← Quay lại trang sách

Chương 6

Cứ thế những phấn khích từng chặp của tính hiếu kỳ rơi trầm xuống. Tuy nhiên tôi không thể nào triển lại lâu hơn ngày đi mà tôi đã tuyên bố một lần nữa cho gia chủ, và hôm nay là hôm cuối cùng tôi có cái lý ở Quartfourche. Hôm đó…

Chúng tôi đang ăn trưa. Ai nấy chờ thư tín mà người vợ của Gratien, là Delphine, nhận của bưu tá và thói thường đưa vào cho chúng tôi giây lát trước khi dùng tráng miệng. Thị đưa cho bà Floche, điều đó tôi có nói rồi; kế bà này phân chia thư từ và chia tờ Tranh luận báo cho ông Floche, ông này lủi mất ở phía sau khi chúng tôi đứng lên rời khỏi bàn. Hôm đó, một chiếc phong bì màu hoa cà, bị lọt một nửa vào miếng giấy băng tờ báo, lọt ra ngoài bó thư và sắp sửa bay xuống bàn gần cái đĩa của bà Floche, tôi vừa kịp nhận ra nét chữ lớn vung vẩy đã làm tim tôi đập mạnh hôm trước; bà Floche cũng thế, trông bề ngoài đã nhận ra được nét chữ; bà làm một động tác hấp tấp để lấp phong thư bằng chiếc đĩa; chiếc đĩa đi húc vào một chiếc cốc, cốc vỡ ra vung rượu lên khăn bàn, bấy nhiêu thứ gây huyên náo dữ dội và bà cụ Floche con người tốt bụng lợi dụng sự lộn xộn chung để đút nhẹ phong thư vào găng tay.

- Tôi muốn giết con nhện mà, - bà bảo vụng về như đứa bé chữa lỗi. (Bà gọi không phân biệt những con mọt, con bọ bằng con nhện thỉnh thoảng trong giỏ trái cây chui ra).

- Và tôi đoan chắc là dì giết hụt, - bà Saint-Auréol nói giọng dấm dẳng, đứng lên và vứt lại chiếc khăn lau không xếp lên bàn. - Dì vào phòng khách theo tôi, tôi bị cơn đau rốn nó hành.

Bữa ăn kết thúc lặng lẽ. Ông Floche không thấy ra cái gì hết, ông Saint-Auréol chẳng hiểu gì; bà Verdure và ông cha gằm mặt ngay xuống đĩa; nếu Casimir không sổ mũi, các người chắc sẽ nhận ra nó khóc…

Trời âm ấm. Người nhà mang cà phê ra ngoài sân đúc nhỏ nhắn làm bực cấp cho phòng khách. Một mình tôi uống với bà Verdure và ông cha; từ phòng khách nơi hai bà lẩn kín, vẳng ra tới chúng tôi những đợt tiếng nói vang vang rồi thôi; các bà đã lên lầu.

Lúc bấy giờ, nếu tôi nhớ không sai là lúc bùng nổ vụ đánh giặc giả về cây-giẻ-gai-có-lá-cây-ngò.

Bà Verdure và ông cha đang giai đoạn lâm chiến. Những trận đánh không được đúng đắn cho lắm và ông cha chỉ việc cười chế giễu; nhưng không có cái gì làm bà Verdure nổi cáu cho bằng cái giọng khinh miệt của ông lúc bấy giờ; bà luôn luôn để hở và ông cha lại nhắm ngay vào chỗ yếu. Gần như chẳng có ngày nào khỏi bùng nổ giữa hai người một cuộc dẫu sức loại đó mà ông cha gọi tên là những “trận đánh giả”. Ông muốn cho rằng gái già đó cần được thế để giúp cho sức khỏe; ông cho bà ta leo cây như người ta dẫn con chó đi dạo một vòng. Có lẽ ông không đặt để ác tâm gì vào trong đó, nhưng chắc chắn có sự lém lỉnh và tỏ vẻ khá khiêu khích. Sự thể choán giờ giấc của cả hai và thêm màu mè cho thường nhật.

Biến cố nhỏ lúc ăn tráng miệng để lại sự giậm giật cho chúng tôi. Tôi tìm sự xao lãng và trong khi ông cha đổ đầy mấy tách, bàn tay tôi bắt gặp trong túi áo một bó lá, cành nhỏ của một cái cây lạ đời mọc cạnh hàng rào sắt ngõ ra vào và tôi đã ngắt hồi sáng để hỏi bà Verdure tên gọi của nó; không phải tôi quá hiếu kỳ muốn biết, nhưng bà lại được mát lòng thấy có người cầu cạnh tới kiến thức của bà.

Vì bà chuyên môn về thực vật học. Có ngày bà hái hoa cỏ, đeo lủng lẳng trên đôi vai khỏe mạnh một chiếc hộp màu lục thảo cho bà cái dáng dấp kỳ quặc của bà chủ quán bình dân.

Còn được thì giờ nào ngoài công việc coi sóc nhà cửa, bà để hết vào tập sưu tầm bách thảo và ống “kính lúp ráp lấy” của bà… Đấy, bà Olympe cầm lấy nhánh cây và không do dự dõng dạc:

- Cái này là cây-giẻ-gai-lá-ngò.

Tôi vu vơ.

- Tên kỳ nhỉ! Nhưng mấy cành lá hình lưỡi giáo này có ăn nhập gì với lá cây…

Ông cha nãy giờ cười cười một cách phải chăng, mới bảo như thể bâng quơ:

- Ở Quartfourche này người ta gọi cây Fagus persicifolia bằng tên đó đó.

Bà Verdure giật mình:

- Tôi không dè cha giỏi thực vật học đến thế.

- Không phải đâu; tôi hiểu chút ít tiếng La-tinh.

Kế, nghiêng sang bên tôi: Các bà này vô tình mắc bẫy chữ nghĩa.

- Persicus, bà ạ, persicus nghĩa là pêcher cây đào, chứ không phải persil cây ngò. Cây Fagus persicifolia mà ông Lacase để ý tới mấy cái lá được gọi rất chính xác là lá hình lưỡi giáo, cây đó là “cây giẻ gai lá đào”.

Bà Olympe đâm đỏ mặt tía tai: Sự làm ra vẻ tỉnh khô của ông cha làm cho bà rời rã hoàn toàn.

- Thực vật học chính thống không có đèo bòng những cái thất thường quái gở, - bà Olympe cũng biết tìm cách lên tiếng mà vẫn không quay nhìn về phía ông cha; kế đó cạn tách một hơi, bỏ đi như gió.

Ông cha chúm môi làm phao câu gà, từ đó thoát ra những thứ tiếng tẹc tẹc nhỏ. Tôi khó lòng lắm mới giữ cho khỏi cười.

- Cha e có ác đấy?

- Không đâu! Không đâu… tội cho bà không tập luyện đủ, cần phải quậy cho bà. Bà hiếu chiến lắm, tin tôi đi; hễ ba ngày tôi không châm thì chính bà đến chọc. Ở Quartfourche trò tiêu khiển không nhiều nhõi gì!…

Và đến đây cả hai, không nói năng, chúng tôi bắt đầu nghĩ tới lá thư bữa ăn trưa.

- Cha nhận ra nét chữ đó không? - Mãi sau tôi ướm người hỏi.

Ông nhún vai:

- Sớm một chút, muộn một chút, vẫn là lá thư nhận được ở Quartfourche một năm hai lần, sau buổi trả tiền thuê đất, và qua lá thư đó cô nàng báo cho bà Floche, cô nàng đến.

Tôi reo:

- Nàng sắp đến?

- Bình tĩnh! Bình tĩnh, cậu không gặp cô nàng đâu.

- Chứ tại sao tôi không thể gặp?

- Vì cô nàng đến nửa đêm, vì cô nàng ra đi gần như ngay liền lúc đó, vì cô nàng trốn tránh những nhìn ngó và… coi chừng gã Gratien.

Tia mắt ông dò hỏi tôi, tôi không nao núng phân ly; ông nói tiếp bằng giọng cáu tiết:

- Cậu sẽ không đếm kể vào đâu những lời tôi nói với cậu, coi bộ cậu, tôi thấy thế; dù sao cậu đã được cảnh cáo. Đấy! Cậu cứ làm tùy thích; sáng mai cậu cho tôi biết sự thể.

Ông đứng dậy, bỏ tôi lại, khiến tôi vẫn không thể phân tách xem ông tìm cách kìm hãm tính hiếu kỳ của tôi hay trái lại ông đã chẳng lấy làm thích thú kích thích nó dậy chăng.

Cho tới chiều lại, tôi không muốn vẽ vời ra sự bấn loạn của trí óc tôi làm gì, nó bị chi phối hoàn toàn vì sự đợi chờ. Có thể nào tôi yêu Isabelle thật sự? Chắc là không, nhưng thích thú vào tận tim vì một khích động quá mãnh liệt tôi không lầm lạc đâu, tại sao thế nhỉ? Do tính hiếu kỳ của tôi, tôi nhận biết tất cả nhiệt tình run rẩy, sự cuồng náo, sự nóng nảy của tình yêu. Mấy lời sau cùng của ông cha chỉ giúp hối thúc tôi thêm; Gratien gã có thể làm gì tôi? Thì tôi cũng đã băng qua rừng gai lửa bỏng!

Chắc chắn một cái gì đó bất thường đang soạn sửa. Đêm đó không ai đề nghị chơi gì cả. Ngay sau bữa ăn, bà Saint-Auréol bắt đầu rên siết về cái mà bà gọi là “cơn bao tử” và rút êm lui, trong khi đó bà Verdure sắm sửa nước nóng hộ bà. Đâu ít lát sau, bà Floche cho Casimir đi ngủ, kế ngay khi thằng bé bỏ đi rồi:

- Chắc ông Lacase cũng muốn bắt chước thế; ông có vẻ buồn ngủ rục rồi đấy.

Và vì tôi không kịp nhanh nhảu đáp lời mời của bà:

- À! Chắc chúng tôi không có ai sẽ kéo dài thức khuya.

Bà Verdure đứng lên đốt mấy chân đèn; ông cha và tôi theo bà: Tôi nom thấy bà Floche nghiêng mình xuống vai chồng đang thiu thiu ở góc lò sưởi trong chiếc ghế xe; ông đứng dậy tức thì, rồi kéo tay ông nam tước, nam tước để mặc cho làm như thể ông hiểu như thế có nghĩa là gì rồi. Ở đầu cầu thang lầu nhất, nơi đây mỗi người sẵn một chân đèn ai lui về ngả nấy, ông cha bảo tôi, kèm theo nụ cười khó hiểu:

- Chia tay! Ngủ ngon nhé.

Tôi đóng cửa buồng lại; rồi chờ. Mới chín giờ. Tôi nghe bà Floche, rồi bà Verdure lên lầu. Phía đầu cầu thang, tái diễn lời qua tiếng lại khi sôi nổi giữa bà Floche và bà Saint-Auréol, bà này ra lại khỏi buồng, xa chỗ tôi quá làm tôi không phân biệt được lời lẽ; rồi thì những tiếng cửa đóng ập, rồi thôi.

Tôi nằm dài lên giường để dễ nghĩ ngợi hơn. Tôi nghĩ tới lời chúc ngủ ngon giễu cợt mà ông cha nói kèm theo cái bắt tay sau cùng, tôi những muốn biết xem ông, về phía ông, ông có bụng dạ nào ngủ không, hoặc là cái tính hiếu kỳ mà trước mặt tôi ông cam quyết là không có, ông sẽ buông thả cho nó tha hồ không… nhưng mà ông ngủ ở nơi khác trong lâu đài đối diện với nơi tôi chiếm ngự, và không có cái cớ nào đứng vững kêu gọi tôi sang đó. Nhưng, thử hỏi trong hai chúng tôi ai sẽ trơ trẽn hơn ai, nếu bắt chợt nhau trong hành lang? Trầm ngâm như thế rồi thì xảy đến với tôi một điều không thể nói nổi, một điều phi lý, một điều ngượng mồm: Tôi ngủ quên mất.

Vâng, bị phấn khích thái quá thì có lẽ không đúng cho bằng kiệt quệ theo đợi chờ lại thêm mỏi mê vì đêm qua chẳng lành, tôi ngủ say sưa.

Tiếng lách tách của ngọn nến đã lụi tàn đánh thức tôi dậy; hoặc có lẽ, một sự rung chuyển ầm ĩ của sàn nhà mơ hồ nhận ra trong giấc ngủ; chắc hẳn có ai bước qua trong hành lang. Tôi giật ngồi dậy. Ngọn nến bấy giờ tắt ngấm; tôi ngồi trong tối, mang nhiên vô cùng. Để đốt sáng tôi còn có mấy que diêm; tôi quẹt một cái để coi đồng hồ: gần mười một giờ rưỡi; tôi dỏng tai không còn có tiếng động nào nữa. Tôi mò mẫm về phía cửa và mở ra.

Không, tim tôi không đập thùm thụp; tôi cảm thấy thân mình nhanh nhẹn, nhẹ nhàng như không có trọng lượng; thần trí tỉnh táo minh mẫn, khăng khăng.

Mút kia hành lang, một khung cửa sổ lớn đổ lan tới tôi một vùng ánh sáng không phẳng phiu như của những đêm yên hàn, đàng này ánh sáng chập chờn và bị bạt đi từng lúc, bởi lẽ bầu trời vần vũ và lướt qua mặt trăng, gió lùa đi từng táng mây dày. Tôi bỏ giày ra; tôi tiến tới không gây động… Tôi chẳng cần phải dò ngó kỹ hơn để lọt tới nơi quan sát mà tôi đã dọn sẵn: Ấy là một cái phòng nhỏ bỏ không cạnh phòng bà Floche, nơi chắc hẳn đang diễn ra một cuộc mật đàm, phòng nhỏ này ban đầu trước kia ông Floche ở (nay ông thích ở gần với sách hơn là ở gần vợ); cánh cửa thông, tôi đã cẩn thận cài then để tránh khỏi bị bắt thộp, cánh cửa hơi nao núng và tôi định tâm ngay liền lúc đó có thể nhìn chuồi qua phía dưới khung cửa; muốn đạt tới đó, tôi phải chễm chệ lên một cái tủ mà tôi đã đẩy sẵn lại gần sát.

Lúc này, qua khe hở, chiếu rọi một ít sáng, trần nhà trắng hắt xuống lại giúp tôi định hướng. Ban ngày tôi đã để mọi thứ ra sao thì tôi tìm lại thế. Tôi trườn lên tủ, phóng mắt vào phòng bên.

Isabelle de Saint-Auréol có đó.

Nàng trước mặt tôi, cách mấy bước… Nàng ngồi trên một chiếc ghế thấp mất đẹp, không có lưng tựa, những chiếc ghế tên gọi là “pouf” thì phải, sự có mặt của ghế đó đáng ngạc nhiên phần nào trong cái căn buồng cũ kỹ mà tôi không nhớ có nom thấy chúng khi trước tôi mang hoa vào không. Bà Floche ngồi lún vào chiếc ghế bành lớn trải thảm; một cây đèn để trên chiếc bàn tròn cạnh ghế bành soi sáng cả hai người một cách kín đáo. Isabelle quay lưng lại phía tôi; nàng ngả về trước, gần như úp lên gối bà dì lớn tuổi; nàng ngẩng đầu lên lại ngay. Tôi vẫn ngong ngóng sẽ bắt gặp nàng già hơn; thế mà tôi nhận ra hao hao ở nàng người thiếu nữ ở tấm hình nhỏ; có lẽ không kém đẹp, dung nhan nàng đã khác vời, hồng trần hơn và gần người hơn; vẻ băng nguyên thần thánh của tấm hình nhỏ nhường chỗ cho sự bải hoải đa tình, và tôi không hiểu vẻ chán chê thế nào đó đã làm nhàu khóe môi mà họa sĩ kia đã từng vẽ đôi môi nàng hé mở. Một tấm áo bành tô lớn để đi xa, một thứ áo mưa, bằng thứ vải khá bình dân có lẽ, trùm kín người nàng, nhưng xếch lên ở một bên để lộ mảnh jupe đen vải taffetas mỏng ánh, trên đó bàn tay đã cởi bỏ găng tay để đong đưa cầm chiếc khăn vò nát, bàn tay trong vẻ tái tê mảnh mai lạ thường. Một chiếc mũ nhỏ bằng dạ và lông vũ có vân, dải taffetas, trùm lên nàng; một món tóc đen nhánh, vắt trên dải mũ và khi nàng cúi đầu xuống, lại trở về trước che mất thái dương. Có thể bảo nàng đang phục tang nếu không có một dải màu xanh bọ quýt vấn quanh cổ. Bà Floche và nàng không nói năng gì; nhưng bằng bàn tay mặt, Isabelle ve vuốt cánh tay, bàn tay của bà Floche và kéo lại phía mình, rồi hôn rối rít lên đó.

Lúc này nàng lay động mái đầu và các món tóc nổi trôi bên trái bên mặt; bấy giờ, hình như lặp lại một câu nào đó, nàng nói:

- Thưa đủ cách, thật tình con đã thử đủ cách, con thề với dì rằng…

- Đừng thề gì hết, tội cho con; dì tin con không phải thế, - bà cụ ngắt lời, đặt tay lên trán nàng. Cả hai nói thật nhỏ như sợ bị nghe thấy.

Bà Floche thẳng lưng dậy, dịu dàng đẩy cháu ra và, chống vào hai tay ghế, đứng lên. Nàng Saint-Auréol cũng đứng lên, và trong khi dì nàng tiến về phía bàn có ngăn kéo, mới hôm kia Casimir lấy ra tấm hình nhỏ, thì nàng bước vài bước về cùng một hướng, dừng lại trước cái bàn có chân quỳ chống đỡ một tấm gương soi lớn và trong khi bà cụ lục lạo trong ngăn kéo thì nàng ướm thử - vào ánh gương chiếu chiếc dải màu ngọc bích mà nàng vấn quanh cổ, nàng lanh lẹ tháo nó đi mất, cuốn lại ở ngón tay… Bà Floche chưa kịp ngoảnh lại thì chiếc dải màu tươi đã mất, Isabelle đã giữ thái độ trầm tư, đôi bàn tay xuôi xuống và đan lại trước mặt, mắt nhìn mất hút.

Bà cụ Floche khổ hại còn cầm nơi tay xâu chìa khóa, tay kia cầm xấp giấy mỏng manh mà bà đã đi lấy trong ngăn kéo; bà sắp sửa ngồi lại vào ghế thì cánh cửa đối diện với cửa tôi núp bóng mở toang - và tôi suýt hốt hoảng kêu lên. Bà nam tước hiện ra trong khung cửa mở, kiểu cách, áo hở vai, mặt dồi phấn, phục sức đại yến và đầu đội một thứ mũ lông hạc đồ sộ. Bà cố sức cầm giữ khư khư một cây đèn lớn sáu nhánh cháy đủ ngọn, đèn dội lên người bà một lớp ánh sáng lắt lay và đổ lai láng những lệ sáp xuống sàn nhà. Kiệt sức có lẽ, bà bắt đầu chạy lại để đèn lên cái bàn chân quỳ trước mặt tấm gương soi; kế đó nhảy phóc bốn bước ngắn lùi trở lại vị trí ở khung cửa mở, bà lại đi tới trước, bước nhịp nhàng trịnh trọng, đưa với ra xa về đàng trước bàn tay duỗi ra trĩu đầy những chiếc nhẫn vĩ đại. Đến giữa buồng bà dừng lại, xoay hết người về phía con gái, động tác luôn luôn thẳng băng, bằng một giọng chát chúa đâm thủng cả tường:

- Lui ra, con vô ân! Tôi không để cho nước mắt cô làm xiêu lòng nữa đâu, còn những thề thốt của cô suốt đời không đi tới tim tôi đâu.

Bấy nhiêu được thốt ra, được hô hoán bằng một giọng kim từ trước đến sau không lên xuống. Isabelle lúc đó nhào xuống chân mẹ, nắm lấy jupe mẹ lay giật làm lộ ra hai chiếc giày escarpin nhỏ xa tanh trắng chướng mắt, cũng lúc nàng cụng trán xuống sàn nhà, nơi này có phủ thảm. Bà Saint-Auréol không một lúc nào để mắt xuống, tiếp tục phóng thẳng về trước những tia mắt sắc ánh lạnh băng như giọng nói:

- Cô đem thống khổ đến cho gia đình cha mẹ chưa vừa sao; cô còn rắp tâm đeo đuổi xa hơn những…

Đến đây bất đồ giọng bà như hụt hẫng; bấy giờ bà quay sang bà Floche đang co ro lấy bấy trong ghế:

- Còn dì nữa, nếu dì còn nhẹ dạ…

Và chữa lại:

- Nếu dì phạm tội nhẹ dạ còn nhượng bộ những van lơn thế này nữa, dù là hôn nó, dù là tiền bạc ít bao nhiêu đi nữa, thì, thật như tôi là chị của dì vậy, tôi từ dì, tôi giao lại nhà cửa cho Chúa, mãn đời tôi không gặp lại dì.

Tôi như thể coi kịch. Nhưng vì họ không biết mình bị dòm ngó, vậy cả hai hình nhân này diễn cho ai? Dáng điệu cử chỉ của người con, tôi thấy cũng thái quá, cũng giả tạo như của người mẹ… Bà mẹ day mặt lại tôi, thế nên tôi nom thấy Isabelle phía lưng, nàng phủ phục, giữ cái thế của nàng Esther cầu khẩn; tôi chợt chú ý đến hai bàn chân nàng, chân mang lụa dũi màu mận, áng chừng như thế và may ra ta còn dò ra được chừng ấy dưới lớp bùn đóng vào giày ủng nhỏ; bên trên, một chiếc bít tất trắng, ở đây chéo jupe ướt, bùn vẫy lên, dây ra một đường bẩn… Và bỗng đâu, vang hơn cả lời oang oang của bà cụ, vang dội lên trong con người tôi tất cả những điều mà những món đồ nghèo nàn kia mách bảo cho tôi hay toàn những phiêu bạt, khốn cùng. Một tiếng nấc nghẹn họng tôi; và tôi tự hứa, khi nào Isa rời nhà, tôi sẽ theo nàng băng vườn.

Lúc này bà Saint-Auréol tiến ba bước lại ghế bà Floche:

- Nào! Đưa mấy tờ đó cho tôi! Dì cho là tôi không thấy được tấm giấy vò nhàu trong găng tay chăng? Dì tưởng tôi đui hay tôi điên? Tôi bảo đưa tiền đó cho tôi!

Và, với điệu bộ bi kịch diễm tình, bà đem mấy tờ giấy bạc vừa đoạt đến gần một ngọn đèn ở cây đèn nhiều ngọn:

- Đốt hết (nến nói rằng bà chẳng thi hành mảy may) còn hơn cho nó một xu.

Bà đút mấy tấm giấy bạc vào túi, trở lại động tác đại ngôn:

- Con vô ân! Con lạc giống! Cà rá chuỗi hột của tôi đi đàng nào rồi, cô liệu mà bày vẽ cho mấy chiếc nhẫn của tôi biết với.

Vừa nói, bằng một cái nhấc tay khéo léo của bàn tay dang thẳng, bà vừa làm rơi hai ba chiếc nhẫn xuống thảm. Như con chó đói vồ xương, Isabelle chụp lấy.

- Bây giờ thì đi đi, chúng ta hết chuyện nói với nhau, và tôi không nhìn nhận cô nữa.

Rồi tới lấy cái chụp tắt đèn trên chiếc tủ đêm, bà tuần tự úp lên từng ngọn của cây đèn nhiều nhánh và bỏ đi.

Căn buồng bây giờ có vẻ tối tăm. Isabelle lúc này đã đứng lên: Nàng đưa mấy ngón tay lên hai bên thái dương, vuốt ra sau mấy món tóc rối bời và sửa ngay ngắn chiếc mũ lại. Hất người một cái, nàng nâng chiếc áo bành tô dậy đã hơi tuột xuống vai, và cúi xuống bà Floche gửi lời từ tạ. Tôi thấy có vẻ như bà cụ lựa lời nói với nàng, nhưng bằng một giọng quá nhỏ tôi không sao phân biệt ra gì. Isabelle không nói một lời, ép bàn tay run rẩy của bà vào môi nàng. Lát sau tôi lao vút đuổi theo nàng trong hành lang.

Lúc xuống thang lầu, một tiếng nói làm tôi dừng chân. Tôi nhận ra giọng của bà Verdure, Isabelle đã bắt gặp bà ở phòng trước, và tôi thoáng thấy cả hai khi chồm ra ngoài thành cầu thang. Bà Olympe Verdure cầm nơi tay một cây đèn nhỏ. Bà nói:

- Cô đi không hôn nó sao? - Và tôi hiểu nó đây là Casimir. - Như thế cô không muốn gặp nó?

- Không, Loly à; tôi vội quá thôi. Nó không nên biết là tôi có lại.

Có một khoảng im lặng, một màn kịch câm mà ban đầu tôi không hiểu rõ. Ngọn đèn chao, chiếu lên những bóng chập chờn. Bà Verdure đi tới, Isabelle lùi lại, cả hai xê dịch vài bước; rồi tôi nghe:

- Thật mà; thật mà; để tưởng nhớ tới tôi. Tôi giữ nó đã từ lâu. Nay tôi già cả, còn để làm gì?

- Loly! Loly ơi! Bà là những gì đẹp đẽ nhất tôi để lại chốn này!

Bà Olympe siết nàng vào vòng tay.

- Ôi! Tội nghiệp! Ướt cả thế này!

- Chỉ có áo ướt thôi… không hề gì. Cho tôi đi gấp.

- Ít nhất cô cầm lấy cái dù.

- Trời hết mưa rồi.

- Đèn vậy? Xe gần sát đây. Chia tay nhé.

- Thôi! Chào cô, khổ cho cô! Lạy Chúa…

Những tiếng sau lấp vào nghẹn ngào. Bà Verdure đứng giây lát nhoài người ra bóng đêm, và một ngụm gió ẩm nước từ bên ngoài lên tới khung cầu thang; sau đó, tôi nghe bà cài then ở cánh cửa đã khép kín lại…

Tôi không thể đi ngang qua trước mặt bà Verdure. Gratien đêm đêm mang theo chìa khóa cửa bếp. Một cửa khác mở ra phía kia của ngôi nhà, nơi này chắc tôi thoát ra dễ dàng, nhưng đi vòng quanh nhiều lắm. Tôi chưa kịp tìm ra nó thì Isabelle dễ thương đã ra kịp tới xe. A! Giá tôi gọi nàng từ cửa sổ… Tôi chạy về phòng. Trăng bị phủ mờ trở lại; tôi chờ đợi một lát, nghe ngóng tiếng bước chân; một hơi gió ào ạt trỗi dậy, và trong khi Gratien vào ngả bếp, xuyên qua tiếng động cây cối lao xao, tôi nghe xe nàng rời xa.