Chương 7
Tôi lên đường rõ chậm, và ngay khi trở lên Ba Lê, nghìn thứ lo toan xô đẩy tôi về sau đưa tư tưởng tôi về nẻo khác. Sự quyết tâm mà tôi đã chọn là quay trở lại Quartfourche mùa hè năm sau làm thuyên giảm những hậm hực đã không biết đẩy đi xa hơn một cuộc phiêu du mà tôi khởi sự lãng quên, thì cuối tháng Một, tôi bỗng nhận được hai tấm phân ưu. Ông bà Floche cả hai đã trút về Chúa linh hồn leo lét hiền lành của mình, cách nhau mấy ngày. Tôi nhận ra ở ngoài phong bì phân ưu nét chữ của bà Verdure; nhưng tôi lại gửi cho Casimir lời lẽ chia buồn vô vị và tình cảm mến. Hai tuần sau tôi nhận được lá thư này:
Ông Gérard thân mến,
(Thằng bé chưa bao giờ quyết định nổi cái việc gọi tôi bằng Lacase.
- Ông tên gì thế? - Nó có hỏi tôi đúng hôm tôi bắt đầu gọi nó thân mật bằng “tu”.
- Casimir, em thừa biết mà; tôi tên là ông Lacase.
- Không phải; không phải tên đó; tên kia cơ? - Nó bác lại).
Ông tốt lắm đã biên thư cho cháu, và thư ông thật thích bởi vì lúc này Quartfourche buồn lắm. Bà của cháu thứ năm rồi phát bệnh và không rời buồng được nữa, thế là mẹ trở lại Quartfourche và ông cha đã ra đi vì làm linh mục ở Breuil. Chính sau đó ông dượng và bà dì mất. Trước là ông dượng mất, ông ấy yêu ông lắm, rồi thì Chủ nhật sau bà dì đau ba ngày. Mẹ không có mặt đây nữa. Cháu một mình với Loly và Delphine, vợ của Gratien, Gratien yêu cháu lắm; thật buồn vô cùng khi bà dì không muốn bỏ cháu. Nhưng chịu vậy. Thế là bây giờ cháu ngủ trong buồng cạnh Delphine, vì Loly có người em trai gọi về ở Orne. Gratien cũng rất tốt với cháu. Ông chỉ cho cháu giâm cây và ghép cây, thú vị lắm, với lại cháu giúp việc đốn cây.
Ông biết không, mẩu giấy khi ông có viết lời hứa, phải quên nó đi vì không còn có ai nay để đón tiếp ông. Nhưng điều này cũng làm cháu đau buồn lắm không gặp lại ông vì cháu yêu ông nhiều. Nhưng cháu không quên ông.
Bạn nhỏ của ông,
CASIMIR
Cái chết của ông bà Floche, tôi khá thản nhiên, nhưng còn lá thư vụng về trống trải kia dao động người tôi. Tôi không rỗi rảnh lúc này, nhưng tôi thầm hứa, ngay những ngày lễ Phục sinh sẽ dấn thân dò la tới tận Quartfourche. Cần gì việc dưới đó họ không thể đón tiếp tôi? Tôi sẽ xuống Pont-l’Évêque và thuê một chiếc xe. Có cần phải nói thêm rằng cái ý nghĩ biết đâu gặp lại nàng Isabelle huyền diệu tại đó lôi cuốn tôi tới cũng ngang bằng với lòng trắc ẩn cao độ đối với thằng bé. Nhiều đoạn trong thư tôi vẫn không hiểu; tôi lập mạch lạc khó khăn giữa các sự kiện… Sự phát bệnh của bà cụ, việc Isabelle đến Quartfourche, sự ra đi của ông cha, cái chết của hai người già không có cháu gái dự kiến, bà Verdure bỏ đi,… phải coi đó hoàn toàn là một chuỗi ngẫu nhiên những sự kiện hay sao, hay tìm trong đó một liên quan? Casimir không biết đâu, mà ông cha cũng không muốn tin cho tôi. Đành chờ tháng Tư vậy. Ngay ngày rảnh thứ hai, tôi lên đường.
Đến ga Breuil, tôi nhác thấy ông cha Santal sửa soạn lên chuyến tàu của tôi, tôi gọi với.
- Cậu đã về lại chốn này, - ông bảo.
- Quả tình tôi không tưởng trở lại mau thế này.
Ông bước lên ngăn xe của tôi, chỉ có hai chúng tôi.
- Phải! Có chuyện xảy ra từ buổi anh viếng.
- Vâng, tôi có được tin hiện nay cha làm quản xứ ở Breuil.
- Nói cái gì đó, - và ông đưa bàn tay phác một cử chỉ quen thuộc. - cậu nhận được giấy báo tin?
- Tôi cũng đã gửi lời phân ưu ngay cho học trò của cha; chính được nhờ nó sau đó tôi được nhiều tin tức; nhưng nó cho tôi biết thiếu sót. Tôi đã định gửi thư cho cha để hỏi vài chi tiết.
- Nên lắm.
Tôi cười nói tiếp:
- Tôi nghĩ rằng cha không sẵn lòng chỉ dẫn cho tôi.
Nhưng ông cha có lẽ ít quan tâm đến sự kín miệng cho bằng quan tâm đến thì giờ ở lại Quartfourche nên hình như ông sẵn sàng thổ lộ. Ông nói:
- Cậu có tin rằng câu chuyện xảy ra ở đó như thế là khổ không? Bao nhiêu đại lộ sẽ chạy ngang qua đó!
Lúc đầu tôi chẳng hiểu gì hết; sau, câu của Casimir hiện về trí nhớ: “Cháu giúp việc đốn cây…”.
Tôi hỏi ngớ ngẩn:
- Tại sao lại làm thế?
- Tại sao à? Thì cậu đi hỏi bọn chủ nợ xem. Song, không phải bọn họ lý tới chuyện đó, và mọi sự làm sau lưng họ. Tài sản đầy rẫy những cầm cố thế nợ. Cô Saint-Auréol hốt được cái gì là hốt.
- Nàng có ở đó?
- Làm như cậu không hay!
- Tôi ngờ ngợ thế thôi chỉ là nhờ mấy chữ của…
- Chính từ khi nàng ở đó, mọi sự mới tệ.
Ông bình tĩnh lại được một lát; nhưng lần này nhu cầu thổ lộ thắng thế; ông cũng chẳng còn chờ tôi hỏi và tôi xét thấy đừng hỏi là phải hơn; ông tiếp lời:
- Làm sao nàng được tin mẹ nàng bị bại liệt? Chính điều đó tôi không thể giải thích. Khi nàng đã biết rằng bà cụ nam tước không rời nổi ghế là nàng về mang theo hành lý, và bà Floche thì không có can đảm đuổi nàng. Lúc đó là lúc tôi bỏ ra đi.
- Cha bỏ Casimir ở lại như thế buồn thật.
- Có thể buồn đấy, nhưng chỗ của tôi không phải là ở cạnh một hạng người… Tôi quên mất cậu đã bênh vực nàng…!
- Tự tiện. Phải, phải; bà Verdure cũng bênh vực nàng. Bà ta bênh vực cô nàng cho tới lúc chứng kiến cái chết của ông bà chủ.
Tôi tán thưởng cho điều ông cha đã cởi bỏ hồ hết cái ngôn ngữ hoa mỹ mà ông đã mặc vào mình hồi ở Quartfourche; ông đã thâu thái cử chỉ và lời nói riêng của mấy ông cha ở các làng Normandie. Ông nói tiếp, đeo đuổi câu chuyện:
- Bà ta cũng cho là kỳ cục thấy cả hai người chết một lượt.
- Có phải là…?
- Tôi không nói sao hết. - và ông phồng môi trên vì thói quen lâu đời, nhưng nói trở lại liền ngay; - Tuy nhiên trong vùng người ta dị nghị. Thấy cô cháu gái thừa hưởng của cải không đẹp mắt. Và cậu thấy đấy, bà Verdure cũng xét thấy tốt hơn là bỏ đi.
- Ai ở lại với Casimir?
- Ấy! Cậu cũng hiểu mẹ nó đâu phải là tất cả cho thằng bé. Thế là nó sống hầu hết thì giờ với vợ chồng Chointreuil, cậu thừa biết: gã làm vườn với vợ gã đấy.
- Gratien?
- Phải, Gratien, y muốn chống đối việc người ta đốn cây trong hoa viên, nhưng không ngăn cản được chút nào. Khốn cùng rồi.
- Nhưng ông bà Floche đâu phải không có tiền.
- Nhưng ăn sạch từ ngày đầu rồi mà cậu. Trong ba cái nông trại ở Quartfourche, bà Floche chiếm hai, hai cái này đã bán lâu cho tá điền rồi. Cái thứ ba, cái nông trại nhỏ thuộc quyền sở hữu của bà nam tước luôn, cái này không còn cho mướn nữa, Gratien trông coi sự gây lợi, nhưng nó với bao nhiêu cái khác sẽ bán bây giờ.
- Cả Quartfourche sẽ bị bán ư?
- Bán đấu giá nhưng chưa thể thi hành trước cuối hè. Trong khi chờ đợi, tôi xin cậu tin cho rằng cô ả thừa cơ. Cuối cùng cô ả cũng nhượng bộ, nhưng nhổ cho xong phân nửa số cây đã…
- Làm sao tìm ra người để bán cây, nếu nàng không có quyền bán?
- Ôi! Cậu còn trẻ. Khi mà người ta bán giá rẻ mạt, bao giờ cũng tìm ra người mua.
- Viên thừa phát lại nhỏ nhít nào cũng ngăn cầm nổi chứ.
- Thừa phát lại thông đồng với người chạy áp-phe của bọn chủ nợ, tên chạy áp-phe ở luôn lại đó và - ông nghiêng đầu vào tai tôi - hắn ngủ với cô ả, cậu thích biết hết thì đấy.
Không lộ vẻ khích động vì câu sau của ông cha, tôi hỏi:
- Còn các sách với giấy tờ của ông Floche?
- Bất động sản của lâu đài cùng thư viện sẽ là việc bán chác sắp tới; hay nói cho chính xác hơn: sẽ bị tịch biên. Dưới đó, may không có ai ngờ gì về giá trị của một số thư phẩm; bằng không các sách này đã biến mất từ lâu.
- Một tên lưu manh nào có thể xộc tới…
- Bây giờ những cái gì niêm phong đã đặt đâu vào đấy; cậu khỏi lo; chừng nào tổng kê mới dỡ những thứ đó đi.
- Bà nam tước có nói năng gì về các vụ đó?
- Bà chẳng ngờ gì cả; họ mang thức ăn vào buồng cho bà; thậm chí bà còn không biết con gái bà có mặt đó.
- Cha không đả động gì đến ông nam tước?
- Ông chết đã ba tuần nay, ở Caen, trong một ngôi nhà hưu trí, nơi chúng tôi mới xin cho ông được thu nhận.
Chúng tôi tới Pont-l’Évêque. Một ông linh mục đến đón cha Santal, ông này từ giã tôi sau khi chỉ cho tôi một khách sạn và một người cho mướn xe.
Chiếc xe tôi mướn được hôm sau đã đổ tôi xuống ngõ ra vào hoa viên Quartfourche; giao hẹn xe sẽ đến rước tôi sáu giờ sau đó, sau khi ngựa nghỉ ngơi trong chuồng một nông trại.
Tôi bắt gặp cổng sắt hoa viên mở toang, nền đất của lối đi bị nghiến vì chuyên chở.
Tôi vẫn ngỡ tình trạng hoang tàn khủng khiếp mà lại ngạc nhiên một cách mừng rỡ nhận ra lối vào, đang đâm lộc non, “cây giẻ gai lá đào”, người bạn quen biết lớn; tôi không suy nghĩ rằng có lẽ nó còn sống là nhờ gỗ nó quá kém cỏi; đi tới, tôi nhận thấy lưỡi rìu đã chém vào những cây đẹp nhất. Trước khi đi sâu vào hoa viên, tôi muốn thăm lại chiếc nhà dù nhỏ nhắn nơi tôi khám phá ra lá thư của Isabelle, nhưng, phụ giúp cho cái khóa gãy, một ổ khóa đã ghì lấy cái cửa (về sau tôi mới biết rằng thợ đốn củi dồn vào nhà dù kia những dụng cụ và quần áo). Tôi lần về phía lâu đài. Lối đi tôi đang theo thẳng tắp, có bụi cây thấp ven lề; nó không ngả về mặt tiền, mà lại ngả về phía nhà xí, nó dẫn tới nhà bếp và gần đối diện với bếp là hàng rào nhỏ vườn cây mở ra; tôi còn cách khá xa thì bỗng thấy Gratien từ vườn cây bước ra đèo một rổ rau; y nhác thấy tôi nhưng ban đầu không nhận ra tôi; tôi gọi y; y đến tôi, và bộc trực:
- A kìa, ông Lacase! Không ngờ gặp ông giờ phút này, dĩ nhiên!
Y đứng ngây nhìn tôi, gục gặc đầu và không che giấu sự lúng túng do sự có mặt của tôi gây ra; nhưng y tiếp lời, nhỏ nhẹ hơn:
- Dù sao cậu nhỏ sẽ mừng gặp lại ông.
Chúng tôi đi vài ba bước không nói, phía nhà bếp; y ra dấu cho tôi chờ và đi vào để cái rổ.
- Đây, ông đến chứng kiến những chuyện xảy ra ở Quartfourche, - y nói, vừa trở ra lại với tôi giọng lịch sự hơn.
- Và hình như những chuyện không êm đẹp gì cho lắm?
Tôi nhìn y; cằm y máy động, y đứng không trả lời tôi; thình lình y nắm lấy tay tôi kéo tôi đến bồn cỏ nằm phơi trước thềm cấp phòng khách. Nơi đây tử thi một cây sồi to tướng nằm dài, dưới cây này tôi nhớ đã trú mưa vào mùa thu: vây quanh nó chất chồng thành đống, thành bó những cành của nó mà trước khi triệt hạ nó người ta đã tỉa trụi.
Y bảo tôi:
- Ông biết đáng giá bao nhiêu không, một cây như thế này? Mười hai pistole. Và ông biết bọn họ trả nó bao nhiêu không? Cây này cũng như những cây khác… Một trăm xu.
Tôi không biết rằng trong vùng này gọi bằng pistole những đồng mười quan; nhưng không phải lúc hỏi han giảng giải. Gratien nói bằng một giọng nghẹn ngào. Tôi quay lại y, y đưa lưng bàn tay lên mặt quệt nước mắt hay mồ hôi rồi nắm chặt hai tay:
- Ối! Bọn ăn cướp! Bọn ăn cướp! Khi tôi nghe chúng nện dao nện rìu vào cây, ông ơi, tôi điên lên; tiếng nện lên đầu tôi; tôi muốn kêu cứu tôi! Ăn trộm! Tôi muốn tới phiên tôi đấm đánh; tôi muốn giết. Hôm kia tôi ở nửa ngày dưới hầm, tôi bớt phải nghe… Lúc đầu cậu nhỏ thích nhìn bọn thợ củi làm; khi cây sắp sửa ngã, họ gọi cậu để kéo dây; và rồi thì, khi bọn cướp tràn tới gần nhà, tiếp tục chặt đốn, cậu nhỏ mới bắt đầu thấy kém vui; rồi cậu bảo: Không! Đừng cây này! Chớ cây kia! - Khổ cậu ơi, tôi bảo cậu cây này hay cây kia, có giành lại cũng chẳng phải cho cậu đâu. Tôi có nói rõ cho cậu rằng cậu không thể ở lại Quartfourche; nhưng cậu còn nhỏ quá; cậu không hiểu rằng cái gì cũng bắt đầu không còn là của cậu nữa. Chỉ mong sao có thể giữ chúng tôi ở lại cái trại nhỏ; tôi sẽ rất vui lòng đem cậu trẻ đến đó với chúng tôi, chắc chắn thế; nhưng có điều biết đâu kẻ nào đó sẽ mua nó đi, và cái tên lưu manh, người ta lại muốn đặt nó đấy tranh chỗ chúng tôi!… Ông thấy không ông, tôi chưa đến nỗi già quá, nhưng tôi muốn chết còn hơn thấy bao nhiêu điều.
- Ai ở trong lâu đài, bây giờ?
- Tôi không muốn biết cái đó. Cậu trẻ ăn với chúng tôi dưới bếp; thế mà hơn. Bà nam tước không ra khỏi buồng nữa rồi; phúc cho bà, tội nghiệp… Chính Delphine dọn bữa ăn mang vào cho bà, đi bằng cầu thang ngả sau, có những người mà vợ tôi nó không muốn gặp giữa đường. Những ai khác có ai hầu hạ, chúng tôi không nói chuyện cùng.
- Nay mai họ không tính tịch biên bất động sản chứ?
- Lúc đó thì sẽ cố đem bà nam tước ra ngoài trại, chờ người ta đem bán trụi luôn với tòa lâu đài.
- Còn cô… còn người con gái bà? - Tôi hỏi ngập ngừng, vì không biết gọi nàng ta ra làm sao.
- Cô có thể tha hồ đi đâu tùy thích; nhưng đừng có đến chúng tôi. Vẫn là tại vì cô, những cái xảy ra.
Giọng y run lên, giận hờn nghiêm trọng đến độ tôi hiểu ra dạo đó con người này có thể đi vào tội ác để che chở danh dự của chủ mình là thế.
- Cô hiện giờ ở trong lâu đài?
- Giờ này, chắc là phải đi dạo trong hoa viên. Ý hẳn cái này chẳng đau đớn gì cho cô; cô nhìn bọn chặt cành tỉa lá; còn có nhiều hôm cô chuyện vãn với chúng tôi, không xấu hổ. Nhưng khi trời mưa, cô không ra khỏi buồng; đấy, buồng nằm nơi góc; cô đứng sát vào kính nhìn ra vườn đấy. Giá như cái ông của cô không bỏ đi Lisieux trong mười lăm phút thì tôi không ló mặt ra như thế này đâu. Ôi! Đẹp mặt cả đám, ông Lacase ơi, có thể nói thế; chứ gì! Ví phỏng chủ nhân già đáng thương của chúng tôi hiện về để thấy thế này ở nhà mình, các cụ sẽ mau quay về lại nơi an giấc.
- Casimir có ở đâu đây không?
- Tôi tưởng cậu cũng dạo chơi trong hoa viên đấy. Ông muốn tôi gọi cậu cho?
- Thôi, tôi kiếm được. Hẹn chốc nữa nhé. Chắc chắn tôi sẽ gặp Delphine và chú trước khi đi.
Sự tàn phá của bọn thợ củi coi mòi khốc liệt hơn nữa vào thời kỳ này trong năm, lúc mà mọi vật chuẩn bị hồi sinh; lộc non bung ra, và mỗi cành cây bị chặt rỉ rỉ nhựa. Tôi tiến bước chầm chậm, tự tôi không buồn mà dậy lòng vì tang thương của cảnh vật thì nhiều, có lẽ tôi hơi ngất ngây vì mùi vị mãnh liệt của thảo mộc mà cây cối lâm chung và đất bị cày xới tỏa ra. Tôi không may xúc động cho sự tương phản giữa bao nhiêu cái chết kia và cảnh tân xuân; hoa viên cũng phơi mở rộng hơn trong ánh sáng đang tắm gội và nhuộm vàng đồng đều lên cái chết và cái sống; nhưng lúc đó, ở xa, ca điệu bi ai của búa rìu ngập tràn không khí bằng sự nghiêm hàn tịch diệt đang nhịp nhàng thầm kín với những tiếng đập hân hoan của tim tôi, và bức thư tình xưa cũ tôi mang theo, mà tôi đã tự hứa không dùng đến nhưng từng lúc tôi ép vào tim, làm nóng bỏng tim này. Không còn gì có thể ngăn cấm tôi nữa, tôi lại nhủ thầm, và tôi cười thầm cho bước chân tôi hấp tấp tưởng tới Isabelle mà thôi; ý chí chẳng hiệu lực gì ở đây, nhưng là một nguồn lực nội tại sinh động con người tôi. Kỳ diệu thay sự tàn phá lại thêm vào cho vẻ đẹp cảnh vật cái âm sắc man dã, âm sắc này, với một vẻ sung dật sinh khí thế nào đó, phấn khích thêm cho sự thưởng ngoạn; kỳ diệu thay, những lời bêu rếu của ông cha sao ít hiệu lực ly khai tôi với Isabelle đến thế và tất cả bao nhiêu điều tôi khám phá về nàng tăng trọng thêm lòng ham muốn khó tả… Cái gì khiến nàng còn quyến luyến chốn này đã nhung nhúc kỷ niệm ghê tởm? Quartfourche này mà bán đi, tôi biết, nói cho đúng chẳng có gì còn lại cho nàng hay thuộc về nàng. Sao nàng không lánh xa? Và tôi mơ mộng bắt cóc nàng đi đêm nay trong xe tôi; tôi vội bước, khác nào chạy, thì hốt nhiên, đàng xa trước mặt tôi, tôi thấy nàng. Đúng là nàng, không ngờ vào đâu được, mặc tang phục và đầu trần, ngồi trên một thân cây đốn ngã chắn ngang lối đi. Tim tôi đập mạnh đến nỗi tôi phải dừng lại chốc lát; rồi thì, về phía nàng, tôi chầm chậm tiến lại, kẻ du hành trầm tĩnh thản nhiên.
- Xin lỗi bà… có phải tôi đang ở Quartfourche, đúng chăng?
Cái giỏ nhỏ đựng đồ nữ công để trên thân cây cạnh nàng đấy cuộn chỉ, dụng cụ thêu thùa, những mảnh băng tang cuốn lại, hay xổ ra, và nàng bận để vài miếng lên một chiếc mũ dạ đơn sơ cầm ở tay; một chiếc dải xanh lục có lẽ nàng vừa bứt ra kéo lê xuống đất. Một chiếc áo choàng ngắn ngủn bằng vải đen khoác lên vai, và khi nàng ngẩng đầu, tôi để ý thấy chiếc kim cài thô kệch giữ lấy cái cổ áo kín. Chắc nàng đã thấy tôi từ xa trước rồi, vì giọng nói tôi có vẻ không làm nàng giật mình.
- Ông đến mua đất? - Nàng nói, và giọng nói nàng, mà tôi nhận ra khiến tim tôi đập mạnh. Trán nàng lồ lộ sao mà đẹp thế!
- Thưa không! Tôi đến thăm viếng thôi. Cổng mở và tôi thấy nhiều người đi lại. Nhưng đi vào e đường đột chăng?
- Bây giờ ai muốn cũng có thể vào được!
Nàng thở dài thâm trầm, nhưng sực tỉnh, nàng trở lại với công việc làm như không thể còn gì nữa mà nói với nhau.
Không biết làm cách nào tiếp tục cuộc chuyện trò có lẽ sẽ vô tiền khoáng hậu, sẽ phải có tính cách quyết định, nhưng hình như không phải lúc làm đột ngột; lo toan thận trọng thêm vào, và đầu óc tâm can ngập tràn toàn sự mong chờ cùng câu hỏi mà tôi chưa dám nêu lên, tôi đứng đấy trước mặt nàng, lấy mũi gậy khua đi những mảnh củi vụn, quá lúng túng cũng là quá khiếm nhã và quá vụng về, khiến cuối cùng nàng ngước mắt lên, nhìn xỉa xói vào tôi và tôi tưởng nàng bật cười đến nơi; nhưng nàng chỉ nói thế này, có lẽ vì lúc đó tôi đội chiếc mũ mềm trên mớ tóc dài, và vì không có công việc thiết thực nào làm tôi vội vã:
- Ông là nghệ sĩ?
Tôi mỉm cười đáp:
- Thưa tiếc là không phải, nhưng không sao, tôi biết thưởng thức thơ.
Và không dám nhìn nàng nữa, tôi cảm thấy ánh mắt nàng trùm lấy người tôi. Sự nhạt nhẽo giả dối của lời qua tiếng lại, tôi thấy nó ghê tởm và tôi khổ tâm chịu đựng.
Tôi lại nói:
- Hoa viên đẹp quá.
Tôi thấy hình như nàng chỉ đòi được chuyện trò và cũng như tôi, chỉ lúng túng biết cách làm sao vào chuyện thôi; vì nàng trở lại kêu ca rằng khổ cho tôi không thể nào xét đoán ngay trong mùa hiện tại cái hoa viên kia có thể biến hóa thế nào vào mùa thu, còn lóng cóng và chưa tỉnh giấc mùa đông.
Ít ra có thể trở thành như vậy, nàng tiếp lời, từ nay nó sẽ còn lại gì sau cái công tác ghê tởm của bọn thợ củi?
Tôi nói lớn:
- Không ngăn họ được sao?
- Ngăn họ! - Nàng lặp lại mỉa mai, nhún vai thật cao; và tôi tưởng chừng nàng để lộ cho tôi thấy chiếc mũ dạ tồi tàn để làm bằng cho cảnh cùng khốn của nàng, nhưng nàng đã nhấc mũ để lên đầu, mũ lật về sau và để lộ vầng trán; rồi nàng bắt đầu xếp lại những mẩu vải tang như thể soạn sửa đi. Tôi cúi xuống nhặt ở chân nàng cái dải xanh lục, đưa cho nàng. Nàng không lấy, bảo:
- Tôi dùng vào việc gì bây giờ. Ông thấy tôi đang thọ tang.
Liền đó tôi cho nàng hay tôi buồn được tin ông bà Floche mất, sau cùng đến ông nam tước mất; và vì nàng lấy làm ngạc nhiên thấy tôi quen biết song thân nàng, tôi nói cho nàng biết rằng tôi đã sống cùng ông bà mười hai ngày trong tháng Mười vừa qua.
Nàng tiếp lời xăng xái:
- Thế tại sao hồi nãy ông vờ không biết mình ở đâu?
- Tôi không biết làm sao làm quen với cô.
Kế, chưa tỏ lộ quá đáng, tôi bắt đầu kể lại cho nàng nghe sự hiếu kỳ say sưa đến thế nào đã cấm giữ tôi ngày một ngày hai tại Quartfourche trong hy vọng gặp nàng và (vì tôi không đả động tới cái đêm tôi tò mò nhìn trộm nàng) sau cùng là tôi ân hận trở lên Ba Lê mà không gặp nàng.
- Cái gì khiến ông thích biết tôi lắm thế?
Nàng hết làm ra vẻ bỏ đi. Tôi kéo một bó củi dày dặn lại trước mặt nàng, gần bên nàng, và ngồi xuống, nàng chăm chú, một cách trẻ con, cuộn lại những dải băng tang và tôi không còn bắt gặp tia mắt nàng nữa. Tôi nói với nàng về tấm hình nhỏ và băn khoăn về tấm chân dung đó đã ra sao rồi, chân dung mà tôi yêu, nhưng nàng không biết nó.
- Chắc người ta sẽ tìm thấy nó chừng nào giở các đồ niêm phong… Và nó sẽ được đem bán theo các thứ còn lại, - nàng nói thêm kèm theo nụ cười khô ráo làm tôi mệt bụng. - Có vài xu, ông có thể mua nó, nếu ông còn thích.
Tôi cam quyết là tôi buồn lòng thấy nàng không coi nặng một thứ tình cảm mà diễn tả suông nó ra thì cục mịch, nhưng tình cảm đã chiếm trọn lòng tôi từ lâu; nhưng bây giờ nàng vô cảm xúc và có thể nhất định không còn nghe chuyện gì về tôi nữa. Thì giờ eo hẹp. Tôi không có được gì để phá vỡ sự im lặng của nàng sao? Bức thư nồng nàn rung động dưới ngón tay tôi. Tôi đã soạn sẵn không hiểu một câu chuyện gì đó và liên hệ xưa kia giữa gia đình tôi và gia đình Gonfreville, nghĩ bụng may ra nó đưa đẩy nàng nói; nhưng lúc này đây tôi chỉ còn cảm thấy có sự phi lý của lời gian dối đó và bắt đầu thuật lại thật đơn giản do sự tình cờ huyền bí nào trong bức thư - và tôi đưa thư cho nàng - lọt vào tay tôi.
- Xin cô đừng xé tờ đó! Đưa lại cho tôi…
Nàng đâm tái mét như chết và giữ lấy giây lát bức thư trải rộng trên gối, không đọc; tia mắt mông lung, mi mắt nhấp nháy, nàng thì thào:
- Quên lấy lại! Làm sao tôi có thể quên bẵng bức thư này?
- Có lẽ cô tưởng thư tới tay người đó, người đó đã đến lấy…
Nàng vẫn không nghe tôi. Tôi làm một động tác để lấy lại bức thư nhưng nàng hiểu lầm cử chỉ của tôi:
- Để tôi yên, - nàng la lớn và đẩy tay tôi một cách tàn bạo. Nàng nhổm dậy, muốn trốn thoát. Quỳ dưới chân nàng, tôi giữ nàng lại.
- Xin cô đừng sợ tôi; cô thấy rõ tôi không muốn làm hại gì cô hết. - Và khi nàng ngồi xuống lại hay nói đúng hơn ngã xuống lại mềm nhũn, tôi van nàng đừng phiền trách tôi nếu sự tình cờ đã chọn tôi làm bạn tâm sự bất đắc dĩ của nàng, nhưng van nàng tiếp tục tin tưởng tôi, lòng tin đó tôi thề không phản bội. Ôi! Sao bây giờ nàng không thổ lộ với tôi như với một người bạn đích thực và làm như thể tôi không biết gì về nàng nếu nàng chưa cho tôi hay?
Nước mắt tôi đổ tràn khi nói năng có lẽ có hiệu lực thuyết phục nàng hơn là lời lẽ. Tôi nói tiếp:
- Trời! Tôi biết cái chết khốn nạn như thế nào đã cướp mất ngay đêm ấy người yêu của cô… Nhưng làm sao cô được tin tang tóc đó? Đêm đó cô đợi, sẵn sàng trốn theo, cô nghĩ ngợi gì? Cô làm những gì khi không thấy người tình của cô xuất hiện?
Giọng bi thương, nàng bảo:
- Vì ông biết hết, ông cũng thừa hiểu tôi không việc gì phải đợi chàng, sau khi tôi đã báo trước cho Gratien hay.
Tôi có một linh cảm cực kỳ đột ngột về sự thật kinh tởm khiến những tiếng này vọt ra như hét:
- Sao? Chính cô sai giết người tình?
Bấy giờ, thả rơi xuống đất bức thư và chiếc giỏ làm những đồ vật vụn vặt vung vãi ra, nàng ôm trán gần xuống trong đôi tay và bắt đầu nức nở quên thôi. Tôi nghiêng mình đến nàng và định cầm lấy một bàn tay nàng trong tay tôi.
- Không! Ông là con người bạc bẽo tàn bạo.
Tiếng hét vô ý của tôi cắt nghẽn nguồn thổ lộ của nàng: Bây giờ nàng rắn người lại với tôi; trong lúc đó tôi vẫn ngồi trước mặt, quyết không rời nàng trước khi nàng giải minh tận tường hơn. Cuối cùng cơn nức nở lắng dịu; tôi từ tốn thuyết phục nàng rằng nàng đã nói quá nhiều không thể bình nhiên cầm lặng nữa, mà một sự phân phó chân tình cũng sẽ không thể làm nhỏ nàng trước mắt tôi và không có lời thú nhận nào kể từ giờ làm tôi cực lòng cho bằng im lặng của nàng. Khuỷu tay tỳ lên gối, hai bàn tay đan nhau lấp vầng trán, nàng thuật lại cho tôi như sau đây:
Đêm trước cái đêm nàng ấn định để thoát ly, trong nỗi bồng bột yêu đương lúc chong đèn, nàng đã viết bức thư đó; hôm sau, nàng đem thư ra nhà dù, thư đút vào nơi kín đáo mà Blaise de Gonfreville quen thuộc và nàng biết chàng không lâu sẽ đến lấy. Nhưng ngay khi trở về lâu đài, khi trở vào trong căn buồng mà nàng muốn vĩnh ly, một nỗi khắc khoải không nói được đã xâm chiếm lấy nàng, mối sợ hãi cho tự do mà nàng không biết sẽ như thế nào mà mình đã khát khao man dại, sợ hãi tình nhân mà nàng hãy còn kêu gọi, sợ hãi chính mình và sợ hãi cho điều mình phập phồng liều lĩnh. Phải, quyết định đã xong, phải, nỗi cắn rứt đã bị đè ém, nhục nhã đã uống vào, nhưng bây giờ không có gì cầm giữ nàng nữa hết, đứng trước cánh cửa mở ra thoát ly, bỗng nhiên nàng thiếu mất can đảm. Ý nghĩ trốn thoát đối với nàng trở thành bỉ ổi, không dung thứ nổi; nàng chạy lại nói với Gratien rằng nam tước Gonfreville dự định bắt cóc nàng, rứt nàng ra khỏi mẹ cha ngay đêm nay, rằng sẽ tìm thấy chàng rảo gần chiếc nhà dù nơi rào sắt trước khi trời tối, và phải ngăn chặn trước đừng để chàng đến gần cổng sắt.
Tôi lấy làm ngạc nhiên sao nàng không đi lấy lại bức thư có phải giản tiện hơn không và thay thế bằng một bức thư khác, trong lá thư này giả thử nàng làm cho người yêu nản lòng bỏ công việc điên rồ như thế. Nhưng những câu tôi hỏi nàng, nàng không ngừng tránh trớ, vừa khóc vừa đáp rằng nàng thừa biết tôi không hiểu nàng nổi đâu và chính nàng cũng không thể giải thích rõ hơn, nhưng thể mà nàng tự cảm thấy đã không đủ sức hắt hủi tình nhân, lại không đủ sức theo chàng; rằng sự sợ hãi, đã làm nàng tê liệt đến độ, việc trở lại nhà dù trở thành một việc làm trên sức nàng; rằng vả chăng, vào giờ đó trong ngày, cha mẹ nàng lo sợ canh giữ nàng, chính vì thế mà nàng buộc phải cầu cứu Gratien.
- Có thể giả thử như chàng xem nặng những lời thoát ra từ cơn mê sảng của tôi được không?… Tôi nghĩ rằng nó sẽ khiến chàng xa lánh mà thôi… Tôi giật bắn người khi một giờ sau nghe một tiếng súng phía rào sắt; nhưng ý nghĩ tôi xua đuổi một giả thuyết rùng rợn và tôi không chịu nghĩ đến; trái lại, từ khi báo cho Gratien, tâm trí rảnh rang tôi cảm thấy như là mừng vui… Nhưng khi đêm đến, nhưng gần đến giờ đáng ra là giờ tôi trốn, lạ thật! Tôi mặc lòng vẫn bắt đầu chờ đợi, tôi trở lại bắt đầu hy vọng; ít ra, một thứ tin tưởng nào đó, mà tôi biết là không đúng sự thật, xen lẫn vào nỗi thất vọng, tôi không sao nhận thức được rằng sự nhát gan, yếu lòng trong giây lát lại bất đồ làm tiêu ma giấc mộng xưa nay của tôi; tôi không lai tỉnh; phải, như là mê ngủ, tôi bước xuống vườn, rình từng tiếng động, rình từng bóng tối; tôi chờ nữa thêm…
Nàng lại bắt đầu nức nở:
- Không, tôi đã hết chờ, - nàng nói tiếp; - tôi tìm cách dối mình và thương hại cho mình, tôi bắt chước làm kẻ đợi chờ. Tôi ngồi xuống trước bồn cỏ, trên bực cấp thấp nhất của thềm; tim ráo hoảnh không đổ ra một giọt lệ nào nổi; và tôi không nghĩ tới cái gì nữa hết, không biết mình là ai nữa, ở đâu, đến làm cái gì. Trăng vừa soi sáng bồn cỏ đã biến mất; lúc bấy giờ hơi lạnh rùng mình thâm nhập vào người; tôi những muốn sao nó úp chụp lấy tôi cho kỳ tắt thở. Hôm sau tôi ngã bệnh nặng và người y sĩ được gọi tới tiết lộ cho mẹ tôi là tôi có thai.
Nàng ngừng lại vài lát.
- Bây giờ ông biết những điều ông muốn biết. Nếu tôi kể tiếp, sẽ là chuyện của một người đàn bà khác, ông sẽ không còn nhận ra nàng Isabelle nơi tấm hình nhỏ.
Thế này tôi cũng đã khá khó lòng nhận ra người đàn bà mà trong tưởng tượng của tôi mê đắm. Nàng ngắt câu chuyện bằng những thở than, có thế thật, trách cho số phận, và nàng thương cho thơ mộng và tình cảm luôn luôn thua thiệt ở trên đời; nhưng tôi lấy làm buồn không mảy may nhận ra trong giọng nói hay đẹp của nàng những họa âm nồng nàn của trái tim. Lời nàng ân hận cho riêng nàng thôi? Sao thế nhỉ? Tôi thầm nghĩ, nàng biết yêu lắm đó sao?
Đến đây tôi nhặt nhạnh những vật vụn trong giỏ đổ ra, chúng rơi tứ tán trên mặt đất. Tôi không còn cảm thấy một ham thích nào nữa để hỏi nàng thêm; vụt chốc hết tò mò về con người nàng và về đời sống nàng, tôi đứng trước mặt nàng như thằng bé đứng trước món đồ chơi nó đập vỡ ra để khám phá cái bí ẩn; và ngay cả vẻ quyến rũ về hình thể mà nàng vẫn còn mang đã hết đánh thức dậy trong thịt da tôi một xáo động nào, luôn cả cái nhấp nháy đa tình của mi mắt nàng nữa mà vừa rồi nó làm tôi rúng động. Chúng tôi trò chuyện về chính cái xác xơ của nàng; và vì tôi hỏi nàng định làm gì, nàng đáp:
- Tôi sẽ tìm cách dạy, dạy đàn dương cầm, hay dạy hát. Tôi có phương pháp hay.
- Kìa! Cô hát?
- Phải; và tôi đàn dương cầm. Trước tôi là học trò của Thalberg… Tôi cũng rất thích thơ.
Và vì tôi không tìm ra gì để nói với nàng.
- Tôi chắc chắn ông có thuộc thơ! Ông không vui lòng đọc cho tôi nghe?
Chán chê, đau lòng cho ý thức tầm thường đó về thi ca đã dứt khoát đuổi tình yêu đó ra khỏi lòng tôi. Tôi đứng lên để cáo từ.
- Sao! Ông bỏ đi rồi sao?
- Đành vậy! Cô cũng cảm thấy rõ là tôi từ giã cô bây giờ phải hơn. Cô thử tưởng tượng, gần song thân cô, mùa thu vừa rồi, tôi đã thiếp đi trong cái hôn mê của Quartfourche, tôi đã si mê một giấc mộng, và tôi vừa tỉnh giấc.
Một hình thù nhỏ, khập khễnh hiện ra ở cuối chỗ rẽ lối đi.
Tôi thấy Casimir thì phải, nó sẽ thích ý gặp lại tôi.
- Nó đến. Ông đợi nó đi.
Thằng bé đến gần bằng những bước nhảy ngắn; nó vác một cái cào trên vai.
- Tôi xin phép đi lại chỗ nó. Nó có thể mất tự nhiên gặp lại tôi ở bên cô. Tôi xin lỗi…
Và vụt từ biệt một cách vụng về nhất, tôi chào lễ phép và đi.
Tôi không gặp lại Isabelle de Saint-Auréol và không được tin gì nữa về nàng. Không, có chứ; khi tôi quay trở lại Quartfourche mùa thu năm sau, Gratien bảo tôi rằng, trước hôm tịch biên bất động sản, nàng bị người đàn ông làm áp-phe bỏ rơi, nàng bỏ trốn theo một gã đánh xe.
Gratien nói tiếp một cách cầu kỳ:
- Ông thấy không, ông Lacase, cô không bao giờ có thể ở một mình, bao giờ cũng cần một kẻ nào đó.
Thư viện Quartfourche bán đi giữa mùa hè. Dù tôi có căn dặn lại, tôi vẫn không được thông báo; và tôi chắc rằng ông chủ nhà sách ở Caen nào đó được mời tới chủ tọa vụ phát mại rất ít bận tâm đến chuyện mời tôi dự hay mời bất cứ một kẻ chơi sách đứng đắn nào khác. Sau đó tôi hốt hoảng bất bình hay tin rằng cuốn Thánh kinh đặc biệt bán ra 70 quan cho một tay buôn sách cũ ở trong vùng kế, bán lại liền sau đó 300 quan, không làm sao biết bán cho ai. Còn những bản thủ sao của thế kỷ 18 thậm chí không được kê khai trong mục bán và phát mại như là giấy cũ.
Ít ra tôi muốn dự vào vụ bán bất động sản, vì tôi tự đề ra cho mình mua vài món vặt vãnh để tưởng niệm ông bà Floche; nhưng được tin quá trễ, tôi đến Pont-l’Évêque; chỉ kịp cho vụ bán trại và địa sản. Quartfourche bán đi với giá rẻ mạt cho một người buôn của cải, Moser-Schmidt, người này chực biên hóa hoa viên ra làm đồng ruộng, kịp đến khi một tay chơi người Mỹ mua lại của gã; tôi hiểu rõ vì sao, chứ còn tên này không trở lại xứ này, và vẫn để hoa viên và lâu đài ở trạng thái các anh có thể trông thấy nó.
Lúc bấy giờ tôi ít tiền của, tôi nghĩ là tham dự cuộc phát mại với tư cách kẻ hiếu kỳ mà thôi, nhưng trong ngày, tôi đã gặp lại Casimir, nên trong khi tôi dự thính những tiếng trả đấu giá, một nỗi bứt rứt thế nào đó xâm chiếm người tôi khi tưởng tới sự cùng khốn của thằng bé, đến nỗi, bất ngờ, tôi quyết tâm đảm bảo đời sống cho nó dựa vào cái nông trại mà Gratien mong được chiếm giữ. Mấy anh không biết rằng tôi đã trở thành sở hữu chủ của nó à? Gần như không ý thức, tôi đã trả thêm giá cho cao lên; điên thật; nhưng sự mừng vui ủ ê của thằng bé khốn nạn bù lại cho tôi vô kể…
Tôi sắp sửa đi nghỉ lễ Phục sinh và nghỉ hè năm sau trong cái nông trại nhỏ kia, ở với Gratien, cạnh Casimir. Bà cụ Saint-Auréol còn sống; chúng tôi thu xếp thế nào xong thôi để cho bà cụ buồng tốt nhất; bà đâm ra lẫn, nhưng vẫn nhận ra tôi và nhớ suýt soát tên tôi.
- Ông Las Cases có lòng quá! Ông có lòng quá, - bà lặp lại khi thoạt tiên gặp lại tôi. Bởi bà vui thú đinh ninh rằng tôi trở về xứ là chỉ để thăm bà thôi.
- Họ sửa sang lâu đài. Rồi sẽ đẹp lắm! - Bà cụ tâm tình với tôi, như để giải thích cùng tôi cảnh trống trải của bà, hay tự giải thích cho chính bà.
Hôm phát mại bất động sản, họ ban đầu đưa bà ra ở trên thềm cấp của phòng khách, trong chiếc ghế bành lớn có tay ghế; người thừa phát lại được giới thiệu với bà như là một nhà kỹ sư nổi tiếng từ Ba Lê xuống cốt để giám thị công tác dự trù (bà tin dễ dàng tất cả những gì ve vuốt bà), rồi Gratien, Casimir và Delphine mang bà vào trong căn buồng này mà bà buộc lòng không ra khỏi nữa, nhưng bà sống ở đó gần ba năm nữa.
Chính trong vụ hè đầu tiên nghỉ mát ở nông trại của tôi, tôi làm quen với gia đình B„ về sau tôi lấy người con gái lớn. Sở đất R., từ khi ông bà nhạc gia của tôi mất, thuộc về phần chúng tôi, các anh thấy, nó không xa Quartfourche lắm; hai hay ba lần mỗi năm tôi trở về trò chuyện với Gratien và Casimir, cả hai trồng trọt rất giỏi cho đất đai và đưa đều đặn cho tôi tiền thuê đất ít ỏi. Chính lát nữa tôi sẽ qua đó sau khi từ giã các anh.
Đêm đã khuya lắm khi Gérard kể xong chuyện. Mà cũng chính đêm đó, James, trước khi ngủ, viết bài ca thứ tư:
Khi người bảo tôi làm khúc bi ca về cõi hoang phế lộng gió kia…
HẾT