Phần II CÔ BÉ MIYAX
GIÓ RÍT, BẦU TRỜI TRỐNG TRẢI, MẶT ĐẤT HOANG LIÊU. Miyax đã có lần phải nếm cảnh cô đơn vì bị bỏ rơi như thế này.
Cô không còn nhớ mấy về mẹ mình vì Miyax chưa đầy bốn tuổi thì mẹ qua đời nhưng cô lại nhớ như in ngày hôm đó. Gió gào thét man dại, cuộn lên những đợt sóng với vô số băng vụn ném vào bờ. Cha Kapugen nắm tay cô dắt đi. Khi cô vấp té, ông nhấc bổng cô đặt lên vai mình và từ trên cao, Miyax nhìn thấy hàng ngàn cánh chim đang chao liệng phía biển khơi. Tiếng chim ó biển thật thống thiết còn bọn tu hú nghe như khóc như than. Những con hải âu cổ rụt vốn vui nhộn nay cũng ủ rũ sà xuống thấp, cha Kapugen nói với cô rằng chúng dường như đang chia sẻ với ông nỗi đau mất mát.
Cô hiểu điều đó nhưng cô không buồn. Cô rất vui mỗi khi được đi đâu đó với riêng cha Kapugen. Thi thoảng lắm ông mới có dịp trèo lên các vách đá kiếm trứng chim cho cô ăn, thi thoảng ông ôm cô vào lòng rồi tựa mình vào một phiến đá. Cô thiếp đi chốc lát nhờ hơi ấm từ chiếc áo parka da hải cẩu to sụ của ông. Rồi lại đi. Cô không biết là bao xa.
Sau này, bà cô Martha của cha Kapugen nói với cô rằng ngày mẹ cô qua đời, cha cô đã mất trí. Ông giữ rịt Miyax bên mình và rời khỏi căn nhà xinh xắn ở Mekoryuk. Ông bỏ lại cả công việc quan trọng của mình là làm chủ một đàn tuần lộc, bỏ lại tất cả tài sản ông có.
- Bố mày đưa mày tới trại hải cẩu đấy. - Bà Martha nói với cô. - Bố mày có bao giờ làm được việc gì hay ho từ sau ngày hôm đó đâu.
Đối với Miyax, những năm tháng sống ở trại hải cẩu thật tuyệt. Trong tâm trí cô, quang cảnh và các sự kiện ở đó là những gam màu rực rỡ. Không xa bờ biển là căn nhà nhỏ của cha Kapugen được dựng lên từ các loại gỗ trôi dạt. Bên ngoài, nó được sơn màu xám pha hồng. Bên trong sơn màu vàng chanh. Trên vách treo rất nhiều ngà hải mã, các loại trống, những ngọn lao và những con dao chuyên dụng của đàn ông. Chiếc thuyền kayak dựng cạnh cửa rực rỡ như thể người ta đem vầng trăng dát mỏng lên nó còn hai bên mạn thuyền lại ánh lên màu đen nhánh. Gam màu vàng thẫm và nâu nhạt là những người đàn ông đứng tuổi ngồi quanh lò lửa trong trại của cha Kapugen trò chuyện với ông suốt ngày đêm.
Đại dương toàn màu xanh lục và trắng, lại được viền quanh bằng lông thú vì cô nhìn thấy đại dương thấp thoáng qua mũ trùm của cha Kapugen khi ông ủ cô trong áo parka để cõng ra bờ biển. Qua mép mũ trùm, cô nhìn thấy những đôi mắt hiền lành của đám hải cẩu tụ tập trên mặt băng. Tấm lưng cha căng lên khi ông nâng tay lên siết cò súng. Sau đó mặt băng loang đỏ.
Nghi lễ Đại tiệc Bong Bóng mới thật nhiều màu sắc - đen có, lam có, đỏ tía có, đỏ màu lửa có; cánh tay cha Kapugen quàng quanh cổ cô rực màu hồng và đó là sắc màu cô nhớ nhất về buổi Đại tiệc. Một bà thầy cúng già vẫn được mọi người gọi là “bà còng” đang nhảy múa. Khuôn mặt bà được vẽ vằn vện bằng bồ hóng đen. Bà vừa cúi chào kết thúc điệu nhảy thì một con ma dữ tợn từ góc tối nhào ra, mặt đeo một chiếc mặt nạ to tướng, phát ra tiếng leng keng khiến Miyax chết khiếp. Một lần, thu hết can đảm, cô liếc nhanh ra sau mặt nạ và nhận ra người đang nhảy đó chẳng phải là ma quỷ gì cả mà chính là Naka, một cộng sự đắc lực của cha Kapugen. Cô khẽ gọi tên ông, ông cười, tháo mặt nạ và ngồi xuống cạnh cha cô. Họ tán chuyện, những người khác cũng góp lời. Sau hôm đó, cha Kapugen lấy những chiếc bong bóng của hải cẩu đem thổi căng lên rồi cùng mấy người đứng tuổi mang lên mặt băng. Ra đó, họ đem thả cả xuống biển trong khi Miyax chăm chú đứng xem và nghe họ hát. Khi quay về trại, bà còng nói với cô rằng những người đàn ông đem trả cho hải cẩu những chiếc bong bóng.
- Bong bóng chứa linh hồn của loài vật. - Bà giảng giải. - Lúc này linh hồn đó có thể nhập vào thân xác của những con hải cẩu mới chào đời và bảo vệ chúng an toàn cho tới khi chúng ta săn bắt chúng.
Đêm đó, bà còng mặc toàn đồ tím, lấy một mảnh da hải cẩu và mỡ cá voi buộc chặt vào thắt lưng Miyax.
- Đây là một cái I’noGo tied, - bà bảo, - một cái bùa xinh xắn dành cho con.
Ký ức dội về toàn một màu vàng chập chờn - đó là những người đàn ông đang say sưa vỗ trống xung quanh lò lửa của cha Kapugen. Cô nhìn thấy họ qua một màn tinh thể nước ly ty hình thành từ hơi thở của cô phà vào không khí lạnh giá ban đêm trong nhà.
Naka và cha Kapugen quỳ phủ phục, người lắc lư nhè nhẹ nhưng rất nhanh nhẹn. Khi Naka đưa đầu chạm nhẹ vào cằm cha Kapugen, cha cô bèn quỳ thẳng lên. Ông hất đầu ra sau rồi lắc người bằng hai gót chân. Naka ngồi dậy và họ cùng nhau hát những bài ca của loài sói. Khi điệu nhảy kết thúc, những người đàn ông hò reo ầm ầm và đập trống thùng thùng.
- Các người là những con sói, các người đúng là những con sói. - Họ hú hét.
Sau đó, cha Kapugen kể cho cô nghe về những con sói ông đã từng biết trong đại lục từ khi ông còn học trung học ở Nome. Ông và người bạn vui tính của mình khi đi săn thú hoang mấy tháng liền đã gọi đàn sói, dùng ngôn ngữ của chúng để hỏi xem nên đi săn ở đâu. Khi họ thành công, họ trở về Nome với những chiếc xe trượt chất đầy tuần lộc.
- Loài sói rất thân thiện. Chúng yêu thương nhau và nếu con học được cách trò chuyện với chúng, chúng cũng sẽ yêu thương con.
Ông nói với cô rằng tất cả các loài chim và thú đều có ngôn ngữ và nếu bạn lắng nghe, quan sát chúng, bạn có thể biết được về kẻ thù của chúng, về thức ăn của chúng để đâu hay khi nào những trận bão lớn sẽ kéo về.
Mảng ký ức màu bạc là hôm đầu tiên mặt trời nhô lên khỏi đường chân trời trong cả vụ đông. Hôm đó, cô ở trên bãi biển, gần bên cha Kapugen, giúp ông kéo một tấm lưới khổng lồ. Trong lưới có một con cá voi trắng đẹp tuyệt. Ngoài hình ảnh về con cá voi, cô còn như nghe thấy tiếng những người đàn ông reo mừng trước món quà của biển cả.
Con cá voi như một quả núi cao che hết tầm nhìn của cô khiến cô không sao nhìn được những dãy núi phía xa, chỉ thấy những đám mây xám xịt. Bàn tay tê cóng, to bản và rắn rỏi của cha Kapugen dường như cũng quá nhỏ bé khi chạm vào thân mình khổng lồ của con cá voi.
Cách đó không xa, bà còng đang nhảy múa và làm động tác thu lượm những gì đó vô hình trong không khí. Miyax sợ chết khiếp nhưng cha Kapugen giải thích cho cô hiểu rằng bà đang bắt linh hồn con cá voi bỏ vào cái bùa I’noGo tied của mình.
- Bà sẽ trả nó về với biển cả và những con cá voi. - Ông nói.
Những lần được cùng cha ra lãnh nguyên thật vui nhộn. Ông chào hỏi cả bầu trời xanh và hát vang những lời tán dương các bụi cây ngọn cỏ. Trong những chuyến đi này, họ thường được ăn những quả cây chín ngon như thịt cá hồi rồi nằm lăn dưới nắng ngắm nhìn chim chóc. Thỉnh thoảng, cha Kapugen chúm miệng bắt chước những điệu hót của chim tu hú khiến các chú chim sà xuống biển vì ngỡ rằng có một thành viên trong đàn của mình bị lạc trong các bụi cỏ. Cha Kapugen cười phá lên khi thấy đàn chim nhận ra ông và hốt hoảng bay vọt lên.
Trong ký ức của cô, những lần đi câu cá với cha là gam màu da đồng xỉn, hai cha con thường lội ra cửa sông nơi người ta xây các kè đá rồi dồn cá vào các tấm lưới đã căng sẵn. Cha Kapugen dùng lao đâm hoặc dùng tay mò cá và ném cho những người chờ sẵn trên các thuyền gỗ. Thỉnh thoảng ông thả những con cá tuyết và cá bơn lưỡi ngựa to nhất vào thuyền kayak của mình; mỗi lần bắt được một con như thế ông lại reo ầm lên khoái trá và huơ huơ nó trên đầu. Con cá bắt nắng ánh lên lấp lánh.
Đối với Miyax, mùa hè ở trại hải cẩu không đẹp bằng dịp mùa thu và mùa đông vì suốt dịp hè, rất nhiều gia đình từ Mekoryuk kéo đến Cảng Nash để săn bắt và câu cá nên cha Kapugen bận rộn suốt. Khi thì ông phải giúp người ta đặt lưới, khi thì ông dùng thuyền kayak bơi ra ngoài khơi dò tìm những đàn hải cẩu.
Những lúc như vậy, Miyax phải ở lại bãi biển với những đứa trẻ khác. Cô đá cầu hoặc chơi bóng cỏ với chúng; cô sưng vù cả hai tay vì gỡ nhím biển bám trên các tảng đá để moi lớp thịt ngọt lịm của chúng ăn. Cô cũng thường đi đào ngao sò nằm chìm dưới cát để phần cha Kapugen về đập ăn và chép miệng một cách ngon lành.
Những người Eskimo từ Mekoryuk tới thường nói tiếng Anh. Họ gọi cha cô là Charlie Edwwards và gọi Miyax là Julie vì người nào cũng phải có hai tên, một bằng tiếng Anh và một bằng tiếng Eskimo. Mẹ cô cũng đã từng gọi cô là Julie nhưng cô không hề để ý đến cái tên trong mùa hè của mình cho đến một hôm cha Kapugen gọi cô bằng cái tên đó. Cô dậm chân vùng vằng và bảo ông rằng tên cô là Miyax.
- Con là một người Eskimo chứ không phải người da trắng! - Cô phụng phịu và ông tung bổng cô lên không rồi ôm ghì lấy cô.
- Phải, con là người Eskimo, - ông nói, - và đừng bao giờ quên điều đó. Chúng ta sống được trong những hoàn cảnh không ai có thể sống vì chúng ta thực sự hiểu Trái đất này.
Nhưng mùa đông vẫn luôn quay lại. Những trận bão tuyết ào đến, nhiệt độ tụt xuống -30°, -40°; những người còn ở lại trại săn bắn đều là những người nói tiếng Eskimo và làm những công việc của riêng người Eskimo. Họ cạo sạch các tấm da thú, khâu vá lại ủng, đóng thuyền bè và chạm khắc ngà hải mã. Đêm xuống, cha cô và những người khác cùng ca hát, nhảy múa; tất cả những bài hát, điệu nhảy của họ đều nói về biển cả, về đất đai và những sinh vật cư trú ở đó.
Có một năm, hình như vào tháng chín vì khi đó các dãy lều bạt đều đã được hạ xuống và khu trại đã khá vắng vẻ, cha Kapugen về nhà với một tấm da hải cẩu. Đó là da một con hải cẩu đã được người nuôi nhưng có rất ít khoang đốm nên tương đối quý hiếm.
- Bố phải may cho con cái áo khoác mới. - Ông nói. - Con càng ngày càng lớn thêm. Vì mẹ không có ở đây để hỗ trợ bố con mình nên bố sẽ làm thay phần việc của mẹ con. Bây giờ hãy xem bố và học theo nhé.
Tấm da có màu vàng lấp lánh như kim loại và đẹp đến mức cả những chiếc áo parka bằng nhung của bọn nhóc ở Mekoryuk cũng không bì được. Miyax âu yếm vuốt ve nó trong khi cha ướm chiếc áo khoác cũ của cô lên đó và cắt thành một chiếc mới rộng rãi hơn. Ông vừa làm vừa khe khẽ hát còn cô nghĩ thêm lời hát về con hải cẩu giờ đang trở thành cái áo khoác. Đột nhiên, có tiếng ầm ì của động cơ xuồng máy từ xa vọng lại kéo hai cha con về với thực tại. Tiếng động cơ mỗi lúc một to rồi tắt lịm trên bãi biển. Có tiếng chân bước lạo xạo, không khí lạnh ùa vào cửa và bà Martha, cô của cha Kapugen, hiện ra. Bà ấy gầy gò, mặt lấm lem tàn nhang. Vừa nhìn thấy bà ấy, Miyax đã thấy không ưa nhưng cô rất muốn nói chuyện với bà ấy vì bà Martha chỉ nói với mình cha Kapugen.
Bà ấy nói gì đó rất nhanh bằng tiếng Anh mà Miyax chỉ hiểu lõm bõm và tỏ ra cáu kỉnh, nóng nảy. Bà Martha dứ dứ ngón tay vào mặt cha Kapugen và thỉnh thoảng liếc nhìn Miyax. Hai người to tiếng tranh cãi gì đó rồi bà Martha lôi từ trong ví ra một tập giấy và chìa cho cha Kapugen xem.
- Không! - Ông hét lên.
- Chúng ta cùng chờ xem! - Bà Martha rít lên, quay ngoắt lại và bỏ đi tới chỗ đậu xuồng có một người da trắng đang đợi.
Cha Kapugen theo sau bà ấy và đứng lại bên cạnh xuồng nói chuyện với người đàn ông một lúc khá lâu.
Sáng hôm sau, Miyax choàng tỉnh khi cha Kapugen nâng bổng cô lên và ông ghì cô vào lòng. Ông dịu dàng gạt mấy sợi tóc vương xuống mắt cô và thủ thỉ với cô rằng cô sẽ đến sống với bà cô Martha.
- Có một điều luật quy định rằng con phải được đi học… mà bố cũng thấy nên như vậy. Con đã chín tuổi rồi. Còn bố lại phải ra trận. Nhà nước đang có chiến tranh.
Miyax ôm choàng lấy cổ ông nhưng không phản đối. Với cô, bất cứ điều gì ông đã quyết định đều hoàn toàn đúng đắn. Tuy nhiên, cô vẫn thút thít khóc.
- Nghe kỹ này con. - Ông nói. - Nếu có chuyện gì xảy đến với bố hoặc nếu con sống không được thoải mái thì khi mười ba tuổi, con có thể đi khỏi nhà bà Martha và lấy Daniel, con trai Naka. Chú Naka sắp dọn đến Barrow trên bờ Bắc Băng Dương. Bố sẽ thu xếp với chú ấy. Chú ấy cũng như bố, một người Eskimo truyền thống biết yêu các tập tục của dân tộc mình. Chú ấy sẽ đồng ý thôi.
Miyax chăm chú lắng nghe, sau đó ông đặt cô xuống và nhanh chóng thu xếp đồ đạc cho vào cái túi của cô rồi choàng lên người cô một tấm vải dầu để phòng khí lạnh của biển và dắt cô ra xuồng. Cô ngồi xuống cạnh bà Martha, mắt không rời cha Kapugen. Động cơ rung lên, cha Kapugen nhìn cô cho tới khi xuồng rời bến, sau đó ông quay đi và vội vã rảo bước. Xuồng làm cồn lên một đợt sóng mạnh rồi lao vun vút theo luồng nước đang ngầu bọt, bóng cha cô nhòa dần.
Vậy là Miyax trở thành Julie. Cô được ở riêng một cái buồng gần cửa ngôi nhà nhỏ của bà Martha và đi học ngay thời kỳ trời đang tối kéo dài. Cô rất thích học những từ tiếng Anh in trong sách và cứ thế một tháng êm ả trôi qua.
Một buổi sáng sớm khi ngoài trời còn lạnh cóng và các vũng nước quanh nhà đều đông cứng, có một người đàn ông đứng tuổi từ trại hải cẩu tìm đến. Ông ấy nói nhỏ gì đó với bà Martha rồi lại kéo mũ trùm kín mặt và đi ngay. Bà Martha đến bên giường Miyax.
- Bố mày ấy, - bà ấy nói, - đã đi săn hải cẩu bằng chiếc thuyền kayak lố bịch của nó rồi. Đến hôm nay vừa tròn một tháng. Nó sẽ không về nữa đâu. Chỉ có những tấm ván thuyền của nó dạt vào bờ kia kìa.
Bà Martha khua guốc lộp cộp tới bên bếp lửa và quay lưng lại. Julie chạy nhào khỏi nhà dù trời vẫn còn tối om. Cô lao vun vút qua các cửa hàng, qua ngôi nhà chứa da tuần lộc, qua nhà thờ. Cô chạy một mạch tới tận bờ biển. Ở đó, cô thu lu trong các thùng dầu rỗng và nhìn ra khơi xa.
Gió gào thét trên biển, làm vỡ òa những con sóng và bắn tung tóe những mảnh băng vụn lấp lánh như kim cương báo hiệu bão tố sắp nổ ra.
- Kapugen, bố ơi! - Cô gọi.
Không có ai trả lời. Cha Kapugen đã đi rồi. Mặt đất trống trải và hoang vu quá.
Dần dần Julie cũng nguôi ngoai nỗi nhớ cha và hòa đồng với những người ở Mekoryuk. Bao nhiêu năm cùng cha Kapugen sống tách biệt ở trại hải cẩu thật êm đẹp nhưng giờ đây cô nhận thấy mình đã có một cuộc sống khác thường. Những cô gái bằng tuổi cô đều nói và viết được tiếng Anh, họ thuộc lòng tên tuổi các vị tổng thống, các nhà du hành và các siêu sao màn bạc và ca nhạc, những người sống phía dưới phần đỉnh của thế giới. Người Âu từng cho rằng Trái đất này bằng phẳng nhưng người Eskimo biết rõ nó hình cầu. Chỉ cần nhìn vào mối tương quan giữa Trái đất, Mặt trời và Mặt trăng là hiểu điều đó ngay.
Một hôm, đang đi lang thang trong thị trấn phủ trắng tuyết để về nhà, cô tình cờ gặp mấy cô bạn cùng lớp. Judith và Rose. Giày của họ rít lên trong giá lạnh còn tiếng của họ nghe thật xa xăm vì nhiệt độ đã tụt xuống rất thấp dưới mức 0. Judith mời cô về nhà mình chơi và cả ba cùng nép sát vào nhau đi tới bên lò sưởi đốt dầu. Judith và Rose chuyện phiếm với nhau còn Julie đưa mắt nhìn quanh nhà và lần đầu tiên cô nhìn thấy một cái bếp lò đun ga, một cái đi văng, mấy bức tranh lồng khung treo trên tường, những tấm rèm bằng vải bông có in hoa. Sau đó, Judith dẫn cô vào phòng riêng, cô chú ý ngay tới cái giường liền tủ, cái bàn và một cây đèn đọc sách. Trên mặt bàn có một sợi dây chuyền mảnh đeo hình một con chó, một cái mũ và một cái thuyền. Cô rất vui khi nhìn thấy thứ này - một thứ thật thân quen.
- Một cái I’noGo tied thật đẹp! - Julie thốt lên.
- Một cái gì cơ? - Judith hỏi. Julie nhắc lại bằng tiếng Eskimo cái từ dùng để gọi vật cất giữ linh hồn.
Judith cười khẩy và nói:
- Đó chỉ là một sợi dây chuyền thôi.
Rose cười khinh khích rồi cả hai đứa cùng phá lên cười vẻ giễu cợt. Julie cảm thấy máu dồn hết lên mặt khi cô nhận thấy - lần đầu tiên nhưng chưa phải là lần cuối - thái độ kỳ lạ của những kẻ vốn là người Eskimo nhưng đã bị Mỹ hóa. Cô còn nhiều điều cần phải học ngoài việc đọc qua sách báo. Đêm đó, cô ném cái I’noGo tied của mình đi.
Đối với cô, môn tiếng Anh và Toán khá dễ và đến cuối năm cô đã đọc thông viết thạo. Hè năm đó, cô xin vào trụ sở hội truyền giáo kế bên nhà thờ làm công việc quét dọn bàn và đón tiếp các vị khách từ các tiểu bang phía dưới đến đây để tiếp xúc với những người Eskimo đích thực. Khi không còn việc gì cần làm, cô tranh thủ nghiền ngẫm cuốn Từ điển Bách khoa.
Năm sau, Julie làm việc ở bệnh viện vào những dịp cuối tuần. Sau giờ học chính, cô đến phòng dạy nữ công gia chánh tập cắt váy áo và dùng máy khâu điện để may đồ. Cô cắt ngắn bớt tóc rồi dùng các ống cuộn uốn quăn các lọn tóc lại.
Một ngày chủ nhật nọ, cô đang rảo bước về nhà sau khi kết thúc công việc ở bệnh viện thì có một chiếc xe jeep thắng sát cạnh cô và một người da trắng cất tiếng gọi cô. Ông ta tì tay trên vô lăng, miệng nở một nụ cười thân thiện.
- Chú là Pollock. Ở đây, trên hòn đảo này, chú có một cửa hàng thuộc tập đoàn Tuần Lộc, - ông ấy lên tiếng. - Chú có một đứa con gái trạc tuổi cháu. Việc cuối cùng nó nhờ chú trước khi chú rời San Francisco là tìm cho nó một thiếu nữ sống tại thị trấn Mekoryuk trên đảo Nunivak và hỏi xem cô ấy có muốn trao đổi thư từ không. Nghĩa là làm bạn qua thư với nó ấy mà.
Julie không cần việc giải thích chuyện đó. Ở trụ sở hội truyền giáo có rất nhiều thư của những đứa trẻ muốn được trao đổi thư từ từ các bang khác gửi đến. Trước kia, cô chưa hề tham gia trò chơi này nhưng giờ thì cô rất sẵn lòng.
- Cháu rất thích việc đó, - cô trả lời.
- Con gái chú tên là Amy, - ông ấy nói và móc ví lấy ra một lá thư. - Nó nói với chú đưa bức thư này cho cô gái xinh xắn nhất mà chú gặp, người đó là cháu đấy vì cháu có cặp mắt sáng long lanh và đôi má hồng hào.
Cô mỉm cười và thong thả nhận lấy lá thư rồi nhanh chóng đi tới thư viện của hội truyền giáo mở đọc. Cô bị cuốn hút vào những dòng chữ đọc được:
Xin chào người bạn mới của tôi,
Tôi là Amy Pollock, mắt xanh lơ, tóc màu hạt dẻ. Tháng tới tôi sẽ tròn mười hai tuổi và tôi ao ước sẽ cao được một mét rưỡi. Tôi còn thiếu một chút nữa thôi. Tôi mặc váy áo cỡ số 9 và đi giày cỡ số 6, mẹ tôi cứ bảo chân thế là thô kệch. Nói một cách thành thực, tôi rất khoái đôi chân to bản của mình. Nhờ chúng, tôi chạy nhảy dễ dàng trên những ngọn đồi dốc tuột của San Francisco và đạp nước như một con nhái khi bơi. Tôi đang học lớp 8 và phải học tiếng Pháp. Tôi căm ghét môn này nhưng lại rất thích được học tiếng Eskimo. Bố tôi thường tới Alaska nên cũng dạy tôi biết mấy từ. Những từ đó thật hay, nghe kêu như chuông nhưng tôi không tài nào đánh vần được. Bạn đánh vần được không? Từ “ban ngày” đánh vần như thế nào? “Quaq” có phải không?
Tôi học khiêu vũ nữa, môn này tôi rất mê, tôi cũng rất thích chơi bóng chuyền với bọn nhóc sống cùng trên quả đồi nhà tôi. Khi nào lớn lên tôi sẽ làm một vũ sư nhưng đó là một công việc khó khăn. Một vũ sư ở Nhà hát opera San Francisco nói vậy. Vì thế có lẽ tôi sẽ làm giáo viên phổ thông như cô của tôi và sẽ có cả một mùa hè rảnh rỗi.
Tháng trước, ở trường, chúng tôi được nhìn thấy hòn đảo của bạn qua màn hình vô tuyến. Nó đẹp quá, có những cánh chim chao liệng trên cao, những đóa hoa nở rộ trên các triền đồi, đến mức tôi lập tức muốn viết thư cho một ai sống ở đó, một cô gái như tôi đây.
Đây là bức ảnh chụp ngôi nhà của tôi. Tôi đang đứng một chân trên tường đấy. Nhớ viết thư ngay cho tôi nhé.
Bạn mới của bạn
Amy
T.B: Khi nào bạn mới tới sống với gia đình tôi tại San Francisco này?
Julie gấp lá thư lại và lẩm bẩm với mình “Ban ngày” đánh vần là A.M.Y đấy thôi.
Những lá thư của Amy hằng tuần đều đặn bay đến làm nhạt dần những điều hấp dẫn ở Mekoryuk. Julie biết thêm nhiều về vô tuyến, về những chiếc xe thể thao, những chiếc quần jean xanh, những bộ bikini, những chiếc bánh kẹp ngon tuyệt và cả những bức tường chăng thảm trong ngôi trường trung học nơi Amy sắp theo học. Mekoryuk không có trường trung học. Con cái các gia đình Eskimo khá giả được gửi vào đại lục để học lên cao, điều này thì bà Martha không thể kham nổi. Nhưng, cô nghĩ, nếu cô cưới Daniel, có lẽ Naka sẽ gửi cô đi học.
Qua mùa đông, bà Martha trở nên cáu bẳn với cô. Bà ấy cằn nhằn Julie về kiểu tóc ngắn của cô và luôn miệng chê bai Julie. Con bé đó vô lễ với cả bố mẹ nó - bà ấy cắm cảu - Nó hư đốn lắm. Đó là tất cả những câu nói của bà ấy trừ câu “Lối sống cổ truyền là tốt nhất” còn nghe được.
Sau đó, bà Martha giao cho cô làm những công việc chán ngắt trong các ngày nghỉ cuối tuần và không cho cô tham gia các hoạt động với bạn bè. Những đêm đông trong căn nhà bé nhỏ tối tăm trở thành những cơn ác mộng. Julie mong đợi những lá thư của Amy và tin điện của Naka.
“Bức điện” đến thật đột ngột. Một buổi sáng tháng Sáu, Julie đang thay đồ chuẩn bị đi mua sắm thì ông Chủ tịch Phòng Quan hệ với người da đỏ tại Mekoryuk xuất hiện trước cửa. Ông ta báo rằng Naka vừa gửi thư tới đề nghị Julie tới ngay Barrow để làm lễ cưới với con trai mình.
- Giờ cháu đủ mười ba tuổi rồi. - Ông Chủ tịch nói. - Trong các hồ sơ tôi giữ có bản cam kết về việc này do Kapugen và Naka cùng ký nhận.
Bà Martha lắp bắp và thì thào vào tai cô rằng cô có thể từ chối nếu cô muốn.
- Lối sống cổ truyền là tốt nhất. - Julie nói khiến bà Martha không thể phản đối gì được.
Ngày hôm sau Cục Quan hệ với người da đỏ bố trí ngay tàu xe cho cô và Julie gói ghém mấy thứ đồ dùng của mình vào một chiếc túi da nai sừng tấm rồi cùng bà Martha đi bộ tới sân bay. Bà già lê bước phía sau, cố ý đi thật chậm và đến khi họ đến sân bay thì bà ấy khập khiễng.
- Tao sẽ làm được gì khi bị què mà vẫn phải bò ra khỏi giường? - Bà ấy cắm cảu.
Julie định nhắc bà ấy nhớ rằng cách đây mấy tiếng bà ấy còn rất khỏe nhưng không còn đủ thời gian nói gì thêm ngoài mấy lời tạm biệt. Người phi công đỡ cô lên khoang lái tối mờ và chỉ cho cô cách thắt dây an toàn.
Cô dè dặt nhìn cái ghế bọc nệm, những ngọn đèn trên nóc, cánh cửa để ngỏ dẫn vào buồng lái - sau đó cô nhắm nghiền mắt lại. Cô vẫn sợ rằng máy bay có thể không cất cánh thật. Tiếng động cơ gầm lên, máy bay chuyển động và mấy phút sau, mở mắt ra, cô chỉ còn thấy những ngôi nhà ở Nunivak nhỏ như những hạt đậu, hòn đảo cũng càng lúc càng bé lại. Khi nó chỉ còn to bằng một hột xoàn nổi trên mặt biển cô mới dám sờ tay vào ghế ngồi, vào tay ghế và nhìn dán xuống chân.
- Cháu đang lơ lửng trên không hả bác? - Cô hỏi người đàn ông ngồi bên cạnh.
Ông ấy nháy mắt, cô dựa đầu vào cửa sổ. Cô như một con đại bàng đang bay tìm những đỉnh núi cao mới. Một lúc lâu sau cô mới chịu ngồi thư giãn và điều băn khoăn của cô về loại tàu đi trên không diệu kỳ này biến thành sự tò mò.
- Cái gì giữ cho chúng ta lơ lửng ở đây thế ạ? - Cô lại hỏi người đàn ông.
- Hỏi gì mà ngớ ngẩn vậy cháu. - Ông ấy nói khiến cô đành im lặng.
Máy bay hạ cánh xuống Anchorage rồi Fairbanks. Ở đây, cô được gửi sang máy bay khác loại nhỏ hơn - đó là chiếc duy nhất bay tới vùng Barrow xa xôi.
Những dãy núi lởm chởm và những thung lũng vùn vụt trôi qua dưới chân cô; cây cối trở nên nhỏ bé và ngày càng thưa dần rồi biến mất hoàn toàn khi máy bay bay qua không phận vùng Dốc Bắc, viên phi công thông báo rằng họ đang bay qua chí tuyến Bắc. Những người da trắng ồ lên thích thú và thi nhau mở chai để chào mừng cái ranh giới tưởng tượng đó nhưng họ phải nhấp từng ngụm nhỏ một cách khó khăn vì các cửa sổ máy bay bỗng trắng xóa, máy bay đang đâm thẳng vào một màn sương mù mùa hè.
Họ bay vòng vòng trên bầu trời Barrow suốt một tiếng rưỡi đồng hồ rồi người phi công thông báo họ sẽ thử thêm một lần nữa để cố tìm lối thoát khỏi màn sương nếu không sẽ bay ngược lại Fairbanks. Julie dán mũi vào cửa sổ nên cô có thể nhìn thấy những đường mảnh dài như sợi chỉ có thể chỉ ra một lối thoát. Đột nhiên Barrow hiện rõ mồn một phía dưới, những ngôi nhà co cụm bên nhau tương phản với bờ biển đóng băng trông y hệt một đàn chim lẻ loi.
Máy bay hạ thấp độ cao xuống Barrow, Julie nhìn thấy phía xa có mấy tòa tháp cao của Hệ thống thông tin khẩn vùng xa như đánh dấu sự hiện diện của lực lượng quốc phòng tại Barrow, và có một con đường hẹp chạy men bờ biển dẫn tới một cụm nhà cao tầng. Người phi công cho biết chỗ đó thuộc về Cục Hàng hải và Đại học Alaska.
- Ở đó có phòng thí nghiệm nghiên cứu Bắc Cực để các nhà khoa học tìm hiểu về Bắc Cực. Khắp nơi trên thế giới, người ta đổ về đây để biết thêm nhiều về cuộc sống vùng lạnh giá.
Bánh máy bay chạm xuống đường băng, máy bay lăn bánh tới trước một ngôi nhà nhỏ bằng gỗ dựng trên lãnh nguyên, đó là trạm dừng cuối cùng. Julie bỗng cảm thấy lo lắng cho số phận mình nhưng cô chiêu đãi viên đã mang áo khoác đến cho cô và dẫn cô ra cửa. Cô nhìn xuống chỗ hai người mà cô đoán chắc đó là Naka và vợ ông - Nusan. Daniel ngấp nghé phía sau họ. Julie chậm chạp bước xuống thang, đi qua một khoảng trống dải đá dăm tới bắt tay Naka. Ông ấy khoác một chiếc áo choàng đồng phục của lực lượng Hải quân Bắc Cực, đôi mắt đen như cũng đang cười. Cô vụt nhớ tới đôi mắt ấy trong vòng quay những kỉ niệm đầy màu sắc của mình và cảm thấy an tâm hơn.
Nusan mặc một bộ kuspuck có điểm thêm những bông hoa bằng đăng ten kiểu Nhật Bản; bà cũng cười niềm nở đón Julie. Trước đây họ chưa hề gặp nhau. Nusan chưa bao giờ đến trại hải cẩu cả.
Sau đó Julie nhìn sang Daniel. Cô cảm thấy điều gì đó không bình thường trong nụ cười toe toét và đôi mắt ngơ ngẩn của anh ta. Như đọc được vẻ thất vọng thoáng qua trên nét mặt cô, Nusan vội vòng tay ôm choàng lấy cô. Bà ấy nói nhanh:
- Daniel có một số vấn đề nhưng nó là một thằng bé ngoan, là một công dân khá. Nó làm công việc dọn vệ sinh các chuồng thú ở khu thí nghiệm nghiên cứu. Nó sẽ là một người anh của con.
Nghe những câu nói đó, Julie thấy yên tâm và xua anh ta ra khỏi tâm trí mình. Anh ta sẽ chỉ là một người anh trai thôi mà. Điều đó thật tuyệt. Cô ngắm nhìn những ngôi nhà nhỏ được vây phủ trong những chiếc xuồng, những vỏ thùng dâu, những cái lốp xe, những cái xô, những chiếc ô tô hỏng cùng vô số túi xách, quần áo cũ rồi vui vẻ theo chân bố mẹ mới đi vào nhà.
Thế nhưng, Julie rất ngạc nhiên vì ngay hôm sau đã tổ chức đám cưới. Ông mục sư cùng hai người lạ mặt nữa đến nhà Naka; Nusan dẫn Julie vào bếp và đưa cô một bộ đồ bằng da hải cẩu đẹp tuyệt. Bà giúp Julie mặc quần áo mới. Daniel mặc một chiếc áo sơ mi màu cánh chả và chiếc quần tây. Người ta bảo cả hai đứng ở ngưỡng cửa thông giữa phòng khách và gian bếp rồi ông mục sư bắt đầu làm lễ. Daniel nắm chặt tay cô. Bàn tay anh ta cũng ướt mèm vì hồi hộp y như tay cô. Cô nhìn chăm chăm xuống sàn, trong đầu lởn vởn với câu hỏi không biết cha Kapugen có biết rằng Daniel ngớ ngẩn không. Cô tin rằng ông ấy không biết.
Buổi lễ vừa kết thúc, Daniel liền chạy tọt vào bếp và leo tót lên giường ngồi. Anh ta bắt đầu hí hoáy vặn một cái đài và lầm bầm gì đó một mình. Naka theo ông mục sư và hai người lạ kia ra ngoài còn Nusan lại ngồi vào bàn máy khâu.
- Bác cần hoàn thành nốt đôi ủng này cho một vị khách du lịch. Con cứ tự nhiên nhé.
Tiếng máy khâu lạch xạch, tiếng đài kêu ong ong. Julie bước ra ngoài và ngồi lên một thùng dầu rỗng. Phố xá im lìm vì đang là giờ nghỉ ngơi. Cô không rõ mình đã ngồi bất động vì sợ hãi trong bao lâu, chỉ biết là rất lâu. Thế rồi, có một cô bé từ phía sau một khối máy tàu thủy hỏng xuất hiện, tay dắt theo một bé gái nhỏ hơn.
- Đi nào! - Cô bé ra lệnh cho bé gái đang miễn cưỡng bước theo. - Đến giờ hất mền rồi đấy.
Chúng vội vã đi tiếp, những đứa trẻ khác cũng từ mọi hướng đổ dồn đến và tụ tập đông nghẹt trước cửa tòa nhà hội đồng. Mấy người đàn ông mở một tấm da thú rất lớn ra. Những người Eskimo và các vị khách du lịch cùng túm lấy các góc tấm da. Một đứa trẻ ở chính giữa, nhún người rồi lộn tung lên không khí cao tới sáu mét y hệt một quả đạn đồ chơi. Nó vừa cười ré lên thích thú vừa vung chân lên như muốn chạy rồi lại nhẹ nhàng rơi xuống.
Julie quay mặt đi. Mấy con điểu chúc tuyết bay vòng vòng quanh nhà, một con nhạn biển vùng Bắc Cực lao vút ra phía biển và những đợt sóng ì oạp vỗ vào bờ, cuốn băng tuyết dồn thành đống cao. Cô thấy nhớ nhà mình ở Mekoryuk ghê gớm. Cô gục đầu lên gối.
- Julie đấy à? - Một cô gái cao dong dỏng vỗ nhẹ vào cánh tay cô. - Tớ là Pearl Norton đây, Pami NalaGan.
Cô ấy nói bằng tiếng Innuit. Julie lắc đầu. Cô nói:
- Tốt hơn chúng ta nên dùng tiếng Anh để nói chuyện.
Pearl gật đầu và cười:
- Tớ vừa nói rằng: “Chúng mình tới quán giải khuây đi”.
Julie nhảy xuống đất rồi theo Pearl vòng qua một cái hòm vỡ, đi qua một cánh cửa đóng mở tự động và tiến vào một ngõ hẻm. Họ lặng lẽ đi qua một nhà nghỉ dựng bằng gỗ, ở đó có một vị khách du lịch đứng co ro bên cánh cổng vòm để tránh gió lùa; sau đó họ ra phố chính nơi có nhiều cửa hiệu. Băng qua đường, cả hai bước vào một lều quán giải trí rất lớn. Khi mắt Miyax đã quen với thứ ánh sáng lờ mờ, cô nhìn thấy hơn chục cô cậu choai choai, một số mặc quần jean áo khoác, một số mặc kuspuck và áo parka. Họ ngồi quanh các bàn nhỏ hoặc đứng túm tụm bên máy chơi bắn đạn và nghe nhạc mạnh. Pearl gọi một lon Coke và hai cái ống hút rồi họ ngồi xuống một chiếc bàn gần cửa.
- Tớ hiểu cậu cảm thấy thế nào Julie ạ. Năm ngoái tớ cũng đã lấy chồng. - Pearl lên tiếng. - Đừng bận tâm đến chuyện đó. Chẳng ai làm vậy đâu. Tất cả những gì cậu phải làm là bỏ nhà trốn đi và rồi mọi việc sẽ trôi vào quên lãng. Hầu hết những vụ thỏa thuận này đều nhằm mục đích kiếm lợi thôi. Tớ bảo đảm cậu đến đây là để giúp Nusan may áo parka và găng tất cho khách du lịch ấy mà.
Pearl ngả người ra sau:
- Đến ngày xửa ngày xưa cha mẹ còn không thể trói buộc con cái vào những cuộc hôn nhân kiểu này nếu chúng không thích nhau nữa là. Họ mặc cho số phận đưa đẩy.
Julie chăm chú nghe, đầu óc cô quay cuồng vì một mớ hỗn độn… nào là Daniel, nào đám cưới, những chiếc áo parka, những đoàn khách du lịch, những chiếc máy hát tự động chọn bài, những cái máy bắn đạn… rồi còn ly hôn nữa.
- Tớ phải đi thôi. - Julie nói. - Tớ có thể trò chuyện với cậu lần nữa không?
- Ngày mai tớ sẽ gặp cậu tại đây. Tất cả bọn thanh niên đều tới đây giải khuây.
Khi Julie bước vào bếp và thận trọng nhìn quanh thì Daniel đã đi đâu đó.
- Con có biết máy không? - Nusan lên tiếng. Bà đang ngồi trên sàn cắt một tấm da thỏ.
- Có biết chút ít ạ. - Julie vừa đáp vừa cởi áo choàng và cẩn thận gấp gọn lại.
- Con sẽ được biết nhiều điều nếu con ở với bác. - Nusan trả lời và chỉ vào một cái thùng lớn để trong góc. - Cuối tháng này chúng ta phải hoàn thành ba mươi cái áo parka cho hãng hàng không. Họ cần áo để cho khách du lịch đến đây thuê. Có vị khách nào biết cần phải ăn mặc thế nào đâu. Không có áo parka họ sẽ chết cóng.
Nusan xâu kim và khâu vắt một miếng da thỏ lên cổ một chiếc giày Mukluk [9] . Bà liếc nhanh Julie.
- Con sẽ khâu rất đẹp cho mà xem. Con vốn thông minh lại xinh gái nữa.
Mùa hè năm ấy Julie rất ít gặp Daniel; năm học mới đến cô càng ít gặp anh ta. Vì thế, đến tháng Mười, cô bắt đầu thấy thích nhà mới của mình. Cô nấu nướng và khâu vá với Nusan, buổi tối học bài, buổi chiều có vài giờ đến quán giải khuây gặp Pearl.
Ngày tháng trôi qua, những lá thư của Amy trở thành điều quan trọng nhất trong cuộc đời Julie và ngôi nhà ở San Francisco ngày càng quen thuộc hơn cả ngôi nhà ở Barrow. Cô biết rõ từng loại hoa mọc trên đồi nhà Amy, từng viên gạch xây tường vườn và từng cái cây cao vút. Cô cũng nắm rõ từng thanh sắt uốn hoa văn trang trí trên cổng sắt, biết rõ cần đi bao nhiêu bước để tới cửa chính; cô gần như biết rõ từng hàng gạch bông đen trắng lát sàn tiền sảnh. Cứ nhắm mắt lại cô có thể hình dung ra ngay lối đi có vòm cuốn, tấm thảm Ba Tư trải trên sàn phòng khách, những chiếc ghế tựa mạ vàng rực rỡ, cái cửa sổ lớn nhìn xuống khu vịnh. Những cái đài, những ngọn đèn, những chiếc bàn ngồi uống cà phê - tất cả những thứ đó cô đều biết rõ. Và nếu cô nhắm mắt thật chặt, cô có thể cảm nhận được bàn tay của Amy trong tay cô và nghe thấy tiếng bàn chân to bè của Amy bước trên đường.
Nghĩ tới tầng hai lúc nào cũng thấy vui. Trên đỉnh có phòng thông gió với bốn cửa lớn luôn mở để lấy ánh sáng vào nhà. Có một căn phòng quét vôi hồng, đó sẽ là phòng của cô khi nào cô tới San Francisco.
Qua mùa đông, Julie hiểu rõ về con người Naka. Mới đầu cô tưởng ông ấy làm một công việc rất quan trọng vì ông ấy thường vắng nhà nhiều ngày, có khi hàng tuần liền và khi về, ông ấy có vẻ rất mệt mỏi và cáu bẳn. Nhưng những hôm nhiệt độ dưới mức 0°C, Naka ở lỳ trong nhà nên dần dà Julie nhận ra ông ấy chẳng làm gì cả. Ông ấy nốc rượu. Càng uống ông ấy càng cáu bẳn, dễ nổi khùng. Nhiều lần ông ấy đánh đập Nusan; càng ngày ông ấy càng hay gây gổ với hàng xóm. Cuối cùng khi nào lạnh cóng, ông ấy mới chịu thả người xuống giường như một con hải cẩu to lớn nhưng mềm nhũn và ngủ ly bì mấy ngày liền.
Khi nào tỉnh giấc, ông ấy lại trở nên hiền lành, ngồi lỳ trong căn phòng bừa bộn lông thú và những mảnh da vụn, cần mẫn khâu những chiếc mặt nạ bằng da nai sừng tấm để bán cho khách du lịch mùa hè. Ông ấy hát những bài ca truyền thống ở trại hải cẩu và kể cho Julie nghe về những loài vật mà ông ấy và cha Kapugen từng biết. Những lúc như vậy, cô mới hiểu vì sao cha mình lại quý mến ông ấy đến thế.
Một đêm nọ, ông ấy đánh đập cô Nusan mấy bận liền. Khi bà ấy kêu gào và đánh trả, Julie vội chạy tới quán giải khuây tìm Pearl. Cô ấy không có ở đó nhưng góc phòng lại có Russell, một chàng trai đang đi khắp làng vận động những người Eskimo kiên quyết không đồng ý chương trình khuyến mại rượu bia của các nhà hàng địa phương.
Julie ngồi xuống. Cô nói:
- Naka lại nổi điên rồi. Ông ấy mất trí mất rồi.
Russell gục gặc đầu:
- Ông ấy, cũng như nhiều người khác, không sao bỏ được rượu chè. Có một ông từ San Francisco tới đã làm được biết bao nhiều việc ở bang Alaska này. Chú ấy có thể giúp đỡ được những người như Naka. Chú ấy đã giúp cha anh. Và cả anh nữa.
Russell nói thêm:
- Giờ đây tất cả chúng ta phải cùng phối hợp và giúp đỡ nhau bỏ rượu chè. Nhưng Naka phải đồng ý gặp mặt chú ấy. Nếu ông ấy đồng ý anh sẽ liên hệ với…
Julie chồm về phía trước như đã đoán chắc những gì Russell sắp nói ra. Cô thì thào:
- Ông Pollock.
- Eelie. Sao em biết?
Căn phòng quét vôi hồng ở San Francisco.
Ngày 24 tháng Giêng là một ngày lễ. Bắt đầu từ ngày 21, đỉnh của quả đất đỏ rực lên do một hiện tượng thiên thực xảy ra khi mặt trời di chuyển ở vị trí thấp dưới đường chân trời. Những người Mỹ bắt đầu cười đùa còn người Eskimo thôi không chơi những trò chơi mùa đông của họ là phi tiêu và con lắc nữa. Càng ngày không khí chộn rộn càng tăng lên.
Sáng ngày 24, Julie và Pearl cùng chạy tới trường; hôm nay sẽ là ngày đẹp nhất trong năm, ngày mặt trời mọc.
Gần trưa, Julie cùng bạn bè trong lớp mặc áo choàng parka, đi găng ấm rồi lặng lẽ leo qua cổng trường tránh không gây động. Ông hiệu trưởng người da trắng đã ra ngoài ngắm nhìn bầu trời phía đông nam một cách bồn chồn. Vẻ mặt ông ta như tỏ rõ rằng ông ta không hề tin phép màu sẽ xảy ra.
- Kia rồi! - Một cậu bé hét toáng lên và một cột sáng rực rỡ mới đầu màu lục sau là đỏ bùng lên phía đường chân trời. Ngôi sao của sự sống từ từ nhô lên cho tới khi nó hiện ra tròn vành và đỏ rực trên bầu trời. Những người Eskimo cùng nâng cao tay hướng lòng bàn tay về phía cội nguồn sự sống. Hoàn toàn vô thức, tất cả những người da trắng cũng từ từ nâng tay lên. Không một ai tỏ vẻ nhạo báng truyền thống lâu đời của người Eskimo.
Suốt một tiếng rưỡi đồng hồ, mặt trời từ từ di chuyển cao dần phía chân trời, nhắc người Eskimo nhớ rằng các loài chim thú cũng sắp quay về, rằng tuyết sắp tan và rằng những đống băng lớn trên bờ biển sẽ lùi ra xa, họ sẽ lại thoải mái đi săn thú và đánh bắt cá.
Thậm chí ở Nunivak cũng không thể có một ngày tuyệt vời như thế này vì quanh năm, mỗi ngày mặt trời chỉ hiện ra một lúc.
- Mặt trời chói lọi, con nhớ người biết bao. - Julie thầm thì và bàn tay cô cũng như cảm nhận được nhịp rung của cuộc sống.
Ngôi nhà nhỏ ở Barrow dần trở nên quen thuộc vì Julie cũng đã hòa nhịp được với nếp sống của Nusan và rồi mùa hè đến lúc nào cô cũng không biết. Hằng ngày, du khách nườm nượp kéo đến các khách sạn; phòng thí nghiệm nghiên cứu bấn lên vì vô số công việc. Julie bận tối tăm mặt mũi với công việc may vá, thỉnh thoảng lắm mới có thời gian tới thăm Pearl và gia đình cô ấy.
Một buổi chiều muộn Nusan từ cửa hàng quay về. Bà nói với vẻ bực tức:
- Lão Naka bị bắt rồi. Tao phải đi và đưa lão ra khỏi đó. Làm cho xong mấy cái ủng mukluk này đi. Ngày mai có người cần đấy.
Bà tất tả đi ra cửa, Julie nhặt mấy chiếc ủng lên. Cô đang hý hoáy cắt một miếng da màu đen vuông vức xinh xắn để khâu kèm vào dải băng viền miệng ủng thì cánh cửa bật mở và Daniel bước vào.
Cô chẳng buồn nhìn lên vì cô đã biết thói quen của anh chàng. Anh ta sẽ dán mắt vào chương trình TV tối trong khi ăn, uống một lon Coke và leo lên giường nghe đài.
- Này em! - Anh ta gọi giật giọng. Cô ngạc nhiên nhìn lên. - Em ơi. Em là vợ anh.
- Daniel, chuyện quái gở gì vậy?
- Chúng nó đang chế nhạo tao kia kìa. Đấy mới là chuyện quái gở. Chúng nó bảo rằng: “Ha ha. Thằng Daniel ngu đần. Mày có một con vợ nhưng mày không dám động đến nó. Ha ha.”
Gã kéo tuột cô vào lòng và áp môi hẳn vào môi cô. Cô cố gắng đẩy gã ra.
- Chúng ta không phải là vợ chồng. - Cô hét lên.
- Chúng nó đang chế nhạo tao. - Gã nhắc lại và xé toạc vai áo cô. Cô giữ chặt lấy và cố gắng vùng ra. Daniel như nổi điên. Gã ngáng chân cô và cả hai cùng ngã nhào xuống sàn. Cặp môi gã trễ ra, lưỡi gã chạm vào môi cô. Dùng sức nặng toàn thân đè cô xuống, gã vật cô trên sàn nhà. Cô sợ chết giấc khiến gã cũng hơi run.
Căn phòng quay cuồng và trở nên mờ mịt. Daniel vẫn nằm thượt vừa chửi rủa vừa co chân đạp cô túi bụi. Đột nhiên gã nhổm dậy và chạy ra khỏi nhà.
- Ngày mai, ngày mai tao có thể, tao có thể, ha ha ha! - Gã gào lên ngớ ngẩn đến tội nghiệp.
Julie lật sấp người và nôn thốc nôn tháo. Cô gắng gượng đứng dậy. Cô lẩm nhẩm:
- Khi sợ hãi hãy thay đổi những gì con đang làm bởi con đang làm sai việc gì đó.
Cô với lấy chiếc quần tất màu đỏ để trong một cái hòm trên giá, mặc vội một cái áo sơ mi khá ấm rồi khoác thêm chiếc áo parka hôm cưới cùng chiếc quần dài. Sau đó cô mở hòm để dưới gầm giường và chọn lấy một cặp tất đen rất ấm. Xỏ chân vào ủng, cô thắt chặt dây giày. Cái túi khoác cũ của Daniel để ngay dưới giường gã. Cô với lấy mở một chiếc hộp bằng bìa cứng để cạnh bếp lò và lôi ra con dao chuyên dụng của nam giới cùng con dao ulo mà cô mang từ Nunivak tới. Cô bốc một nắm diêm gỗ và bỏ tất cả các thứ vào một chiếc nồi nhôm rất kín.
Cô mở cửa và bình tĩnh băng mình trong bóng đêm để tới nhà Pearl. Len lén vượt qua phòng các anh chị em và bố mẹ Pearl đang say ngủ, cô rón rén vào phòng cô ấy.
- Pearl ơi, tớ đi đây. - Julie thì thào.
Pearl tỉnh giấc ngay tức khắc:
- Lại vì Daniel hả?
Julie gật đầu:
- Hắn ngu ngốc quá. Người ta trêu chọc hắn.
Pearl tụt khỏi giường và cả hai rón rén đi vào bếp. Pearl khép chặt cửa lại rồi mới ngồi xuống.
- Cậu định đi đâu?
- Tớ chưa nói cho cậu được. Nếu không người ta sẽ quấy rầy cậu. Tớ cần có đồ ăn.
Pearl ngước nhìn mấy cái giá phía trên bếp lò và đẩy một cái thùng lại gần đó để kê chỗ đứng; cô ấy lấy xuống nào bánh mì, pho mát, nào hoa quả khô, thịt ướp và cả một bịch yến mạch với đường.
- Đủ rồi đấy. - Julie trả lời. - Tớ chỉ cần đủ dùng trong một tuần thôi. Nhưng tớ cần mượn một cái túi ngủ bằng da và một tấm đệm. Khi nào đến nơi đã định tớ sẽ gửi trả lại.
Pearl lần xuống kho chứa đồ rồi trở lại mang theo một cái túi ngủ và một tấm da.
- Những thứ này là quà cưới đấy. - Cô ấy mỉm cười. - Cậu có thể giữ lấy. Không ai dùng những thứ đồ cổ này ở đây đâu.
- À, còn mấy cây kim nữa. - Julie nói. - Thế là đủ rồi đấy.
Nhét túi ngủ vào hành lý, cô buộc chắc tấm da tuần lộc xuống bên dưới rồi xốc hành trang lên vai.
- Cậu có chắc rằng cậu sẽ ổn cả không? - Pearl hỏi.
- Cha tớ là một thợ săn lão luyện. Ông đã dạy tớ nhiều điều. Nếu Nusan hỏi tớ đi đâu, cậu cứ nói thấy tớ đi bộ trên mặt băng. Bà ấy sẽ không mất thời gian tìm tớ đâu.
Julie thổn thức vòng tay ôm choàng lấy Pearl rồi vội vã đi nhanh ra cửa và nhẹ nhàng khép lại. Cô đi ra phía bờ biển, leo lên một tảng băng và nhìn lại sau. Ngoài phố không có ai trừ một vị khách du lịch đang mải mê chụp cảnh mặt trời. Ông ta quay lưng lại phía cô. Julie hụp đầu xuống dưới tảng băng rồi bò lần lần cho tới khi ra khỏi làng và chắc chắn đã thoát khỏi tầm nhìn kể cả của những người đứng trên nóc nhà cao nhất Barrow. Sau đó, cô đứng thẳng dậy và nhìn ra khơi xa.
- Từ nay ta không còn là Julie nữa. - Cô nói. - Giờ ta là Miyax.
Cô nhanh nhẹn nhảy lên bờ và tiến sâu vào lãnh nguyên. Cô sải chân bước mỗi lúc một nhanh vì cô đang trên đường tới San Francisco.