lại.

Tôi vừa thốt lời đó, nó đã nhìn tôi hồi hộp.

- Thật chứ? Ông hứa?

Câu hỏi của đứa bé này quá tin tưởng làm tôi không đang tâm dối lời:

- Em muốn tôi viết câu đó lên mẩu giấy rồi em giữ?

- Phải đấy! - Nó vừa nói vừa hôn thật mạnh vào tay tôi và biểu lộ vui mừng bằng những cái nhảy nhảy cuồng nhiệt.

- Em biết bây giờ có cái gì dễ yêu không? Thay vì đi câu, ta nên hái hoa tặng bà dì; cả hai chúng ta sẽ mang một bó hoa lớn vào buồng bà dì để gây cho bà ngạc nhiên thú vị.

Tôi đã tự hứa sẽ không rời Quartfourche mà chưa viếng căn buồng của một trong các bà; vì chưng các bà tới lui hoài hủy từ đầu nhà đến cuối nhà, tôi rất ngại lỡ bị phiền hà giữa cuộc dò xét tọc mạch của mình; tôi ỷ vào đứa bé để mình được phép xuất đầu lộ diện; dù có vẻ không mấy tự nhiên việc tôi theo nó xâm nhập buồng bà ngoại nó hay bà dì nó nhưng nhờ viện cớ bó hoa, may tôi sẽ tin được một cách thủ ý dễ dàng, trường hợp bị bắt gặp.

Nhưng hái hoa ở Quartfourche không dễ như tôi tưởng. Trong toàn khắp hoa viên, Gratien thi hành một lối canh gác ráo riết; không những y chỉ định những hoa nào hái thí đi được, y lại còn đành hanh nhìn ngó cách hái hoa làm sao nữa. Phải kéo cắt hoặc là dao mác và, thêm vào đó, bao nhiêu là thận trọng! Đó là những điều Casimir giải nghĩa cho tôi nghe. Gratien đưa chúng tôi đến mút bồn hoa dahlia tuyệt đẹp, tại đây có thể chiết nhiều bó miễn y đừng xuất hiện mà thôi.

- Phía trên mắt hoa chứ, cậu Casimir; phải nhắc nhở cậu bao nhiêu lần? Cứ khi nào cũng cắt phía trên mắt hoa.

Tôi không dằn lòng nói lớn:

- Nay cuối mùa, hề gì nữa.

Y làu bàu đáp lại là “lúc nào cũng hề chứ” và “đâu có mùa làm bướng”. Tôi ghê sợ bọn người càu nhàu lý sự…

Thằng bé đi trước tôi, ôm bó hoa. Đi ngang qua phòng trước, tôi với lấy chiếc bình…

Trong căn buồng, một sự thanh vắng tôn nghiêm ngự trị; mấy lá cửa sổ bịt bùng; cạnh chiếc giường lọt sâu vào một chỗ tường, một cái kệ đọc kinh bằng gỗ đào và nhung lửa lựu bên dưới một chiếc thập giá, bị che mất nửa, là một nhánh hoàng dương mảnh khảnh đeo vào một dải hồng và mắc vào bên dưới cánh chữ thập. Vẻ tĩnh mạc của giờ khắc mời gọi lời cầu nguyện; tôi quên mất mình vào làm gì và quên mất sự tọc mạch hư huyễn đã lôi kéo tôi hồi đầu vào chốn này; tôi để mặc Casimir trần thiết tùy thích các bông hoa trên tủ, và tôi không còn nhìn ngắm gì nữa hết trong căn buồng: Chính tại nơi này, trong chiếc giường rộng này, tôi nghĩ thầm, bà cụ Floche hiền hòa chẳng bao lâu nữa sẽ kết liễu hơi tàn của mình, xa lánh những luồng sinh lực… ơi những con thuyền mong mỏi phong ba! Bến này quá lặng lẽ!

Casimir lúc này đã mất kiên nhẫn với hoa; những đọt dahlia nặng trĩu đã thắng nó; cả bó hoa đổ xuống đất. Cuối cùng nó mới bảo:

- Ông giúp cháu với.

Nhưng đang khi tôi ra sức thay thế nó, nó chạy tới mút buồng phía kia đến một cái bàn có ngăn kéo và mở ra.

- Cháu sẽ làm cái mẩu giấy có lời ông hứa trở lại.

Tôi đáp, làm bộ phụ họa theo:

- Đúng rồi. Cháu nhanh lên. Bà dì thấy cháu lục lạo trong tủ bà sẽ giận lắm.

- Ý! Bà dì bận làm bếp; với lại bà chẳng bao giờ la rầy cháu đâu.

Bằng chữ viết công kỷ hơn cả, nó lấp đầy hết một tấm giấy viết thư.

- Bây giờ ông đến ký tên.

Tôi lại gần, cười nói:

- Nhưng này Casimir, cháu đâu cần phải ký tên cháu!

Thằng bé, ý hẳn để cho lời giao kết được nặng cân hơn, và có vẻ buộc luôn lời nó vào trong, đã cho là nên viết cả tên nó ở phía dưới tờ giấy, trên đó tôi đọc thấy:

Ông Lacase hứa năm sau sẽ trở lại Quartfourche.

Casimir de Saint-Auréol.

Trong một lát, nó rất đỗi ngỡ ngàng vì lời nhận xét và tiếng cười của tôi: Nó, nó đã đặt để vào tất cả tâm can! Thế mà tôi không coi trọng nó sao? Nó khóc đến nơi.

- Để tôi ngồi chỗ em ký tên.

Nó đứng lên, rồi khi tôi ký xong tấm giấy, nó nhảy lên vui sướng và hôn tràn cả bàn tay tôi. Tôi định bỏ đi; nó níu tay áo tôi lại và, chồm lên bàn, mân mê một cái lò xo và cho tuột ra một cái ngăn kéo mà nó biết cái bộ phận ngầm, nó nói:

- Cháu sẽ đưa ông xem cái này.

Rồi lục lạo giữa những dải giấy tờ biên nhận, nó chìa ra một tấm hình nhỏ dễ hỏng có lồng khung:

- Ông nhìn này.

Tôi tiến lại cửa sổ.

Câu chuyện tích người anh hùng luống tương tư chỉ vì chân dung nàng công chúa là câu chuyện nào thế?

Chân dung này đây còn gì nữa. Tôi chẳng hiểu gì về hội họa và ít quan tâm đến nghề nghiệp ấy; có lẽ một kẻ sành điệu sẽ cho tấm hình nhỏ kia là kiểu cách: Bên dưới cái nhan sắc quá dễ dãi, cái cá tính hầu như bị xóa nhòa đi; nhưng riêng nhan sắc đó là thứ nhan sắc không sao quên nổi.

Tôi đã bảo tôi chẳng kể vào đâu những ưu khuyết điểm của bức họa: Người thiếu phụ trước mắt tôi mà tôi chỉ thấy nghiêng, thái dương lấp mất nửa vì một món tóc đen trĩu xuống, con mắt bơ thờ và mơ màng buồn bã, môi hé mở như thở than, chiếc cổ mảnh mai như ngó hoa, người thiếu phụ đó mang cái dung nhan thoát phàm nhất và làm xao xuyến nhất. Mải ngắm nàng, tôi đánh mất ý thức về không gian, về thời khắc; Casimir thoạt tiên bỏ ra xa, trần thiết hoa xong xuôi, trở lại bên tôi, nghiêng mình vào:

- Má đấy… Má đẹp lắm, nhỉ!

Trước mặt đứa bé tôi không tiện cho rằng má nó thật đẹp.

- Má đâu rồi?

- Cháu không biết.

- Sao má không ở đây?

- Ở đây má chán.

- Còn bố em?

Hơi luống cuống, cúi đầu xuống và như thể tủi hổ, nó đáp:

- Bố cháu mất rồi.

Những câu hỏi của tôi làm cực lòng nó; nhưng tôi đã quyết đẩy đi xa hơn.

- Má em phải đến thăm em đôi khi chứ?

- Có chứ ạ! Nhiều khi lắm! - Nó nói quả quyết, đồng thời bỗng nhiên ngước đầu lên. Nó nói thêm, xuống giọng:

- Má đến chuyện trò với bà dì.

- Còn em, má cũng chuyện trò với em nữa chứ?

- Dạ, má lại ban đêm…

Kế đó, buông theo lòng tin cậy (nó đã nắm sẵn bàn tay tôi, vì tôi đã đặt bức chân dung xuống), một cách trìu mến và làm ra vẻ bí mật:

- Lần sau cùng má có đến hôn cháu trong giường.

- Nghĩa là thường bữa má không hôn em?

- Dạ có chứ! Nhiều lắm.

- Thế sao em bảo “lần sau cùng”?

- Tại vì lần đó má khóc.

- Lúc đó có cả bà dì em?

- Dạ không; má vào một mình trong tối, má tưởng cháu ngủ rồi.

- Má có thức em dậy?

- Ồ! Cháu đâu có ngủ. Cháu có ý đợi má.

- Nghĩa là em biết má đã đến đâu đó?

Nó lại cúi mặt xuống, không đáp.

Tôi cố hỏi thêm:

- Làm sao em biết má đã đến đâu đó?

Không có tiếng trả lời. Tôi lại nói:

- Trong tối, làm sao em biết má khóc được?

- Cháu cảm thấy thế.

- Em không đòi má ở lại?

- Dạ có chứ! Má cúi xuống giường; cháu cầm lấy tóc má…

- Thế má nói gì?

- Má cười; má bảo cháu làm xổ tóc má; nhưng má bảo má phải đi thôi.

- Thế nghĩa là má không yêu em?

- Dạ có chứ! Má yêu cháu nhiều lắm, - nó lên giọng, thình lình xê ra và khuôn mặt càng thêm đỏ gay, giọng nói bồng bột đến độ tôi lấy làm ngượng cho câu hỏi của tôi.

Giọng bà Floche lanh lảnh dưới cầu thang:

- Casimir! Casimir! Đi thưa với ông Lacase sửa soạn là vừa. Nửa giờ nữa có xe.

Tôi lao vút ra, dốc xuống cầu thang, bắt kịp bà cụ ở trong phòng trước.

- Thưa bà! Có ai mang thư đi được? Tôi tìm ra một kế tôi tin là sẽ cho phép tôi ở thêm vài ngày nữa với ông bà.

Bà ôm chầm lấy hai bàn tay tôi vào hai bàn tay bà:

- Kìa! Tôi không ngờ nổi! Quý hóa chưa…

Và vì nỗi xúc động không tìm ra gì khác nên lời, bà nhắc lại: Không ngờ nổi!… kế, chạy tới dưới cửa sổ ông Floche:

- Ông bạn ơi! Ông bạn! (bà gọi ông bằng tiếng đó). Ông Lacase chịu ở lại.

Giọng nói yếu ớt vang như quả lạc bị rè, nhưng vẫn đi đến nơi; tôi thấy cửa sổ mở, ông Floche nhoài người ra một lát; tiếp theo, khi đã hiểu ra thì lập tức:

- Tôi xuống! Tôi xuống!

Casimir theo ông; trong một lát tôi phải đương đầu với lời chia mừng của mỗi một người; tưởng chừng tôi là người của gia đình.

Tôi thảo một lá thư vẽ vời gì đó không biết và cho gửi đi một địa chỉ tưởng tượng.

Bà Floche lên tiếng:

- Trong bữa ăn, tôi sợ hơi thất thố khi tôi mời mọc ông quá khẩn khoản; mong rằng, nếu ông nán lại, công việc của ông ở Ba Lê… không đến nỗi chịu thiệt quá lắm, được chăng?

- Hy vọng không hề gì, thưa bà. Tôi cậy một người bạn trông coi việc giúp tôi.

Bà Saint-Auréol hiện đến; bà phe phẩy quạt và xoay quanh trong phòng, reo lên bằng giọng the thé hơn bao giờ hết.

- Khả ái quá! À! Tuyệt vô cùng… Khả ái quá! - Rồi mất hút, và yên tĩnh vãn hồi.

Trước bữa ăn tối một tí thì ông cha từ Pont-l’Évêque trở về; bởi ông không biết tôi rắp tâm ra đi, ông không thể ngạc nhiên biết tôi ở lại.

Ông nói, khá nhã nhặn:

- Cậu Lacase, tôi có đem ở Pont-l’Évêque về mấy tờ nhật báo; với tôi không thích những kể lể của báo chương cho lắm, nhưng tôi nghĩ ở đây cậu thiếu hụt tin tức phần nào và mấy tờ này may ra có lợi ích cho cậu.

Ông lục lạo cái túi áo tu:

- Kìa! Gratien nó đã mang lên trước vào buồng tôi cùng với cái xắc. Cậu đợi một lát, tôi đi kiếm.

- Đừng có thế, thưa cha; tự con lên lấy chứ.

Tôi đi theo đến buồng ông; ông mời tôi vào. Và trong khi ông chải áo và chuẩn bị cho bữa ăn, sau vài lời bông lông tôi bèn hỏi:

- Cha có quen gia đình Saint-Auréol trước khi đến Quartfourche?

- Không, - ông bảo tôi.

- Cha cũng không quen ông Floche?

- Tôi chuyển đột ngột từ truyền giáo qua giáo dục. Bề trên của tôi trước kia có liên lạc với ông Floche, và chỉ định cho tôi những phần vụ hiện giờ tôi đang giữ; trước khi đến đây tôi không quen học trò của tôi cùng như cha mẹ nó.

- Thế nên cha không hiểu những biến cố nào thúc giục ông Floche rời bỏ Ba Lê chừng mười lăm năm trước đây nhằm lúc ông sắp sửa bước vào Viện Bác Học.

Ông cha làu bàu:

- Mặt trái của vận số.

- Đấy! Ông bà Floche sống bám vào họ Saint-Auréol nơi này chắc!

Ông cha vụt đáp:

- Đâu có, đâu có; chính họ Saint-Auréol bị khánh kiệt hay gần gần như thế; vẫn biết Quartfourche thuộc quyền sở hữu của họ; họ Floche gia tư khá giả sống chung để giúp cho họ; phụ cấp vào sinh hoạt gia đình và có thế mới đỡ cho họ Saint-Auréol bảo toàn Quartfourche, đất này nữa sau về phần Casimir; thiết tưởng đó là tất cả những gì thằng bé có thể mong mỏi…

- Nàng dâu không được chia của cải gì?

- Dâu nào? Mẹ của Casimir không phải là dâu, nàng là con đẻ của ông bà Saint-Auréol.

- Nhưng thế thì, họ của thằng bé?

Ông cha vờ không hiểu gì hết.

- Không phải nó tên Casimir de Saint-Auréol đó sao?

Ông cha nói mát:

- Thế à! Thế thì ta nên giả dụ rằng là cô Saint-Auréol có lấy đâu một người trong họ.

- Xác đáng lắm! - Tôi đáp, hiểu được nửa vời, tuy nhiên do dự kết luận.

Ông đã chải xong áo; một bàn chân trên mép cửa sổ, ông đập mạnh chiếc khăn tay nhiều lượt để chùi giày.

- Thế cha có biết cô… cô Saint-Auréol?

- Tôi có trông thấy hai ba lần; nhưng cô tới đây vội vã thôi.

- Cô sống đâu?

Ông thẳng người dậy, vứt vào góc buồng chiếc khăn tay bụi bặm:

- Thì ra là một cuộc tra vấn nhỉ?… - Kế đó, đi về phòng rửa mặt. - Sắp sửa chuông ăn rồi mà tôi chưa sẵn sàng gì cả!

Đó là một sự xin được yên thân, môi ông bặm lại chắc chắn là còn giữ lại lắm điều để nói, nhưng lúc này không để lọt tiếng gì nữa hết.