Chương XXI PHI ĐỘI TRINH SÁT CỦA ZODANGA
Khi tiếp tục chuyến hành trình tới Zodanga, nhiều cảnh vật lạ lùng và thú vị đã thu hút sự chú ý của tôi. Ở nhiều ngôi nhà nông trại tôi ghé lại, tôi học được một số điều mới mẻ liên quan tới các phương pháp và cung cách xử sự của Barsoom.
Nguồn nước cung cấp cho các nông trại của Hỏa tinh được tích trữ trong những kho dự trữ ngầm khổng lồ ở hai đầu cực từ những mỏm băng tan chảy, được bơm qua những đường ống dẫn dài tới các trung tâm dân cư khác nhau.
Dọc theo những đường ống dẫn này cho đến hết chiều dài của chúng là những vùng đất trồng trọt. Chúng được phân thành nhiều luống có cùng kích cỡ, mỗi luống đặt dưới sự giám sát của một hoặc vài viên chức nhà nước.
Thay vì tràn ngập trên bề mặt của các cánh động, và do vậy gây lãng phí một lượng lớn nước do bốc hơi, chất lỏng quý báu này được chuyên chở ngầm qua một mạng lưới những đường ống nhỏ chạy thẳng tới bộ rễ của cây trồng. Những cây trồng trên Hỏa tinh đều giống nhau như đúc vì không có hạn hán, không có mưa, không có gió mạnh, không có côn trùng và những loài chim phá hại.
Trong chuyến đi này, tôi đã nếm món thịt đầu tiên kể từ ngày rời trái đất - những miếng bíp tết và sườn lớn ngon lành từ những con thú nuôi mập mạp của các nông trại. Tôi cũng được thưởng thức những thứ rau quả thơm ngon, nhưng không có thứ nào giống như rau quả trên trái đất. Mọi loại cây trái và hoa quả, thú vật đều được cải tiến qua nhiều niên kỷ trồng trọt và chăn nuôi một cách khoa học đến mức so với chúng, những thứ đó trên trái đất trở nên vô nghĩa.
Ở lần ghé lại thứ hai, tôi gặp vài người có học thức của một giai cấp quý tộc và trong khi trò chuyện chúng tôi tình cờ nói đến Helium. Một trong những người lớn tuổi hơn, từng đến đó trong một chuyến công vụ ngoại giao cách đây nhiều năm, nói đến với niềm tiếc nuối những tình huống đã duy trì tình trạng chiến tranh hai quốc gia này.
“Helium vô cùng tự hào về những người phụ nữ đẹp nhất của Barsoom, và về người phụ nữ kỳ diệu quý báu hơn tất cả mọi kho tàng, con gái của Mors Kajar. Dejah Thoris là đóa hoa kỳ diệu nhất.” Ông ta nói.
“Sao chứ,” ông ta nói thêm, “mọi người thật sự tôn thờ mảnh đất mà nàng bước lên và từ khi nàng mất tích trong chuyến thám hiểm xui xẻo ấy, toàn Helium chìm vào cảnh thê lương áo não.”
“Việc người lãnh đạo của chúng tôi đã tấn công hạm đội không may ấy khi nó quay về Helium chỉ là một trong những sai lầm kinh khủng của ông ta. Vì các sai lầm đó, tôi e rằng không sớm thì muộn Zodanga buộc bầu ra một người thông minh hơn cho vị trí của ông ta.”
“Ngay cả bây giờ, dù những đội quân chiến thắng của chúng tôi đang bao vây Helium, người dân Zodanga đang bày tỏ sự bất bình của họ, vì chiến tranh không phải là một điều được nhiều người ưa thích, nếu nó không dựa trên lẽ phải và sự công bằng. Các lực lượng của chúng tôi lợi dụng sự vắng mặt của hạm đội chủ yếu của Helium đang đi tìm kiếm công chúa của họ, nhờ thế chúng tôi mới có thể dễ dàng đánh thắng thành phố ấy. Người ta nói nó sẽ đầu hàng trong vòng vài tuần trăng tới.”
“Vậy, ông nghĩ số phận của công chúa Dejah Thoris sẽ ra sao?” Tôi hỏi, làm ra vẻ tình cờ.
“Nàng đã chết.” Ông ta đáp. “Người ta biết điều này từ một chiến binh da xanh mới bị chúng tôi bắt ở phía nam. Nàng bỏ trốn khỏi các bộ tộc Thark với một sinh vật lạ của một thế giới khác, chỉ để rơi vào tay của người Warhoon. Những con ngựa của họ được tìm thấy đang lang thang trên đáy biển cạn và những chứng cứ của một trận chiến đẫm máu được phát hiện ở gần bên.”
Trong khi tin tức này không hay chút nào, nó cũng không phải là chứng cứ kết luận về cái chết của Dejah Thoris, vì thế, tôi quyết định thực hiện mọi nỗ lực có thể để tới Helium càng sớm càng tốt và mang tới cho Tardos Mors những tin tức về địa điểm mà cháu của ông có thể có mặt trong phạm vi tôi biết.
Mười ngày sau khi rời khỏi nhà của anh em Ptor, tôi tới Zodanga. Kể từ khi tiếp xúc với những cư dân da đỏ của Hỏa tinh, tôi nhận thấy rằng Woola gây một sự chú ý không thân thiện ở họ, vì con vật to lớn này thuộc vào một chủng loại chưa bao giờ được thuần dưỡng bởi người da đỏ. Một người đi dọc đại lộ Broadway với một con sư tử Phi châu theo sát gót chân sẽ gây một ấn tượng tương tự như tôi đã tạo ra khi tôi bước vào Zodanga với Woola.
Ý nghĩ về việc phải chia tay với con vật trung thành này khiến cho tôi tiếc nuối và buồn phiền đến nỗi tôi tạm gác nó lại cho tới khi ngay trước khi chúng tôi tới những cổng thành. Nhưng cuối cùng, lúc đó bắt buộc chúng tôi phải tách rời nhau. Vì tôi sẵn sàng hy sinh đời tôi cho việc phục vụ nàng, và trong cuộc tìm kiếm nàng tôi sắp phải đối mặt với những nguy cơ chưa biết tới của thành phố bí ẩn này, tôi không thể cho phép ngay cả cuộc sống của Woola đe dọa tới sự thành công của cuộc mạo hiểm này. Niềm hạnh phúc tạm thời của nó còn nhỏ bé hơn nhiều, và tôi ngờ rằng nó sẽ khó lòng quên tôi. Thế là tôi chào chia tay với con thú khốn khổ, tuy nhiên, cũng hứa với nó nếu tôi vượt qua cuộc mạo hiểm an toàn, bằng cách nào đó tôi sẽ tìm ra nó.
Hình như nó hiểu tôi rất rõ, và khi tôi chỉ về hướng Thark, nó buồn bã quay đi. Tôi cũng không thể nhìn nó ra đi, vì thế tôi quay mặt về phía Zodanga và với một tâm trạng đau buồn tiến tới gần những bức tường cao của thành phố.
Lá thư tôi mang từ những người bạn giúp tôi được vào ngay lập tức cái thành phố rộng lớn có tường bao quanh đó. Trời vẫn còn rất sớm và các đường phố thật sự vắng vẻ. Những căn nhà, mọc cao trên những cây cột tròn, trông như những con quạ khổng lồ, còn bản thân những chiếc cột giống như những thân cây bằng thép. Các cửa tiệm không mọc cao mà cũng chẳng có rào cản trước cửa, vì trên Hỏa tinh hoàn toàn không biết tới việc trộm cắp. Sự ám sát là nỗi sợ kéo dài tới hiện tại của tất cả mọi người Hỏa tinh, và chỉ vì lý do này, ngôi nhà của họ được đưa lên cao vào ban đêm hay những lúc nguy hiểm.
Anh em nhà Ptor đã hướng dẫn tỉ mỉ cho tôi trong việc tới một địa điểm có thể tìm được chỗ ở và sống gần nhà những viên chức của các cơ quan nhà nước mà họ đã nhờ tôi mang tới những lá thư. Con đường tôi đi dẫn tới quảng trường trung tâm, một đặc điểm của tất cả các thành phố trên sao Hỏa.
Quảng trường của Zodanga chiếm diện tích một dặm vuông và bao quanh bởi các cung điện của jeddak, các viên jed và các thành viên khác của giới hoàng gia và quý tộc của Zodanga, cũng như các toà nhà công cộng chủ yếu, các quán ăn và cửa tiệm.
Khi băng qua quảng trường lớn, nhìn ngắm một cách hâm mộ kiến trúc tuyệt diệu và những cỏ cây màu tím nhạt lộng lẫy trải thảm trên bãi cỏ rộng, tôi phát hiện ra một người da đỏ đang đi tới gần từ một trong những đại lộ. Anh ta không chú ý gì tới tôi, nhưng khi anh ta tới bên cạnh, tôi nhận ra anh ta và tôi quay lại, đặt tay lên vai anh ta, gọi to:
“Chào, Kantos Kan!”
Nhanh như chớp, anh ta xoay người lại và trước khi tôi kịp hạ tay xuống, mũi kiếm của anh ta đã chĩa vào ngực tôi.
“Anh là ai?” Anh ta gầm lên, và với một cú nhảy lui lại mang tôi cách xa khỏi mũi kiếm của anh ta năm mươi bộ, anh ta hạ kiếm xuống và cười to:
“Anh không có câu trả lời nào hay hơn thế, vì trên toàn Barsoon chỉ có một người có thể nhảy như một trái banh cao su. Nhân danh mẹ của vầng trăng nhỏ, anh đến đây bằng cách nào, John Carter, và anh đã trở thành một phù thủy hay sao mà có thể đổi màu theo ý muốn như thế?”
“Anh đã làm tôi hết hồn, anh bạn của tôi,” anh ta nói tiếp sau khi tôi vắn tắt thuật lại những cuộc mạo hiểm của tôi từ khi chia tay anh ta ở đấu trường của Warhoon. “Nếu những người Zodanga biết tên tôi và thành phố của tôi, tôi sẽ sớm ngồi trên bờ của biển mất tích Korus với những tổ tiên tôn kính và đã qua đời của tôi. Tôi tới đây theo lệnh của Tardos Mors, Jeddak xứ Helium để tìm kiếm tung tích của Công chúa Dejah Thoris. Sab Than, Hoàng tử xứ Zodanga, đã giấu nàng trong thành phố và đã yêu nàng điên dại. Cha của anh ta, Than Kosis, Jeddak xứ Zodanga, đã đánh đổi sự tự nguyện kết hôn của nàng với con trai ông ta với cái giá sự hoà bình giữa hai nước, nhưng Tardos Mors không chấp thuận những yêu sách đó và đã hồi âm rằng ông và dân chúng của ông thà nhìn thấy gương mặt đã chết của công chúa còn hơn thấy nàng kết hôn với bất kỳ ai không phải là sự chọn lựa riêng của nàng, và về mặt cá nhân, ông thà bị nhấn chìm trong tro bụi của một Helium bị mất và đốt cháy tan hoang còn hơn kết thông gia với Than Kosis. Phúc đáp của ông ta là sự lăng mạ chết người nhất mà ông có thể tặng cho Than Kosis và người Zodanga, nhưng dân chúng của ông yêu mến ông hơn vì điều đó và sức mạnh của ông ở Helium hiện nay lớn hơn bao giờ hết.”
“Tôi đã tới đây ba ngày,” Kantos Kan nói tiếp, “nhưng tôi chưa tìm ra nơi nhốt Dejah Thoris. Hôm nay tôi gia nhập vào không quân Zodanga với tư cách một trinh sát viên không phận và tôi hy vọng bằng cách này tôi có thể chiếm được lòng tin của Hoàng tử Sab Than, chỉ huy của sư đoàn không quân này. Tôi mừng là anh đã tới đây, John Carter, vì tôi biết lòng trung thành của anh đối với công chúa của tôi. Hai chúng ta cùng nhau hành động sẽ có thể thành công nhiều hơn.”
Lúc này, quảng trường bắt đầu có nhiều người đi lại và tiến hành các hoạt động thường ngày của họ. Những cửa tiệm mở cửa và các quán ăn đầy những khách quen đầu buổi sáng. Kantos Kan dẫn tôi vào một trong những tiệm ăn rộng lớn này, nơi chúng tôi được phục vụ hoàn toàn bởi các thiết bị cơ học. Không có bàn tay nào chạm tới món ăn từ khi nó được đưa vào tiệm trong trạng thái tươi sống cho tới khi nó bốc khói ngon lành trên bàn trước mặt thực khách. Họ kêu món ăn ưa thích bằng cách ấn những cái nút tí hon.
Sau khi dùng bữa, Kantos Kan đưa tôi tới nơi ở của phi đội trinh sát và khi giới thiệu tôi với cấp trên, anh ta hỏi tôi có thể được nhận vào phi đội hay không. Theo tập quán, cần có một cuộc kiểm tra, nhưng Kantos Kan đã bảo tôi không cần lo gì về chuyện này. Anh ta mang lệnh kiểm tra tôi tới một sĩ quan kiểm tra và lấy tư cách John Carter để tiến hành kiểm tra.
“Trò bịp này sẽ bị phát hiện,” anh ta vui vẻ giải thích, “khi họ kiểm tra lại trọng lượng, các số đo và các dữ liệu nhận dạng khác của tôi, nhưng sẽ mất vài tháng chuyện này mới làm xong và công vụ của chúng ta sẽ hoàn tất hoặc thất bại từ lâu trước đó.”
Trong vài ngày kế tiếp, Kantos Kan dạy tôi các tính năng phức tạp của việc bay và cách sửa chữa các bộ phận nhỏ bé cầu kỳ. Thân của chiếc xe bay một người lái dài khoảng mười sáu bộ, rộng hai bộ và dầy ba insơ, thon lại thành mũi nhọn ở hai đầu. Người lái ngồi trên đỉnh của chiếc tàu, trên một chỗ ngồi được thiết kế bên trên một cỗ máy phóng xạ nhỏ, không tiếng động. Nhiên liệu được chứa trong những vách kim loại mỏng của thân tàu và chứa tia sáng thứ tám của Hỏa tinh, hoặc tia đẩy, như được gọi theo tính năng của nó.
Tia sáng này, cũng như tia sáng thứ chín, không được biết tới trên trái đất, nhưng người Hỏa tinh đã phát hiện ra rằng nó mang thuộc tính cố hữu của mọi thứ ánh sáng bất kể là nó phát ra từ nguồn sáng nào. Họ đã biết rằng chính tia sáng mặt trời thứ tám đã đưa ánh sáng của mặt trời tới những hành tinh khác nhau, rằng chính tia sáng thứ tám riêng biệt của mỗi hành tinh sẽ “phản chiếu” hay đẩy ánh sáng đã hấp thu ra không gian một lần nữa. Tia sáng mặt trời thứ tám được hấp thu bởi bề mặt của Barsoom, nhưng tia sáng Barsoom thứ tám có khuynh hướng đẩy ánh sáng từ Hỏa tinh ra không gian, thường xuyên phát ra từ hành tinh này và thiết lập nên một lực đẩy của trọng lực mà khi bị hãm lại có thể nhấc những trọng lượng rất lớn khỏi mặt đất.
Chính tia sáng này cho phép họ thực hiện việc bay hoàn hảo đến nỗi những chiến thuyền cân nặng hơn bất cứ thứ gì trên trái đất có thể lướt đi một cách nhẹ nhàng và duyên dáng qua bầu không khí loãng của Hỏa tinh như một khinh khí cầu bay trong bầu khí quyển nặng nề của Trái đất.
Trong những năm đầu của phát hiện này nhiều sự cố lạ lùng đã xảy ra trước khi người Hỏa tinh biết được cách đo lường và kiểm soát thứ năng lượng kỳ diệu mà họ tìm ra. Trong một trường hợp đã xảy ra cách đó khoảng chín trăm năm, chiếc chiến thuyền lớn đầu tiên được làm với những thiết bị chứa tia sáng thứ tám đã chứa một lượng quá lớn tia sáng này và nó đã bay lên khỏi Helium với năm trăm sĩ quan và binh sĩ, không bao giờ quay về nữa.
Năng lực đẩy của con tàu đối với hành tinh này lớn đến nỗi nó đã mang con tàu vào không gian xa xôi, mà ngày nay có thể nhìn thấy được, với sự trợ giúp của các kính viễn vọng mạnh, đang bay qua bầu trời cách Hỏa tinh mười ngàn dặm; một vệ tinh nhân tạo bé tí hon vẫn còn xoay quanh Hỏa tinh cho tới khi tận thế.
Ngày thứ tư sau khi tới Zodanga, tôi bay chuyến đầu tiên, và kết quả của chuyến đi này là tôi được thăng cấp, bao gồm cả việc có chỗ ở trong cung điện của Than Kosis.
Hôm đó, khi lướt bên trên thành phố, tôi lượn vòng nhiều lần, vì tôi đã nhìn thấy Kantos Kan làm như thế, và rồi cho động cơ mở hết tốc lực, tôi bay với vận tốc kinh khủng về hướng nam, theo một trong những con kênh đào chảy đến Zodanga từ hướng đó.
Có lẽ tôi đã bay được hai trăm dặm trong chưa đầy một giờ khi phát hiện xa xa bên dưới một đoàn ba kỵ binh da xanh đang phi ngựa như điên về hướng một bóng dáng nhỏ bé đang cố chạy tới một trong những cánh đồng có tường bao.
Nhanh chóng cho tàu quay về hướng chúng, và bay vòng ở phía sau các chiến binh, tôi sớm nhận ra rằng đối tượng rượt đuổi của chúng là một người da đỏ mang huy hiệu của phi đội trinh sát mà tôi gia nhập. Cách đó một quãng ngắn là chiếc tàu bay tí hon của anh ta, xung quanh là những công cụ cho thấy anh đang sửa chữa một hư hỏng gì đó khi bọn chiến binh da xanh xuất hiện.
Hầu như chúng đã tới sau lưng anh. Những con thú đuổi theo thân hình nhỏ bé với một tốc độ kinh khủng, trong lúc những chiến binh nghiêng thấp người sang phải, với những chiếc giáo kim loại to lớn của chúng. Dường như tên nào cũng cố gắng là người đầu tiên đâm trúng người Zodanga khốn khổ, và có lẽ số mạng anh đã chấm dứt nếu tôi không tới kịp lúc.
Lái con tàu ở tốc độ cao ngay sau những chiến binh, chẳng bao lâu tôi bắt kịp chúng và không giảm tốc độ, tôi đâm chiếc máy bay bé nhỏ của tôi vào giữa vai của tên gần nhất, xuyên mũi thép nhọn qua cổ hắn. Cú va chạm hất thân hình không đầu của gã đó vào không trung bên trên đầu con ngựa rồi rơi thịch xuống lớp rêu. Hai con ngựa của hai tên kia hí lên kinh hãi, rồi bỏ chạy theo hướng ngược lại.
Tôi giảm tốc độ, bay vòng lại và hạ cánh xuống đất ở chân của gã Zodanga đang sửng sốt. Anh ta nồng nhiệt cám ơn sự giúp đỡ kịp thời của tôi và hứa rằng việc làm này sẽ được tưởng thưởng xứng đáng, vì tôi vừa cứu mạng của một người em họ của Vua xứ Zodanga.
Chúng tôi không lãng phí thời gian để trò chuyện vì biết rằng những chiến binh da xanh chắc chắn sẽ quay lại khi chúng kiểm soát lại được hai con ngựa. Vội vã tới chiếc tàu hỏng, chúng tôi cố tiến hành các sữa chữa cần thiết và gần như hoàn tất khi nhìn thấy hai tên quái vật da xanh đang quay lại với tốc độ hết mức từ hướng đối diện. Khi chúng còn cách khoảng một trăm mét, hai con ngựa bắt đầu lồng lên và tuyệt đối không chịu tiến tới gần chiếc tàu bay đã làm chúng hoảng kinh.
Cuối cùng, hai tên chiến binh xuống ngựa và dắt ngựa tiến tới chúng tôi với hai lưỡi kiếm dài.
Tôi vừa tiến tới gặp tên to con hơn, vừa bảo người Zoganda làm điều tốt nhất có thể với tên kia. Tôi kết liễu đối thủ gần như không cần cố gắng, với những thực hành nhiều đến mức đã trở thành thói quen, rồi quay vội sang người bạn mới quen mà tôi thấy đang thật sự trong tình trạng tuyệt vọng.
Anh ta đã bị thương và té xuống với bàn chân to lớn của đối thủ đặt lên cổ và lưỡi kiếm đang giơ cao để thực hiện cú đâm kết liễu. Tôi phóng người qua khoảng cách năm mươi bộ và chĩa thẳng mũi kiếm xuyên qua người của tên chiến binh da xanh. Thanh kiếm của hắn rơi xuống đất, trở thành vô hại, và hắn gục xuống trên thân hình kiệt sức của người Zodanga.
Một cuộc kiểm tra nhanh cho thấy anh ta không bị thương nặng lắm. Sau khi nghỉ ngơi giây lát, anh ta thú nhận rằng đã đủ khỏe để lên đường quay về. Tuy nhiên, anh ta phải lái chiếc tàu của mình, vì những chiếc tàu này chỉ chở được một người duy nhất.
Nhanh chóng hoàn tất việc sửa chữa, chúng tôi cùng bay bên nhau trên bầu trời Hỏa tinh tĩnh lặng, không một đám mây, với một tốc độ lớn và không gặp trở ngại gì khác trên đường quay về Zoganda.
Khi tới gần thành phố, chúng tôi phát hiện thấy một đám đông những thường dân và những toán lính đang tụ họp trên quảng đất trống phía trước thành phố. Bầu trời đen nghịt với những chiếc tàu bay chiến đấu và những tàu bay cá nhân, những dải lụa bay dài màu xám, những dải cờ và các thiết kế màu mè kỳ lạ khác.
Người bạn đồng hành ra dấu cho tôi bay chậm lại và cho tàu của anh ta bay sát vào tàu tôi, anh ta đề nghị chúng tôi tới gần để xem cuộc lễ hội mà, theo lời anh ta, có mục đích ban thưởng vinh dự cho các cá nhân viên chức và dân thường vì lòng dũng cảm và các phục vụ nổi bật khác. Rồi anh ta giương ra một lá cờ hiệu nhỏ biểu thị rằng tàu bay của anh ta đang mang một thành viên hoàng gia Zodanga, và chúng tôi cùng bay qua cái mê cung của những tàu bay cho tới khi bay tới bên trên Vua xứ Zodanga và đám triều thần. Tất cả đều cưỡi trên lưng những con ngựa nhỏ được thuần hóa của người Hỏa tinh da đỏ. Yên ngựa và đồ trang sức của họ đầy những lông chim màu sắc lộng lẫy đến nỗi tôi phải giật mình với sự giống nhau đáng kinh ngạc giữa họ và những thổ dân da đỏ trên trái đất.
Một trong đám triều thần kêu gọi Than Kosis chú ý tới sự hiện diện của người đồng đội của tôi bên trên đầu họ và nhà vua ra hiệu cho anh ta đáp xuống. Trong khi chờ đợi các đội quân đi vào vị trí đối diện với nhà vua, cả hai sôi nổi trò chuyện với nhau. Thỉnh thoảng, nhà vua và đám triều thần ngẩng lên nhìn tôi. Tôi không thể nghe thấy họ nói gì và ngay sau đó cuộc nói chuyện chấm dứt, tất cả xuống ngựa, khi đội quân cuối cùng đã xoay vào hàng ngũ trước đức vua của họ. Một thành viên trong đám triều thần tuyên dương tên họ của người có hành vi anh hùng đã được nhà vua chuẩn y, rồi Than Kosis tiến lên và đặt một huy hiệu trang sức lên cánh tay của người may mắn.
Khi đã có mười người được ban thưởng, viên phụ tá gọi to:
“John Carter, phi đội trinh sát!”
Tôi chưa bao giờ kinh ngạc đến thế trong đời, nhưng thói quen của kỷ luật quân đội vẫn còn mạnh mẽ trong tôi, và tôi nhẹ nhàng hạ cánh chiếc tàu bay, đi tới theo cách thức mà tôi đã thấy. Khi tôi dừng lại trước mặt viên phụ tá, anh ta nói với tôi thật to để toàn bộ đám đông có thể nghe thấy.
“Công nhận John Carter,’ anh ta nói, “về lòng dũng cảm nổi bật và kỷ năng của anh trong việc bảo vệ cho em họ của Jeddak Than Kosis, và chỉ một mình đã tiêu diệt được ba chiến binh da xanh, vua của chúng tôi rất hân hoan ban cho anh dấu hiệu của lòng quý trọng của người.”
Khi đó, Than Kosis tiến lại gần tôi và đặt chiếc huy hiệu lên cánh tay tôi, ông ta nói:
“Em họ của ta đã kể lại chi tiết về chiến công tuyệt diệu của anh, điều gần như là một phép mầu, và nếu anh có thể bảo vệ một người em họ của nhà vua tốt như thế, anh cũng có thể bảo vệ chính bản thân nhà vua. Vì vậy, anh được phong cấp đại úy của đội cận vệ và sau đây sẽ được vào trú ngụ trong cung điện của ta.”
Tôi cảm ơn ông ta, và theo lệnh của ông ta, tôi đứng vào vị trí của những triều thần khác. Sau buổi lễ, tôi đưa chiếc tàu về nơi đậu trên mái doanh trại của phi đội trinh sát, và theo lệnh từ cung điện, tôi tới báo cáo với viên sĩ quan quản lý cung điện.