Chương 30 Khói tàu hơi nước trên vịnh Bosphorus
Vào giữa thế kỷ mười chín, những chiếc tàu chạy bằng hơi nước đã làm một cuộc cách mạng về du lịch trên biển, đem những thành phố lớn Âu châu tới gần nhau hơn; điều này khiến cho những chuyến viếng thăm ngắn hạn Istanbul có thể thực hiện được. Chất liệu văn học ấy sau đó sẽ giúp ích nhiều cho các nhà văn Istanbul trong việc phát triển đề tài về thành phố; nhưng kể từ khi xuất hiện, những chiếc tàu chạy bằng hơi nước này cũng làm cho thành phố mang một dáng vẻ mới. Một công ty hàng hải, thoạt đầu có tên Şirket-I Hayriye và sau này đổi thành Şehir Hatlari (Đường thủy Thành phố) được thành lập, và chẳng mấy chốc, những làng mạc ở bên vịnh Bosphorus đều có riêng một bến tàu – khi những con phà bắt đầu đi lại trên eo biển, Istanbul có dáng vẻ nhang nhác một thành phố Âu châu. (Cần phải nhớ rằng từ vapeur trong tiếng Pháp, có nghĩa là hơi nước, đã tìm đường vô tiếng Thổ của Istanbul và cuộc sống thường nhật, biến thành vapur, từ mà chúng tôi dùng để chỉ tàu). Trong số những thay đổi mà những chiếc phà đem lại có chuyện các meydan31 tấp nập mọc lên quanh các bến tàu của Bosphorus và Mũi Vàng, hay chuyện sự phát triển mau chóng của những ngôi làng khiến chúng nhanh chóng trở thành một phần của thành phố. (Trước khi có những con phà, gần như chưa có những con đường nối chúng lại với nhau).
Khi những con phà bắt đầu đưa hành khách lên xuống vịnh Bosphorus, chúng trở nên thân quen với người dân thành phố như là những Kizkulesi, Hagia Sophia, và cầu Galata; chẳng mấy chốc, chúng thành một phần của cuộc sống thường nhật, có một vai trò quan trọng mang tính chất totem. Cũng giống như những người quyến luyến với các vaporetto của Venice và thích chứng tỏ hiểu biết của mình về dáng hình và kiểu mẫu đa dạng của chúng, người dân Istanbul cũng mê như điếu đổ bất cứ chiếc phà nào mà Đường thủy Thành phố từng sở hữu; có hàng đống sách có hình ảnh minh họa dành trọn cho chúng. Gautier viết rằng bất cứ một tiệm cắt tóc nào trong thành phố cũng có một tấm hình phà treo trên tường. Cha tôi có thể nhận ra bất cứ một chiếc phà nào được đưa vào sử dụng khi ông còn nhỏ, chỉ căn cứ vào dáng vẻ tuyệt vời của nó, và nếu không thể nhớ ra liền lập tức, thì cũng chỉ một lát sau là ông đã đọc ra những cái tên cho tới giờ với tôi vẫn ngân nga giống như những bài thơ: Năm mươi ba İnşirah, Sáu mươi bảy Kalender, Bốn mươi bảy Tarz-I Nevin, Năm mươi chín Kamer…
Khi tôi hỏi cha tôi làm thế nào mà ông phân biệt được những con tàu bề ngoài trông thật giống nhau, ông nêu ra những tính chất đặc biệt của từng con tàu – chẳng hạn như khi hai cha con đang đi một vòng dọc theo Bosphorus, hay nếu không làm như vậy được vì kẹt xe, ngồi tại phòng khách trong căn nhà của chúng tôi ở Beşiktaş, nhưng ngay cả khi cha tôi đã chỉ ra tính độc nhất của từng con tàu – con tàu này trông như có một cái bướu, con tàu kia ống khói mới làm sao, còn con tàu kia có mũi giống như mỏ chim hay hơi nghiêng về một bên lúc gặp dòng nước xiết – tôi vẫn thấy thật khó phân biệt chúng, cho dù đã nghiên cứu thật tỉ mỉ. Nhưng tôi học được sự khác biệt giữa ba chiếc phà – hai chiếc được làm tại Anh, còn chiếc thứ ba, tại Taranto, Ý, vào năm 1952, đúng năm tôi ra đời – chúng được đặt tên theo các khu vườn; sau khi nghiên cứu dáng vẻ và chiều dài của mấy ống khói, sau cùng tôi có thể chỉ ra đâu là phà Fenerbahçe, phà Dolmabahçe hay phà Paşabahçe, chiếc phà may mắn của tôi, thế nên cứ mỗi lần đi lang thang trong thành phố; mê mải suy nghĩ và thoáng nhìn thấy nó khi nhìn xuống một lối đi hoặc qua cửa sổ; là tôi thấy sướng mê tơi: đến giờ tôi vẫn cảm thấy như vậy.
Tặng phẩm lớn lao mà những chiếc phà đem lại cho quang cảnh thành phố là những đợt khói từ các ống khói của chúng. Tôi rất mê vẽ những đợt khói than màu tối sậm của chúng, thay đổi theo vị trí của chiếc phà, tùy sự đong đưa của những dòng nước lớn của Bosphorus, và lẽ dĩ nhiên, tùy cơn gió. Trước khi tôi bắt tay vào vẽ những đợt khói phà bằng cây cọ đẫm màu, bức tranh phải đã hoàn chỉnh rồi, thậm chí đã bắt đầu khô. Giống như chữ ký lạc khoản sau này tôi thường để dưới góc, phía bên phải, khói là con tem, và là con tem đặc biệt của từng con phà. Khi những đợt khói dày trông như một đám mây, nhất là khi chúng cùng bốc lên từ tất cả những ống khói của bao nhiêu con tàu di động xung quanh cầu Galata, lúc đó giống như trên thế giới của tôi được bọc bởi một bức màn đen. Đi dạo bên bờ Bosphorus, hay đi trên phà, tôi thích nhất là chìm vào màn khói dày của một con tàu đã khởi hành từ lâu. Và nếu gió chiều theo ý tôi, thì tôi sẽ ngẩng mặt để hứng trọn trận mưa khô, giống như một mạng nhện của những hạt bụi than còn thơm mùi lò lửa.
Thường thì sau khi đã đưa một bức tranh đến điểm kết thúc đầy hân hoan và choàng lên nó chiếc vương miện làm từ lượng khói vừa đủ bốc lên từ những chiếc phà (đôi khi tôi bị quá tay và làm hỏng bức tranh), tôi sẽ cân nhắc những cách thức khác về quan sát khói, khi nó thoát ra khỏi ống khói tàu, lan rộng ra, rồi biến mất, xếp chúng lại trong trí nhớ, như thể để dùng cho tương lai. Nhưng với những nhát cọ cuối cùng, tấm toan vẽ trước mặt tôi có vẻ thực đến nỗi tôi quên béng những gì tận mắt trông thấy, quên mất khói thực ở bên ngoài trông ra sao.
Tôi thấy cột khói hoàn hảo nhất là cột khói bốc lên khi gió thật nhẹm và sau một lúc khói bay lên ở một góc chếch 45 độ, rồi nó bắt đầu bay song song với con tàu, hình dạng được giữ nguyên, như thể có một người nào đó vẽ một đường thật là duyên dáng lên nền trời để chỉ ra đường di chuyển của con tàu trên mặt vịnh Bosphorus. Cột khói than mảnh của một chiếc phà nằm thở phì phò tại bến trong một buổi trời không gió làm tôi nhớ tới làn khói lam bốc lên từ một mái tranh nghèo. Khi chiếc phà và gió nhè nhẹ chuyển hướng, khói sà xuống mặt vịnh, tỏa ra thành từng cuộn, trông như những con chữ Ả Rập. Nhưng bất cứ khi nào vẽ cảnh Bosphorus với một chiếc phà của Đường thủy Thành phố, tôi đều cần tới khói để chuyên chở nỗi buồn Bosphorus, bởi vậy cái hình dáng tình cờ đầy vui sướng kia làm phiền tôi rất nhiều, kể cả khi tôi ngưỡng mộ nó hết sức. Vào một ngày không có gió, khi khói tàu phun ra phì phì và thi nhau vần vũ trên nền trời Bosphorus, làm sao mà kể hết cho được nỗi buồn mà chiếc phà để lại trên lộ trình của nó, từ bến này tới bến nọ. Tôi rất mê ngắm đợt khói dày màu đen nằm nơi đường viền thành phố rồi hòa lẫn với những đám mây trông thật đáng sợ ở đằng sau nó, như trong một bức họa của Turner. Nhưng, khi vẽ xong một bức họa cảnh Bosphorus với một hay thậm chí là nhiều chiếc phà tỏa khói, thì những dáng hình của khói ấy tôi không nhìn thấy từ bản thân những chiếc phà, mà ở tranh của Monet, Sisley, và Pisarro, chúng sống dậy và gây hứng khởi cho tôi - thí dụ, đám mây xanh nhạt của Monet trong bức Nhà ga Saint-Lazane, hay những đám mây trông thật vui nhộn, cuộn tròn như những viên kem trong một thế giới hoàn toàn khác biệt của tranh Dufy - đó là những gì mà tôi vẽ.
Flaubert mở đầu cuốn Giáo dục tình cảm của ông bằng những dòng tuyệt vời miêu tả những hình dáng thay đổi của khói, và là một trong những lý do tôi mê ông. (Cũng có nhiều lý do khác nhau nữa.) Tới đây chúng ta chấm dứt bài ngợi ca khói, bằng cách dùng nó làm cây cầu bước qua giai điệu kế tiếp, tôi đã thực hiện một điều trong âm nhạc cổ truyền Ottoman gọi là ara taksim. Từ taksim có nghĩa chia ra, thu gom lại, đào kênh dẫn nước, và đây là lý do tại sao những cánh đồng lớn, nơi Nerval nhìn thấy những người bán hàng rong và các nghĩa địa (và nơi này cũng còn được sử dụng như là một trung tâm phân phát nước), được người dân thành phố Istanbul gọi là Taksim. Họ vẫn gọi nơi đó bằng cái tên ấy, và đó là nơi tôi rong ruổi hết cuộc đời của tôi. Nhưng khi hai ông nhà văn Flaubert và Nerval ghé thăm nó, thì nó lại chưa có cái tên Taksim này.