← Quay lại trang sách

Chương XXIII LẠC GIỮA BẦU TRỜI

Không cần cố gắng trốn tránh, tôi đi vội tới vùng phụ cận của nơi ở của chúng tôi, nơi tôi chắc chắn sẽ gặp Kantos Kan. Khi tới gần tòa nhà, tôi cẩn thận hơn vì đoán rằng nơi này đã được canh gác nghiêm ngặt, và đúng là như thế. Nhiều người đeo huy hiệu dân sự đi lảng vảng quanh lối vào cửa trước và cửa sau. Cách duy nhất để tới tầng trên nơi tọa lạc các căn phòng của chúng tôi mà không bị phát hiện là thông qua một tòa nhà liền kề, và sau khi cân nhắc cách thức hành động, tôi tìm cách phóng lên mái của một cửa tiệm có nhiều cửa ra vào.

Nhảy từ mái nhà này sang mái nhà khác, một lúc sau tôi tới một cánh cửa sổ mở trong tòa nhà nơi tôi hy vọng tìm ra Kantos Kan, và chỉ thoáng sau, tôi đứng trong căn phòng trước mặt anh ta. Anh ta ở một mình và không tỏ vẻ ngạc nhiên gì khi tôi xuất hiện, bảo rằng anh ta đã mong tôi tới sớm hơn, vì phiên gác của tôi đã qua lâu rồi.

Tôi thấy rằng anh ta không biết gì về những sự cố trong cung điện, và khi tôi kể lại anh ta rất kích động. Tin tức Dejah Thoris đã hứa trao tay nàng cho Sab Than khiến anh ta mất hết tinh thần.

“Không thể như thế được,” anh ta than vãn, “Không thể được! Vì sao, bất kỳ người nào ở Helium cũng thà chịu chết hơn là bán nàng công chúa yêu dấu của họ cho nhà cầm quyền của Zodanga. Hẳn nàng đã mất trí rồi khi thực hiện một trao đổi như thế. Anh, người không biết dân chúng Helium chúng tôi yêu mến các thành viên hoàng tộc của mình thế nào, sẽ không hiểu được nỗi khủng khiếp khi thấy một sự liên minh xấu xa như thế.”

“Có thể làm gì đây, John Carter?” anh ta nói tiếp. “Anh là một người tháo vát. Anh có nghĩ ra cách nào đó để cứu Helium thoát khỏi nỗi ô nhục này không?”

“Nếu tôi có thể tới gần Sab Than,” tôi đáp, “tôi có thể giải quyết khó khăn mà Helium đang vướng phải, nhưng vì những lý do riêng tư, tôi mong là một ai khác sẽ thực hiện nhát kiếm giải thoát cho Dejah Thoris.”

Kantos Kan nhìn sâu vào mắt tôi trước khi nói.

“Anh yêu nàng!” Anh ta nói. “Nàng có biết điều đó không?”

“Nàng biết, Kantos Kan, và cự tuyệt tôi chỉ vì nàng đã hứa với Sab Than.”

Chàng trai tuyệt vời nhảy bật lên, và ôm chặt vai tôi, anh ta la lên:

“Nếu quyền chọn lựa là của tôi, tôi không thể nào chọn một người bạn đời phù hợp hơn cho công chúa thứ nhất của Bardoom. Đây là tay tôi đặt trên vai anh, John Carter, và lời hứa của tôi rằng Sab Than sẽ đi đời trước mũi kiếm của tôi vì tình yêu của tôi đối với Helium, đối với Dejah Thosis, và đối với anh. Ngay đêm nay tôi sẽ cố gắng tới nơi ở của hắn trong cung điện.”

“Bằng cách nào?” Tôi hỏi. “Anh đang bị canh giữ nghiêm ngặt và có gấp bốn số người tuần tra trên bầu trời.”

Anh ta nghiêng đầu suy nghĩ một lúc, rồi ngẩng lên với vẻ tự tin.

“Tôi chỉ cần lọt khỏi những tên gác này là có thể làm được,” cuối cùng anh ta nói. “Tôi biết một lối vào cung điện bí mật qua đỉnh của tòa tháp cao nhất. Tôi đã tình cờ rơi xuống đó khi bay ngang qua cung điện để tuần tra. Trong việc này, chúng tôi phải kiểm tra cẩn thận mọi diễn biến bất thường có thể xảy ra, và một gương mặt nhìn ra từ đỉnh của tòa tháp cao nhất của cung điện là điều bất thường nhất đối với tôi. Do đó, tôi bay đến gần và phát hiện ra rằng người đang nhìn ra không ai khác hơn là Sab Than. Hắn ta nhẹ nhàng rút lui khi bị phát hiện và lệnh cho tôi giữ kín việc này, giải thích rằng hành lang từ tòa tháp dẫn thẳng tới phòng của hắn, và chỉ có mình hắn biết. Nếu tôi có thể tới mái của doanh trại và lấy được tàu bay, tôi có thể đến chỗ ở của Sab Than trong năm phút. Nhưng làm sao tôi thoát ra khỏi toà nhà này, đã bị canh giữ như anh nói?”

“Việc canh gác những chiếc tàu bay ở doanh trại có tốt không?” Tôi hỏi.

“Thông thường chỉ có một người trực trên mái vào ban đêm.”

“Hãy đi tới mái của tòa nhà này, Kantos Kan, và đợi tôi ở đó.”

Không dừng lại để giải thích kế hoạch của mình, tôi quay xuống con đường và vội vã tới doanh trại. Tôi không dám vào tòa nhà lúc nào cũng đầy những thành viên của phi đội, giờ đây đang lùng sục tôi như tất cả những người Zodanga khác.

Tòa nhà này rất lớn, chọc thẳng lên trời với độ cao một ngàn bộ. Ít có tòa nhà nào ở Zodanga cao hơn doanh trại này, dù có nhiều tòa nhà cao tới vài trăm bộ. Các sân bay cho các tàu chiến lớn cao hơn năm trăm bộ, còn các ga hàng hóa và hành khách của các phi đội thương mại cũng cao gần bằng chừng ấy.

Trèo lên tòa nhà này mất khá nhiều thời gian và đầy nguy hiểm, nhưng vì không còn cách nào khác, tôi tiến hành công việc. Nhờ lối kiến trúc của Hỏa tinh cực kỳ công phu việc leo lên đơn giản hơn nhiều so với sự chờ đợi của tôi, vì tôi tìm thấy những rìa trang trí và những vật che chắn tạo thành những nấc thang suốt con đường lên tới nóc của tòa nhà. Ở đây, tôi gặp chướng ngại vật thật sự đầu tiên. Các mái hiên gie ra cách xa bức tường mà tôi đang bám vào gần hai mươi bộ, và dù đã leo vòng quanh cả tòa nhà, tôi vẫn không tìm ra một khoảng trống nào để leo lên tiếp.

Tầng thượng có đèn, và đầy những lính tráng đang nghỉ ngơi thư giãn. Vì vậy, tôi không thể lên mái nhà qua ngõ bên trong.

Có một cơ may bé nhỏ, vô hy vọng, và tôi quyết định phải nắm lấy nó, vì Dejah Thoris, và không người nào đàn ông nào từng sống lại không liều mạng cả ngàn lần cho những cô gái như nàng.

Bò theo bức tường với hai chân và một tay, tôi tháo một trong những sợi dây da dài trong mớ dây đai của tôi. Ở một đầu của nó gắn một cái móc lớn, nhờ đó, các phi công có thể đu người trên hông và sau đuôi máy bay để sửa chữa các thứ, và nhờ đó các đội quân tiếp đất từ các tàu chiến lớn.

Tôi thận trọng ném cái móc lên mái nhà nhiều lần cho tới khi nó móc cứng vào cái gì đó, tôi kéo nhẹ để củng cố sức giữ của nó, nhưng vật đó có chịu nổi sức nặng của tôi hay không thì tôi không biết. Có lẽ nó đã móc vào gờ mé ngoài của mái nhà, không thì khi thân hình tôi đang đong đưa ở đầu sợi dây, nó có thể trượt ra và quăng tôi xuống lòng đường bên dưới một ngàn bộ.

Tôi ngần ngừ giây lát, rồi, phóng người khỏi nơi đang đeo bám, tôi lao vào không trung ở đầu của sợi dây. Xa xa bên dưới là những con đường rực rỡ ánh đèn, mặt lộ cứng và cái chết. Có một cú giật nhẹ ở đầu sợi dây, và một tiếng trượt kèn kẹt làm tôi lạnh cả người, rồi cái móc cố định lại và tôi đã an toàn.

Nhanh chóng đu lên, tôi bám vào rìa của mái hiên và đu người lên bề mặt của mái nhà. Khi đứng lên, tôi bắt gặp trước mặt mình người lính gác và thấy mình đang nhìn vào họng súng của hắn ta.

“Anh là ai, từ đâu đến?” Hắn la lên.

“Tôi là một trinh sát viên, là bạn, và là một người suýt chết, vì chỉ với cơ may ngàn cân treo sợi tóc tôi mới thoát khỏi việc rơi xuống con đường bên dưới.” Tôi đáp.

“Nhưng làm thế nào anh lên được mái nhà hở anh bạn? Không có ai hạ cánh, cũng không ai từ trong nhà lên suốt một giờ qua. Nhanh lên, giải thích ngay, không tôi gọi đội bảo vệ.”

“Nhìn đây này, anh bạn, và anh sẽ thấy tôi tới bằng cách nào và suýt chết ra sao.” Tôi đáp, quay lại rìa mái nhà, nơi, hai mươi mét bên dưới, ở đầu kia của sợi dây, treo toàn bộ nhữngvũ khí của tôi.

Gã lính gác, do tò mò thôi thúc, bước tới bên tôi và tới cái chết của hắn, vì khi hắn nghiêng người nhìn qua mái hiên, tôi nắm lấy cổ hắn và cánh tay cầm súng của hắn và ném mạnh hắn lên mái nhà. Khẩu súng ngắn rời khỏi tay hắn, và những ngón tay của tôi cắt đứt nỗ lực la lên cầu cứu của hắn. Tôi cột hắn lại rồi treo hắn trên rìa của mái nhà giống như bản thân đã treo lơ lửng cách đấy không lâu. Tôi biết phải tới sáng mai người ta mới phát hiện ra hắn, và tôi chỉ cần bấy nhiêu thời gian thôi.

Kéo các dây đai và vũ khí lên xong, tôi vội vã tới chỗ mấy chiếc tàu bay, và tìm ra ngay tàu của tôi và của Kantos Kan. Cột tàu của anh ta sau tàu tôi, tôi khởi động máy và lướt khỏi mái nhà, và lượn xuống những con đường thành phố bên dưới khoảng cách mà đội tuần tra thường bay. Trong chưa đầy một phút, tôi đã hạ cánh an toàn trên mái nhà của tòa nhà chúng tôi, bên cạnh Kantos Kan đang sửng sốt.

Tôi không mất thời giờ giải thích, mà ngay lập tức thảo luận các kế hoạch cho tương lai trước mắt. Chúng tôi quyết định rằng tôi sẽ cố tới Helium trong khi Kantos Kan vào cung điện và hạ sát Sab Than. Nếu thành công, anh ta sẽ bay theo tôi. Anh ta đưa chiếc la bàn cho tôi, một dụng cụ bé nhỏ thông minh có thể nhanh chóng xác định bất kỳ một điểm nào trên bề mặt của Hỏa tinh, rồi nói lời tạm biệt, chúng tôi cùng đứng lên và phóng tàu về hướng cung điện, nằm trên lộ trình tôi phải vượt qua để tới Helium.

Khi tới gần tòa tháp cao, một tàu tuần tra lao xuống từ bên trên chúng tôi, rọi ánh đèn pha sáng loá lên tàu chúng tôi, và có tiếng gầm lên ra lệnh dừng tàu, tiếp theo là một phát súng mà tôi không thèm để ý tới. Kantos Kan lao nhanh vào bóng tối, còn tôi lướt đều với một vận tốc kinh khủng băng qua bầu trời sao Hỏa, theo sau là cả chục chiếc tàu của phi đội trinh sát tham gia cuộc truy đuổi, và sau nữa là một chiếc tàu tuần tiểu, chở một trăm lính và một khẩu đội súng liên thanh. Bằng cách lượn vòng và bay ngoặc trở lại, lúc xuống thấp lúc lên cao, tôi có thể xoay xở thoát ra khỏi ánh đèn tìm kiếm của chúng trong phần lớn thời gian, nhưng tôi cũng lạc lối vì chiến thuật đó, vì thế, tôi quyết định bất kể mọi thứ để bay theo đường thẳng và giao kết quả cho định mệnh và vận tốc của chiếc tàu bay.

Kantos Kan đã chỉ cho tôi một mẹo cài số, chỉ có lực lượng không quân của Helium biết, giúp cho động cơ máy bay tăng tốc độ lên rất lớn, và tôi chắc rằng tôi có thể bỏ xa bọn truy đuổi nếu thoát khỏi những khẩu súng thêm một lúc.

Khi bay qua bầu trời với những viên đạn bay vun vút xung quanh, tôi chắc rằng chỉ nhờ một phép mầu tôi mới có thể thoát thân. Nhưng hạt súc sắc đã được gieo rồi, và thế là, mở hết tốc lực, tôi phóng thẳng tới Helium. Dần dần, tôi bỏ những kẻ truy đuổi xa lại phía sau và tôi chỉ mới vừa tự chúc mừng cho cuộc tẩu thoát may mắn của mình thì một viên đạn bắn thẳng từ tàu tuần tiểu trúng vào mũi con tàu nhỏ của tôi. Sự chấn động gần như lật úp con tàu, và nó lao xuống, xuyên qua bóng đêm tăm tối.

Tôi rơi bao xa thì kiểm soát lại được chiếc tàu tôi cũng không biết, nhưng hẳn tôi phải rất gần mặt đất khi cất cánh bay lên, vì tôi nghe rất rõ tiếng hí của những con thú bên dưới. Bay lên cao trở lại, tôi nhìn lướt qua bầu trời để tìm bọn truy đuổi, và cuối cùng thấy rằng ánh đèn của chúng đã ở rất xa phía sau, đang hạ xuống đất, hiển nhiên là để tìm tôi.

Không chờ đến khi ánh đèn của chúng biến mất, tôi liều lĩnh chiếu tia đèn nhỏ của tôi vào chiếc la bàn, lúc đó tôi kinh hoàng nhận ra rằng một mảnh nhỏ của viên đạn đã hoàn toàn phá hỏng người dẫn đường duy nhất của tôi, cũng như cái đồng hồ đo tốc độ. Đúng là tôi có thể theo ánh sao để đi về hướng Helium, nhưng không biết đích xác vị trí của thành phố cũng như tốc độ bay, cơ may tôi có thể tìm thấy nó rất mong manh.

Helium nằm cách Zodanga một ngàn dặm về hướng tây nam, và với chiếc la bàn còn nguyên vẹn, tôi có thể đi tới đó trong vòng bốn đến năm giờ nếu không có sự cố gì. Tuy nhiên, do tình thế thay đổi, sáng hôm sau tôi bay qua chặng đường mênh mông trên đáy biển chết suốt sáu giờ với vận tốc tối đa. Lúc bấy giờ, bên dưới tôi là một thành phố lớn, nhưng nó không phải là Helium, vì trên Hỏa tinh chỉ có Helium là nơi duy nhất bao gồm hai thành phố lớn có tường bao quanh theo đường tròn cách nhau chừng bảy mươi lăm dặm và có thể dễ dàng nhận thấy từ độ cao mà tôi đang bay.

Tin rằng mình đã bay quá xa về hướng bắc và tây, tôi quay lại theo hướng đông nam, qua nhiều thành phố lớn khác vào trước buổi trưa, nhưng không có nơi nào giống như mô tả của Kantos Kan về Helium. Ngoài hình thức thành phố đôi của Helium, một đặc điểm phân biệt khác là hai tòa tháp lớn, một tòa màu tím thẫm rực rỡ cao gần một dặm nằm giữa trung tâm của một trong hai thành phố, và tòa tháp thứ hai màu vàng tươi cũng có độ cao tương tự nằm giữa thành phố thứ hai.