← Quay lại trang sách

Phần III KAPUGEN - NGƯỜI THỢ SĂN

CHUỖI KÝ ỨC VỤT BIẾN MẤT. Gió rít ù ù. Tay Miyax quờ phải mấy cây địa y mọc trên đỉnh ụ tuyết của cô.

- Amaroq! - Cô lại cất tiếng gọi rồi chạy băng xuống dốc và leo lên khu vực hang sói. Nơi này hoàn toàn im ắng và thật ma quái; khoảng trống bọn sói non vẫn nô đùa giờ vương vãi những khúc xương trắng hếu trông như những tấm bia mộ trong nghĩa địa.

Cô cúi nhặt một khúc và nhận thấy nó chi chít những vết răng sói non. Chỉ cần đẽo gọt thêm chút ít là có thể biến nó thành một cái lược mà cô đang rất cần. Liếc nhìn xung quanh, cô phát hiện một đoạn gạc hươu trông giống chiếc dùi cui.

- A ha, một thứ vũ khí. - Cô nói. - Mình có thể sẽ cần thứ này đây.

Một con cú tuyết bay vụt qua, đầu ngó ngoáy nhìn cô một cách tò mò.

- Tao sẽ gặp lại mày ở San Francisco. - Cô nói với theo nó. Nó ngước mắt nhìn về đích đến xa xăm, lặng lẽ đập cánh lướt về phương nam, hắt bóng in dài trên nền đất.

Gió xoắn lấy một lọn tóc của cô, đứng trên quả đồi có hang sói cô vẫn như cảm thấy sự hiện diện của những con vật đã cùng sống với cô: Amaroq, Móng Vuốt, Ánh Bạc, Kapu. Cô bâng khuâng không biết có còn được gặp lại chúng không. Gió giật từng cơn; cô chậm chạp quay trở lại nhà, ngón tay cô lướt qua những ngọn lách nhưng tâm trí vẫn miên man với việc ra đi của mình. Lên đến đỉnh trảng tuyết của mình, cô đứng sững như hóa đá. Ngôi nhà của cô tan hoang, cái túi ngủ bị xé nát, vương vãi trên cỏ. Số thịt cô để trên cỏ đã biến mất. Cái hầm tuyết cũng mở toang và trống rỗng.

- Ayi! - Cô kêu lên. - Thức ăn của tôi! Cuộc sống của tôi! Tôi chết mất thôi!

Trong khi chạy nháo nhác từ chỗ ngôi nhà tan hoang tới chỗ cái nồi nấu rồi lại ra hầm băng, cô cảm thấy một nỗi ghê rợn ớn lên dọc sống lưng, buốt ra tận hai bàn tay và lan khắp người. Kẻ nào đã gây ra chuyện này? Con thú hoang dại nào đã cướp sạch thức ăn của cô? Cô tuyệt vọng nhìn quanh và phát hiện ra Thạch Đông vẻ hung hăng đang nấp trong một khóm lau ngay sát cô. Đuôi nó ngoe nguẩy chầm chậm, tai chĩa ra phía trước. Cô hiểu ngay tín hiệu nó đưa ra và bước lùi lại. Sau đó cô nhớ ra rằng làm thế là sai lầm, cô không được phép nhượng bộ. Tay nắm chắc đoạn gạc hươu khua lên, miệng gầm gừ, cô nhào thẳng tới nó và quật mạnh vào chóp mũi nó. Nó mở choàng mắt, tai và người nhủn xuống, đuôi cụp giữa hai chân sau. Nó nằm ẹp xuống, cố gắng lấy lòng cô, đầu gục xuống khuất phục.

Tuyệt vọng và giận dữ, cô đâm mạnh vào người nó. Thạch Đông lăn kềnh phơi ra lớp lông trắng xóa của kẻ chiến bại. Cô dừng tay; cô không thể đánh một kẻ hèn nhát.

- Thạch Đông! - Cô hét lên. - Tại sao? Tại sao mày làm vậy?

Vừa dùng đoạn gạc dọa nó, cô vừa quan sát đống đổ nát của ngôi nhà và bới tìm. Tất cả số thức ăn trong hầm và trên mặt đất đều hết sạch, hành lý của cô cũng không thấy đâu. Huơ vũ khí lên, miệng gầm gừ dọa Thạch Đông, cô lùi dần về phía căn nhà cỏ, lấy chân đá hất những thứ đổ nát lên và tìm thấy hành lý ở bên dưới mái nhà sụp. Nó còn nguyên vẹn. Thạch Đông không tìm thấy thịt trong đó. Trí nhớ cô vụt đến. Cô còn rất ít thức ăn nhưng Kapu đã báo cho cô biết mùa lữ thử đang đến. Cô có thể kiếm được thức ăn.

- Guarl… - Cô hét lên giận dữ và quật khúc gạc xuống người Thạch Đông. Nó lăn lông lốc rồi đứng bật dậy, đuôi cụp giữa hai chân sau và cắm đầu chạy biến trong bóng chiều chạng vạng.

Khi nó đã chạy khuất, cô đứng thừ ra một lúc lâu. Cuối cùng, cô nhặt túi ngủ lên và xé lấy một mảnh từ tấm da mới. Cô lấy kim khâu ra rồi ngồi duỗi thẳng hai chân đúng tư thế truyền thống của phụ nữ Eskimo và bắt đầu khâu.

Một con lữ thử chạy vụt qua một khóm địa y. Cô dừng tay ngắm nhìn con vật nhỏ bé ngậm đầy mồm cỏ chạy về chiếc tổ tròn vo của nó. Mắt cô chợt nhận thấy có gì đó động đậy, cô liếc thấy một con chồn bé xíu đang liếm bụng bên sườn một gò đất nhỏ. Lớp lông trắng mới mọc loang lổ trên người nó. Nó đã làm xong công việc vệ sinh cá nhân và vừa ngồi xuống, nó đã biến mất dưới một đám rêu lông tuần lộc. Mày bé quá - cô nói và mỉm cười. Một chu kỳ mới đang bắt đầu. Những loài thú săn lữ thử cũng đang quay về.

Miyax cất kim khâu, cuộn chặt tấm đệm và buộc chắc xuống dưới hành lý. Sau đó, cô kiểm tra lại cái nồi, túi ngủ, con dao ulo, con dao của đàn ông, những khúc xương và mấy bông hoa. Cô gói ghém tất cả lại, buộc một sợi dây vào tấm da tuần lộc mới để dễ kéo lê theo sau rồi nhằm theo hướng mũi tên đã xếp, đi tới một trảng tuyết phía xa.

- Đã đến lúc lên đường rồi. - Cô nói và cất bước, không ngoái nhìn lại.

Đi được khá lâu cô mới mở hành lý, trải mấy tấm da xuống và lấy ra một xâu thịt sấy. Bỗng nhiên có tiếng một con thỏ rừng chân trắng kêu ré lên một cách tuyệt vọng, Miyax vội vớ lấy đoạn gạc và phóng tới chỗ con thỏ để cứu nó thoát khỏi nguy hiểm. Chạy vòng qua một bụi cỏ rậm, cô bắt gặp một con chồn gulo dữ tợn, chúa tể họ nhà chồn Bắc Cực. Nó lừ đừ nghếch đầu lên.

Loài chồn gulo vóc người thấp, chân trước rất khỏe và to ngang tay người lớn. Nó nhìn thẳng vào mặt cô chẳng có vẻ gì sợ sệt.

- Xùy… - Cô nhảy lại gần nó.

Nó bỏ con thỏ lại và lao thẳng vào cô. Cô nhảy lùi lại và giơ cao đoạn gạc lên. Nó nhanh nhẹn nhảy né sang bên, gầm gừ rồi quay lại và lững thững bỏ đi. Cô cẩn thận ẵm con thỏ lên và quay về chỗ nghỉ chân, vẻ dạn dĩ của con chồn khiến cô không khỏi lo ngại. Đặt vội con thỏ lên tấm da tuần lộc cô kéo theo phòng khi cần dùng đến, cô lập tức lên đường.

Một con nhạn biển bay qua. Cô rút sợi dây gân, đưa tay hướng theo đường chim bay và vừa tiếp tục rảo bước về phía Mũi Hy Vọng vừa hát vang.

Trời về chiều, những đám mây sẫm dần, trông hình thù như những con gấu. Thế này là lại sắp có một đợt tuyết rơi đây. Cô dùng con dao của đàn ông đào một cái hốc bên sườn một ụ tuyết rồi cuộn tấm đệm thành một cái bao và nhét nó vào trong hốc. Bằng đôi tay khéo léo, cô luồn túi ngủ vào trong bao rồi cởi quần áo ngoài. Lớp lông thú bao bọc lấy cô; khi ngón chân ngón tay đều đã đủ ấm, cô thận trọng nhìn ra ngoài. Bầu trời đen kịt, những đám mây như hạ thấp, gió thổi ù ù như tiếng một con hươu đực đang nổi điên. Chưa đầy một phút sau, cô đã chẳng nhìn thấy gì ngoài lớp lông thú lòa xòa quanh mặt cô. Tuyết bắt đầu rơi.

Cuộn tròn trong mấy tấm da như một con thú nằm trong ổ, Miyax vơ vẩn nghĩ đến Amaroq và Kapu. Liệu lúc này chúng đang cuộn tròn như những quả bóng bông hay đang hào hứng băng mình trong cơn bão đông đầu tiên, lần theo mùi hơi để săn mồi?

Khi cô thức giấc thì mặt trời đã ló rạng, bầu trời quang đãng trên lãnh nguyên phủ một lớp tuyết mỏng đủ để tạo ra quang cảnh mùa đông. Tuy nhiên, cô chưa kịp mặc quần áo thì những tinh thể long lanh đó đã tan ra chỉ trừ sườn phía bắc của các con dốc; điều đó dự báo có chuyện gì đó sắp xảy ra.

Miyax đưa tay gạt một sợi tóc vương rồi nhìn quanh. Có kẻ nào đó đang nhìn cô thì phải, chạy lên đỉnh một quả đồi thấp, cô quét tầm mắt nhìn khắp khoảng trống mênh mông. Có khoảng chục con tuần lộc khỏe mạnh gặm cỏ phía xa, lớp lông cổ trắng phau của chúng bắt nắng ánh lên; ngoài ra chẳng còn gì cả. Cô tự cười giễu mình rồi quay về trại lấy một miếng thịt sấy ăn. Cuộn gọn mấy tấm da lại rồi xốc hành lý lên vai, cô đi tới chỗ tấm da tuần lộc nhặt sợi dây kéo lên. Tấm da trơ trọi. Có kẻ nào đó đã bắt mất con thỏ của cô hồi đêm. Chắc là một con chồn gulo, cô nghĩ vậy, nhưng không hề có dấu chân để xem tên trộm đã đi về hướng nào.

Cô quay nhìn xung quanh. Cô lại có cảm giác hình như đang bị ai đó theo dõi. Vẫn không thấy gì, chỉ có một đàn nhạn biển khá đông bay trên trời. Dùng sợi dây gân xác định phương hướng và sắp xếp hành lý xong, cô kéo mạnh tấm da rồi lên đường đi tiếp.

Cả ngày, liên tục có chim di cư bay qua. Cô cứ thế nhắm thẳng hướng biển mà đi vì các hố nước đều đã đóng băng và cô có thể theo la bàn riêng của mình mà không chệch đường.

Khi lại có cảm giác đang bị theo dõi một cách dai dẳng, cô bắt đầu thấy hoang mang và lo rằng mình có thể hóa điên trước cái cảnh hoang liêu vô tận này như biết bao người da trắng từng bị vậy. Để trấn an tinh thần, cô cất vang tiếng hát trong khi đi thu gom phân tuần lộc bỏ vào túi:

Amaroq, sói, bạn ta,

Hơn thế, một người cha

Vì người, chân ta chạy

Vì người, tim ta rung

Và vì người, ta yêu.

Chiều hôm đó, cô dừng chân rất sớm, nhóm một đống lửa lớn và hâm thịt, có cho thêm một chút địa y ngọt hái trên lãnh nguyên. Trong khi nồi thịt sôi lim dim, phì ra những làn hơi trông như bóng ma màu xám thì cô lấy kim khâu ra xâu chỉ và vá lại một lỗ thủng trên chiếc găng cũ.

Mặt đất bỗng rung bần bật. Cô liếc nhìn lên và thấy hai con tuần lộc to nhất mà mắt cô từng thấy. Căn cứ vào những cặp sừng trên đầu chúng, cô có thể khẳng định chúng là tuần lộc đực vì sừng con cái thường ngắn hơn và thanh mảnh hơn. Khi hai con thú chạy sóng đôi, ánh lân tinh lập lòe trên chót sừng chúng báo cho cô biết giờ đã là mùa sinh sản của tuần lộc. Khi lớp lông phủ chóp sừng trong mùa hè bị chọc thủng, những cặp sừng đâm thêm nhánh và phát sáng nhờ nhờ, mùa giao phối bắt đầu - đó cũng là mùa của những tiếng gào rống và những trận chiến ngắn.

Đột nhiên con đực chạy trước đảo vòng tròn và lao thẳng vào con kia. Cả hai cùng ghìm thấp đầu và những cặp sừng va vào nhau phát ra một tiếng kêu chát chúa như tiếng súng nổ. Không con nào bị thương cả. Chúng lúc lắc đầu rồi lùi lại, giật sừng ra và rống lên ồ ồ. Lại một cú va chạm nảy lửa nữa, móng chân cả hai cày sâu xuống đất nhưng sau đó chúng cùng nhau bỏ đi một cách hòa bình. Miyax băn khoăn không hiểu chúng đánh nhau vì cái gì bởi chẳng hề thấy bóng dáng con tuần lộc cái nào. Tất cả vẻ hiên ngang vạm vỡ và sức quyến rũ dường như đều biến mất khỏi bãi cỏ và không trung.

Tuy nhiên, ăn xong, cô lập tức vác hành lý, kéo cuộn da cồng kềnh và tiếp tục đi vì những con thú hung hăng vừa rồi đã báo cho cô biết rằng cô đang ở ngay trên lộ trình di chuyển của đàn tuần lộc và cô cũng không muốn hạ trại ở giữa một khu vực giao phối của chúng.

Khi đã đi khá xa đàn súc vật, cô dừng lại bên một ao nước và dọn chỗ ngủ. Cô chưa buồn ngủ lắm nên lấy khúc xương bọn sói non gặm ra rồi kẹp chặt con dao ulo bằng đầu gối và hì hục đẽo răng lược.

Đêm đó, khi mặt trời xuống thấp, bóng tối màu lam và tía cam phủ trên mặt đất, Miyax chui vào túi ngủ; cô biết rằng ngày đang ngắn dần. Cô cảm thấy thao thức như những con chim và các loài thú; nửa đêm cô thức giấc, chăm chăm nhìn lên bầu trời. Một ngôi sao lấp lánh trên bầu trời sáng nhờ nhờ - vậy là đã đến ngày đầu năm! Cô mỉm cười, nhỏm dậy ngồi bó gối.

Ngôi sao phương Bắc, dấu hiệu chỉ đường của tổ tiên cô, sắp hiện ra và sẽ dẫn đường cho cô khi các loài chim đã bay hết về phương Nam.

Xa xa, văng vẳng tiếng một con sói sủa rồi lại có tiếng con khác. Tiếng sủa đầu nghe như một câu hỏi: “Cậu ở đâu và đang làm gì đấy?” Câu trả lời “Tôi ở đây” rất trịnh trọng. Tuy nhiên, tiếng gọi kế tiếp có vẻ bồn chồn. Hình như con sói đang báo hiệu rằng có gì đó rất nguy hiểm trong không trung. Miyax nhìn quanh để xem đó là gì. Sau đó con sói thay đổi đề tài và cất lên một tiếng hú vui vẻ. Khi có tiếng những con khác hòa theo thì cô nhận ra đó là bài ca săn mồi của đàn sói thân quen. Giọng khỏe khoắn của Amaroq vút cao rồi lắng dịu như tiếng violon, kế đó là chất giọng như tiếng tiêu của Ánh Bạc. Giọng của Móng Vuốt vút lên, không khỏe bằng giọng Amaroq, đem lại biến tấu của giai điệu chính. Đúng rồi, những con sói con cũng đang hát theo, giọng chúng nghe rất chững chạc. Kapu góp thêm tiếng sủa như cười vui.

Cô cố lắng nghe xem có tiếng Thạch Đông ở phía trước không. Không có tiếng nó. Bản hợp xướng đột ngột kết thúc, trong ánh sáng lờ mờ có thêm những âm thanh khác. Tiếng một con lữ thử kêu thê thảm tuyệt vọng trước khi chết, tiếng một đàn vịt biển di trú báo hiệu vị trí cho nhau.

Đột nhiên, có cái gì đó chuyển động. Cô nhìn ra khỏi chỗ nằm và chộp lấy một đoạn gạc. Cỏ sột soạt phía sau cô, cô nhìn quanh cảnh giác. Những bụi lách nhấp nhô như nói rằng đó chỉ là tiếng gió đùa.

- Ayi! - Cô bực bội vì những nỗi sợ hãi vô lý.

Cô co chân đá một hòn đá như cố thay đổi cái gì đó vì cô vẫn chưa thay đổi được những gì cô đang làm như lời cha Kapugen khuyên. Cảm thấy dễ chịu hơn, cô lầm lũi trở lại chỗ ngủ. Cô tự nhủ:

- Mình đoán ra rồi. Tại mặt trời mọc lâu quá nên mình quên hết những âm thanh của đêm.

Trong khi nằm chờ ngủ lại, cô nghe thấy tiếng gió vùng cực rít lên và tiếng cỏ khô than vãn như giọng bà còng.

- Thạch Đông! - Cô thét lên và ngồi bật dậy.

Nó gần như ở sát cạnh cô, nó nhe răng gầm gừ. Sau đó, nó ngoạm lấy hành lý của cô và chạy biến. Cô nhảy ra khỏi ổ và đuổi riết theo nó vì tất cả cuộc sống của cô đều nằm trong hành lý đó - thức ăn này, kim khâu này, dao này và cả đôi ủng nữa. Thân thể trần như nhộng của cô lạnh run vì gió, cô dừng lại để suy tính. Cô phải hành động sao cho thật thông minh. Cô phải nghĩ kỹ! Quần áo của cô, quần áo của cô ở đâu nhỉ? Chúng cũng biến mất rồi. Không, cô nhớ rõ chúng vẫn còn nguyên trong chiếc túi bong bóng để dưới tấm da tuần lộc.

Cô nhanh chóng lôi cả ra rồi ấp lên ngực nhưng cũng không dễ chịu mấy. Thiếu ủng cô sẽ không thể đi đâu được mà cũng không thể khâu một đôi mới. Kim khâu và dao ulo của cô, những công cụ để cô tồn tại được, đều ở cả trong hành lý. Rùng mình, cô chui vào ổ và khóc nức nở. Một giọt nước mắt rơi xuống cỏ và đông cứng ngay.

- Đây là ngôi mộ đá của mình mất.

Cô nằm thừ ra suy ngẫm xem bao lâu nữa thì sự sống sẽ rời khỏi cơ thể cô.

Khi cô mở mắt ra thì trời đã sáng và ánh nắng ấm áp trên mặt đất khiến cô vững tin. Nếu cần cô có thể ăn tấm da tuần lộc. Lật sấp người xuống, cô ngửi thấy mùi gì đó ngọt dịu và nhận ra đó là mùi nước tiểu sói. Nó ở ngay bên mép túi của cô và vẫn còn rất mới dù đã bị đông cứng lại. Suốt đêm qua đã có ai đó đến thăm cô. Không thể là Thạch Đông được vì mùi này không có vị đắng của một con sói đang nổi điên và lẻ loi. Hơn nữa, nó rải rác chứ không tụ dồn một nơi như khi bày tỏ thái độ thù địch. Chắc chắn đó là của Amaroq. Cô đánh hơi lần nữa nhưng mũi cô không đủ nhạy cảm để nhận biết thêm những thông điệp khác thông qua chỗ nước tiểu mang ý nghĩ “mọi việc đều ổn cả”. Nhưng màu sắc và mùi dễ chịu của nó tạo cho cô cảm giác an tâm; cô mỉm cười nhìn mặt trời, mặc quần áo và nghĩ đến việc khâu ủng mới.

Quấn tấm da quanh một chân và chiếc túi ngủ quanh chân kia, cô vụng về đi lần quanh các bụi cỏ theo một đường tròn càng ngày càng rộng ra với hy vọng rằng Thạch Đông sẽ bỏ lại hành lý sau khi đã ăn hết chỗ thức ăn. Cô không bận tâm lắm đến số thức ăn. Con dao ulo, kim khâu và diêm là những thứ quan trọng cần tìm hơn. Có những thứ đó, cô có thể làm được giày, săn được mồi và nấu ăn. Cô lấy làm lạ rằng mấy thứ giản dị đó lại có giá trị, đẹp đẽ và quý giá làm sao. Có những thứ đó, cô có thể dựng được nhà ở, làm chạn đựng đồ ăn, xe trượt và cả quần áo. Không khí lạnh cũng quý giá không kém. Có nó, giống như cha mình, cô có thể làm đông cứng da, những sợi gân để làm thành những chiếc xe trượt, những ngọn giáo và loa. Nếu cô tìm được con dao ulo và những cái kim khâu thì cô sẽ không bao giờ chết trên mảnh đất này.

Trong khi cẩn thận tìm kiếm, cô bắt đầu nghĩ đến trại hải cẩu. Những người Eskimo cao tuổi cũng là những nhà khoa học. Bằng việc sử dụng các loài thực vật, động vật và nhiệt độ, họ đã biến Bắc Cực khắc nghiệt thành một ngôi nhà, quả là một kỳ tích phi thường như việc phóng tàu vũ trụ lên mặt trăng vậy. Cô mỉm cười. Những người ở trại hải cẩu không hề lỗi thời và lạc hậu như người ta vẫn cố làm cho cô tin vậy. Không, ngược lại, họ rất uyên bác. Họ chế ngự thiên nhiên để thay cho những công cụ nhân tạo.

- Ayi! - Cô kêu thất thanh. Bên cạnh một gò đất nhỏ là Thạch Đông nằm còng queo, người nó bê bết máu vì bị cắn xé, mặt nó biến dạng. Hành lý của cô để ngay cạnh nó.

Cô hiểu ngay chuyện gì đã xảy ra. Amaroq đã hạ sát nó. Có lần cha Kapugen đã kể với cô rằng có những con sói tha thứ cho một con sói cô độc cho tới khi con này ăn trộm thịt dành cho sói non. Với tội đó, con đầu đàn sẽ ra hiệu cho cả đàn cùng truy đuổi và xé xác con sói kia. Ông nói rằng: “Trong xã hội sói, không có chỗ dành cho một thành viên không biết đóng góp gì.”

Thạch Đông đã bị đe dọa đến mức nó thành vô dụng. Và giờ đây nó đã chết.

Cô chậm rãi mở hành lý ra. Thức ăn hết sạch nhưng kim khâu, con dao ulo và đôi ủng thì vẫn nằm nguyên trong những bọc cô đã cất chúng. Đối với Miyax lúc này, chúng còn tuyệt vời hơn cả máy bay, tàu biển và những cây cầu khổng lồ. Đi giày xong, cô kiểm tra lại con dao đàn ông và số diêm, chúng cũng còn nguyên vẹn. Sự sống lại trở lại với cô. Xốc hành lý lên vai, cô bê một tảng đá đè lên đầu Thạch Đông rồi quay đi. Cô nói:

- Mày từng là một con sói tài giỏi. Nhưng Thạch Đông hèn nhát thì không.

Cô bỏ nó lại cho lũ diều hâu và cáo. Cô vừa đi vừa hát:

Amaroq, sói, bạn ta

Hơn thế, một người cha.

Giờ đây việc đi tới Mũi Hy Vọng dường như không còn quan trọng nữa vì cô đã thực sự hiểu được giá trị của con dao ulo và những cái kim khâu. Nếu cô có nhỡ chuyến tàu, cô vẫn có thể sống yên ổn cho tới năm sau. Giọng hát của cô vang lên lanh lảnh, tràn trề hạnh phúc trong khi cô nhắm theo những cánh chim và chiếc la bàn của mình.

Một buổi chiều, cô bỗng cảm thấy cô đơn trong khi đi tìm chỗ nghỉ chân. Để cho khuây khỏa, cô cố nghĩ đến quả đồi ở San Fancisco nơi có ngôi nhà quét vôi trắng. Khi hình ảnh đó hiện ra thực đến mức như chạm tay vào được và cực kỳ lộng lẫy thì nó bỗng vụt biến mất; cảnh lãnh nguyên còn lộng lẫy hơn nhiều - một màu vàng lấp lánh với những bóng râm màu tía và lam. Những đám mây màu vàng chanh lướt trên nền trời màu xanh lục; những khóm lách bị gió thổi xào xạc tạo thành một dòng bạc rực rỡ.

Ôi chao! - Cô thốt lên kinh ngạc và đứng sững tại vị trí cô vừa nhìn thấy quả đất với muôn vàn sắc màu. Hành lý của cô tuột xuống, rơi trên nền đất đông cứng phát ra tiếng kêu khô khan gợi cho cô nhớ rằng mùa thu đã tàn. Mùa thu rất ngắn; những cánh chim bay qua chớp nhoáng, những đàn chim thú di cư trong tiếng kêu ồn ào. Tất cả chỉ có vậy. Giờ đã sang đông và đỉnh Trái đất đã cứng đanh lại. Không phải là biển xanh vỗ bờ như ở Barrow, thay vào đó, Bắc Băng Dương biến thành một chảo nước trắng xóa gầm thét đêm ngày, tạo ra những núi băng nối liền đất liền với mũi vùng cực.

Cô không thấy sợ nữa. Vừa hát vang bài hát ca ngợi Amaroq, cô vừa gom cỏ và vấn thành cuộn dài. Cô khéo léo đục thủng một lỗ hổng trên lớp băng phủ kín mặt hồ nước rồi đem nhúng các cuộn cỏ xuống và quăng ra ngoài trời để chúng đông cứng lại. Chỉ mấy giờ sau, đã nghe thấy tiếng lách tách từ những “cọc” băng đá. Cô cắt tấm da kéo theo thành hai mảnh rồi luồn mấy cái cọc xuống dưới một mảnh và dựng thành một chiếc lều.

Ngồi trong lều, cô cắt một sợi dây da dài và buộc thành một cái bẫy thòng lọng. Có một lối đi của loài thỏ chân trắng chạy men theo bờ hồ nên cô nhất định tìm cho ra chỗ trú ẩn của con vật đã tạo ra lối đi đó. Trời lạnh cắt thịt, cô phà hơi vào riềm trang trí làm bằng lông chồn gulo chiếc áo parka cô đang mặc. Hơi ấm sẽ đọng lại đó và giữ ấm khuôn mặt cô.

Amaroq cất tiếng hú gọi, cô hú đáp lại nhưng không phải để nói với nó rằng cô cần thức ăn như lần trước mà chỉ báo cho nó biết cô đang ở đâu.

Một con lữ thử lao vụt ra từ một bụi cỏ gần chân cô, cô bèn đi quanh tìm tổ nó và lũ con non. Không thấy gì cả; vừa quay lại cô thấy cáo đang vồ đuổi con lữ thử. Cô bật cười, tự nhủ cần phải nhanh hơn rồi thận trọng lần theo lối đi của con thỏ. Cuối cùng cô tới một chỗ lõm hình lòng chảo trên mặt đất - đúng là một chỗ trú ẩn của động vật. Chắc chắn con thỏ thường trốn kẻ thù hoặc ngủ ở đây khi không phải đi kiếm mồi. Cô căng bẫy, lấy một chiếc cọc băng kênh nó lên rồi rải sợi dây da đủ dài ra khỏi tầm nhìn của con mồi.

Cô nằm ép xuống đất, chăm chú theo dõi chỗ đặt bẫy. Nhiều phút rồi nhiều giờ trôi qua, bóng chiều sắc hồng và lục đã nhuộm kín bình nguyên băng giá. Đột nhiên con thỏ xuất hiện, tai cụp ra sau, bốn chân như lướt trên lối đi quen thuộc. Nó chạy vòng rất nhanh rồi chui tọt xuống một cái hốc trong lòng chảo. Miyax giật mạnh, bẫy thít lấy chân trái sau của con mồi. Cô nhanh chóng giết thịt nó và chạy về trại.

Có tiếng cỏ loạt soạt, cô nhìn quanh: “Kapu!”

Nó chạy lon ton theo lối đi của con thỏ, miệng ngậm một cái đùi tuần lộc. Đầu nó lắc lư vì nó cố gắng chịu đựng sức nặng của súc thịt.

- Kapu! - Cô nhắc lại. Nó ve vẩy đuôi, xốc lại chỗ thịt và lon ton chạy lại chỗ cô. Nó thả súc thịt xuống chân cô. Cô nhảy nhót để nói với nó bằng ngôn ngữ của loài sói rằng cô rất vui được gặp nó. Nó đáp lại bằng cách nhảy quanh cô theo một đường tròn nhỏ, sau đó là ba đường tròn lớn. Cuối cùng nó dừng lại, ve vẩy đuôi.

- Thứ này dành cho chị hả? - Cô hỏi và chỉ vào cái đùi tuần lộc. Nó dùng chân trước cào cào nền đất, lăn kềnh ra rồi lại cào xuống đất. Cô vui vẻ đi lại chỗ để hành lý, lục tìm một đoạn dây da và dứ dứ về phía nó. Kapu chộp ngay lấy, giằng mạnh đến mức cô tuột tay ngã ngửa. Nó vểnh đuôi, phóng chạy vùn vụt qua các khóm địa y rồi vòng trở lại. Nó đung đưa sợi dây da trước mặt cô như thách cô lấy lại được.

- Giờ thì với chị, cưng khỏe quá rồi, - cô nói và chậm rãi đứng lên. - Chị không thể chơi đùa với cưng được nữa rồi.

Nó vung vẩy sợi dây, nhảy quẫng lên, sủa vang rồi chạy vụt ra lãnh nguyên cho tới khi chỉ còn là một chấm nhỏ phía xa.

Miyax cười và kéo cái đùi tuần lộc về lều. Cô cắt thành từng miếng rồi nhóm một đống lửa nhỏ. Cô lột da con thỏ, giữ lấy bộ da để khâu chiếc găng mới.

Trong khi hầm thịt, băng nứt vỡ lách tách khiến cô muốn nhảy nhót. Cô bước ra khoảng trống mênh mông như một sân khấu và cúi chào khán giả vô hình của mình. Uốn cong hai bàn tay, hơi khuỵu gối, cô co chân nhảy lò cò. Sau đó cô nhón chân, kiễng người lên, biểu diễn nhuần nhuyễn, hoàn hảo những động tác kết hợp mà bà còng vẫn nhảy ở trại hải cẩu trước đây. Tuy nhiên, khi nhảy lại cô không thực hiện những vũ điệu của bọn ma quỷ như lệ thường mà tự mình ứng tác bởi người Eskimo rất giỏi chuyện này. Cô thể hiện một câu chuyện nói về con sói mới lớn mang thịt tới nuôi một cô gái bị lạc rồi kết thúc màn trình diễn bằng động tác nhảy bắt chước Kapu. Cô vui vẻ đi tới một chỗ ngồi nghỉ. Cô đã thấy ấm người. Máu trong người cô nóng ran.

- Eelie, - cô thầm nghĩ. - Những phong tục lâu đời của người Eskimo không hề ngớ ngẩn, tất cả đều có ý nghĩa. Mình thấy ấm như nằm giữa tổ lữ thử vậy.

Khi trời sụp tối, Kapu quay trở lại. Nó khe khẽ sủa.

- Chị biết em muốn gì rồi, - cô nói, chìa cho nó một miếng thịt hầm rõ to.

Kapu ngoạm miếng thịt ngay trên tay cô khéo đến mức cô không cảm thấy răng nó chạm vào các ngón tay. Nhìn nó khuất dần trong bóng đêm, cô ngước mắt lên bầu trời. Trên đó, lấp lánh phía xa là Ngôi sao phương Bắc, ngọn đèn vĩnh cửu đã soi đường chỉ lối cho người Eskimo hàng ngàn năm rồi. Cô cất tiếng hát:

Ngôi sao sáng, vẫn ngôi sao kia

Sẽ dẫn ta ra tới biển khơi…

Cô khẩn trương cắt nửa tấm da tuần lộc còn lại thành bốn dải dài và một miếng tròn. Đập thủng một lỗ trên mặt hồ đóng băng, cô buộc thêm đá vào mấy miếng da cho nặng rồi thả tất cả xuống nước.

Khoảng nửa đêm, cô tỉnh giấc nằm nghe tiếng đàn sói như đang trò chuyện với nhau ở phía xa - Có lẽ chúng đang bày tỏ lòng kính trọng đối với Amaroq, cô nghĩ vậy. Nhìn ra ngoài lều, cô thấy ngôi sao đã lặn mất. Một bông tuyết lạnh bay vào mũi cô, tan ra, chảy xuống tấm da rồi đông lại ngay. Gió thổi dữ dội, đàn sói hú gọi nhau vẻ thích thú, Miyax rúc sâu vào những tấm da. Trời cứ việc đổ tuyết đi. Kapu biết trước điều đó nên đã mang thức ăn tới cho cô.

Cô ngủ một mạch đến xế chiều; với đôi mắt vẫn còn ngái ngủ, cô nhận thấy ngoài trời vẫn đang có tuyết rơi và giờ đang là thời gian của cuộc sống hoang dã vì trong màn tuyết trắng đã thấy bóng những con chồn, cáo đi săn mồi. Đêm đó trời quang và đến tận sáng cô mới chui ra khỏi ổ. Lãnh nguyên toàn một màu trắng xóa, tuyết sẽ phủ kín Bắc Cực cho tới tận tháng Sáu. Cái lạnh càng thêm cắt da cắt thịt.

Ăn sáng xong, cô lại đập thủng mặt băng, lôi tấm da hình tròn sũng nước lên rồi trải lên nền đất. Cô dùng con dao đàn ông cuốn các mép da lên, giữ cố định cho tới khi nó đông cứng lại. Sau đó cô bước vào lòng nó, dùng chân giậm mạnh để tạo cho nó có hình dáng một cái chậu và khoét thủng hai lỗ ở cùng một phía. Cô luồn mấy sợi dây da qua đó và buộc chặt lại với nhau.

Tiếp đó, cô vớt hai dải da ngâm dưới nước lên và giữ chúng ngay ngắn ở đúng vị trí đáy chậu cho tới khi chúng đông lại tạo thành hình một cái ghế đu bằng phẳng. Cô đứng dậy. Chiếc xe trượt của cô đã hoàn thành.

Để nhanh chóng hoàn tất công việc vì cô chỉ còn vài giờ nữa có ánh sáng ban ngày, cô lấy hai dải da còn lại cuộn thành hai cái đai. Cô cũng để mấy thứ này đông lại. Khi chúng đã đóng băng, cô dùng da sống ướm cho vừa các ngón chân rồi nhét xuống dưới làm đế; vậy là đã có một đôi giày đi trên băng tuyết. Cô đi thử, chúng nứt răng rắc nhưng vẫn giữ cho cô đỡ bị lạnh. Giờ thì cô có thể đi trên mặt băng được rồi.

Cô thái phần đùi tuần lộc còn lại thành những miếng vừa miệng rồi cất cả vào xe trượt. Sau đó, cô đi găng trong bóng tối rồi nhắm theo Ngôi sao phương Bắc lên đường.

Chiếc xe trượt bằng băng của cô kêu lanh canh qua những hồ nước lộng gió hòa với giọng hát của cô. Thời gian càng trôi đi, những ngôi sao càng sáng rõ, lãnh nguyên bắt đầu sáng lên vì băng tuyết phản chiếu ánh sao sáng thêm hàng tỉ lần, làm cho đêm rực một màu bạc. Nhờ ánh sáng này, cô nhìn rõ những dấu chân của đàn sói. Cô bám theo những dấu đó vì đàn sói cũng đi đúng hướng của cô.

Trời gần sáng, những dấu chân sói xích lại gần nhau hơn. Vậy là chúng đi chậm lại để tìm chỗ ngủ. Cô cảm thấy sự hiện diện của chúng ở mọi nơi nhưng không tài nào nhìn thấy chúng. Cô chạy băng lên một hồ nước đóng băng và hú gọi. Có mấy bóng đen thấp thoáng trên đỉnh một trảng tuyết. Chúng kia rồi! Cô sải bước nhanh hơn. Cô sẽ dựng trại cùng chúng và sẽ biểu diễn điệu nhảy về con sói nuôi cô gái bị lạc cho Kapu xem. Bảo đảm nó sẽ nhảy quẫng lên khi xem điệu nhảy đó.

Những bóng đen nhạt dần khi cô bước chậm lại, đến khi cô tới được bờ bên kia thì chúng tan biến hẳn trong không trung. Không hề có dấu chân sói để chứng tỏ bầy đàn của cô vừa ở đây và cô biết rằng bình minh Bắc Cực đã đánh lừa thị giác của cô. Bọn ma tuyết đây mà - cô nói rồi dựng lều bên bờ hồ và chui vào ổ.

Nhờ ánh sáng vàng chanh của mặt trời chính ngọ mọc thấp, Miyax nhận ra cô đã dựng trại kế bên khu vực trú đông của tuần lộc. Phía đường chân trời hiện rõ cả một rừng vô số những cặp sừng lung linh ánh lân tinh của chúng. Một đàn lớn như vậy chắc chắn sẽ tấn công được bầy đàn của cô. Cô chui ra khỏi ổ và nhìn thấy quanh lều cô là một cánh rừng toàn các loại cây chỉ cao vài phân. Tim cô đập tung lên vì từ khi ở Nunivak cô không hề nhìn thấy một cây liễu lùn như thế này. Cô đang đi đúng đường vì loại cây này tuy không mọc gần Barrow nhưng chắc chắn chỉ có ở những vùng đất ấm áp và ẩm ướt hơn gần bờ biển. Cô hít căng không khí với hy vọng sẽ ngửi thấy hơi mặn của đại dương nhưng chỉ thấy hơi lạnh.

Bình minh như khe khẽ hát, tuyết đẹp đến mức chỉ cần một làn gió nhẹ thổi qua là những bông tuyết lại bay tung lên. Không thấy cánh chim nào bay qua. Những con điểu chúc, chim ruồi và nhạn đều đã rời khỏi đỉnh của Trái đất.

Phía sau cô, một con gà gô trắng, loài gà nhỏ bé của lãnh nguyên, vừa khẽ tục tục vừa cắm cúi mổ nhặt hạt cây. Sự hiện diện của cư dân họ chim, loài gà gô trắng quý hiếm này, cho Miyax biết rằng cô đang ở Chí tuyến Bắc. Hàng triệu âm thanh của mùa hè lắng chìm trong một cung điệu ai oán.

- A ha, a ha ha ha…!

Miyax choàng dậy, bàng hoàng không hiểu đó là tiếng gì. Nhoài nửa người ra khỏi túi ngủ, cô ngước nhìn trời và thấy ngay một con chim màu nâu vũ lộng đôi cánh lao vun vút về phía Tây.

- Một con chim cướp biển! - Vậy thì cô đã ở gần biển hơn là cô tưởng vì chim cướp biển chỉ quanh ở các vùng nước duyên hải của Bắc Cực. Mắt cô mải dõi theo bóng con chim rồi bất chợt vấp phải một vỏ thùng dầu rỗng, mốc ranh giới của nền văn minh Mỹ ở phương Bắc. Một tháng trước, cô sẽ vui mừng xiết bao nếu được nhìn thấy thứ này nhưng bây giờ thì cô không dám chắc như vậy. Cô đã có con dao, những chiếc kim khâu, chiếc xe trượt, cái lều và cả thế giới của tổ tiên cô. Và ở đây, cô thấy mình quen thuộc với trăng sao và những thăng trầm liên tục của cuộc sống trên Trái đất này biết bao. Thậm chí tuyết cũng là một phần con người cô, cô làm tan tuyết để lấy nước uống.

Có tiếng Amaroq sủa. Tiếng nó nghe gần như thể nó chỉ cách cô không quá một phần tư dặm đường.

- Ú hú… ú! - Cô hú gọi.

Móng Vuốt đáp lại, sau đó cả đàn cùng hú lên.

- Tớ ở đây này. - Cô hét lên sung sướng và nhảy nhót. - Ở bên cái hồ này này. - Cô ngừng lại. - Các bạn biết điều đó mà. Các bạn biết hết mọi tình hình của tớ trong thời gian qua mà.

Gió bắt đầu mạnh lên khi mặt trời chớm lùi dần xuống đường chân trời. Hồ nước đáp lại với một tiếng ầm ì nghe như tiếng súng nổ. Trời càng lúc càng giá buốt. Miyax nhóm một đống lửa và bắc nồi lên. Một miếng thịt hầm nóng hổi lúc này thật tuyệt, khói và lửa sẽ làm cho lãnh nguyên có dáng vẻ một căn nhà ấm cúng hơn.

Đúng lúc đó, Amaroq cất tiếng sủa nghe rất quyền uy và cả đàn đáp lời nó. Sau đó tiếng vị thủ lĩnh chuyển sang một vị trí khác, tiếng Ánh Bạc đáp lại từ phía bên kia hồ. Móng Vuốt cất tiếng gừ như báo tin. Còn bọn sói non gâu gâu nhặng xị. Miyax đưa tay che mắt, đàn sói của cô đánh tiếng từ nhiều vị trí theo một vòng tròn rộng mà cô là tâm. Điều này thật khác lạ vì chúng luôn ở bên nhau cơ mà. Đột nhiên Amaroq cất tiếng sủa gay gắt, giọng nó nghe rất dữ tợn và đầy uy quyền. Ánh Bạc cũng sủa gắt rồi đến Móng Vuốt và Kapu. Chúng đang gặp chuyện gì rồi.

Cô bước vội lên mặt hồ và nhắm về phía chúng. Đi được nửa chừng, cô nhìn thấy một cái đầu đen thui rướn cao trên đỉnh đồi và một con thú với cái đầu to tướng nặng nề đứng thẳng trên hai chân sau, hai chân trước đầy móng vuốt vung vẩy.

- Gấu xám! - Cô gần như nín thở, đứng sững như hóa đá.

Con thú khổng lồ chồm lên mặt băng. Amaroq và Móng Vuốt xồ tới trước mặt nó rồi lại tản ra trước khi nó kịp vả lại. Chúng đang nhử nó đi, cố gắng ngăn nó lại. Con gấu hộc lên, lao thẳng về phía trước và hùng hục nhằm hướng Miyax.

Cô lao bổ về lều. Gió quất vào mặt cô, cô nhận ra mình đang chạy ngược gió với con gấu, mùi hơi của cô bay thẳng tới chỗ nó. Cô quay ngoắt sang hướng khác, loài gấu vốn nhìn rất kém, nếu không đánh hơi được thì chúng không tài nào lần ra dấu vết con mồi. Vừa chạy vừa ngã dúi dụi, cô tới được bờ nam thì con gấu cũng lặc lè đi lên, sau đó hạ chân trước xuống và ngồi lại. Cô băn khoăn không hiểu tại sao nó lại không ngủ đông. Loài sói vốn ngủ ngày nên không thể làm con gấu tỉnh giấc được. Cô đánh hơi trong không khí cố tìm xem có mùi gì lạ không nhưng chỉ có những tinh thể băng tuyết không mùi vị làm mũi cô nhức nhối.

Đàn sói vẫn quấy rối con gấu ngái ngủ, vừa sủa ầm ĩ vừa gầm gừ nhưng không có ý hạ sát nó. Chúng chỉ muốn xua nó đi, xua nó ra xa cô, cô nhận rõ là như vậy.

Con gấu từ từ nhổm dậy rồi chấp nhận rút lui lên bờ hồ và quay lại hang của nó. Rất miễn cưỡng, nó lặc lè bỏ đi trước đàn sói. Thỉnh thoảng nó lại đứng thẳng lên gầm rống tức tối vì bị phá rối giấc ngủ.

Đàn sói vừa sủa gióng giả vừa tiến dần lên, xua con gấu vào sâu trong lãnh nguyên. Cuối cùng chúng đổi hướng, phóng chạy một cách vui sướng, băng qua tuyết trắng và mất hút. Nhiệm vụ của chúng đã hoàn thành, chúng lại đi, không phải đi săn mồi, cũng không phải đi tàn sát, chỉ đơn giản là đi nô giỡn.

Miyax rùng mình. Cô đã không để ý đến vóc dáng và sự hung tợn của loài gấu miền Bắc vẫn được người trong lục địa gọi là “gấu xám” còn người dân ven biển gọi là “gấu nâu” hay Ursus arctors. Những con gấu khổng lồ như con vừa bị đàn sói đuổi đi cân nặng trên vài tạ và cao đến ba mét khi đứng thẳng lên. Miyax lau mồ hôi vã ra trên trán. Nó mà tới được lều của cô thì chỉ cần một cái tát nó sẽ nghiền nát cô trong khi cô đang say ngủ.

- Amaroq, Móng Vuốt, Kapu ơi! - Cô gọi. - Cảm ơn các bạn. Cảm ơn.

Vừa thu dọn hành lý để lên đường, cô vừa nghĩ về những vệ sĩ của mình. Loài sói không thích thế giới văn minh. Đã có thời kỳ chúng sinh sống ở khắp Bắc Mỹ, giờ đây chúng chỉ còn lại ở những vùng xa xôi của Canada, ở hai trong số 48 bang của Hoa Kỳ và trong khu vực hoang dã ở Alaska. Ngay cả vùng Dốc Bắc không hề có đường xá cũng chỉ còn rất ít sói, ít hơn cả thời kỳ người da trắng chưa lập lên những căn cứ quân sự và mang máy bay, ô tô đi trên tuyết, ánh sáng điện và xe jeep tới Bắc Cực.

Nghĩ đến những người da trắng, cô chợt hiểu tại sao con gấu nâu thức giấc. Mùa săn của người Mỹ đã bắt đầu! Những con sói của cô đang gặp nguy hiểm! Những người da trắng được trả tiền để bắn hạ chúng. Người nào mang cái tai trái của một con sói tới chỗ người giám sát sẽ được thưởng 50 đô la. Đối với những người ở trại hải cẩu, phần thưởng đó thật ghê tởm vì nó kích thích việc tàn sát để lấy tiền chứ không phải vì nhu cầu.

Cha Kapugen coi phần thưởng đó là phương pháp của những người da trắng khiến cho những loài thú như Amaroq không thể tồn tại được trên Trái đất này nữa. Ông nói: “Không kẻ nào có quyền đó. Nếu loài sói biến mất, tuần lộc sẽ sinh sôi quá nhiều và gặm sạch sẽ, loài lữ thử sẽ chết đói. Không còn lữ thử, các loài cáo, chồn và chim sẽ chết. Sự diệt vong của chúng sẽ kéo theo sự diệt vong của những hình thức sống nhỏ bé hơn mà có khi quyết định cả cuộc sống của con người, dù họ có hiểu điều đó hay không, và rồi đỉnh của thế giới sẽ lụi tàn trong hoang liêu.”

Miyax rất lo. Thùng dầu rỗng cô nhìn thấy lúc con chim cướp biển bay qua là ranh giới đánh dấu sự bắt đầu của nền văn minh và sự chấm dứt của thế giới hoang dã. Cô phải báo cho bầy đàn biết mối nguy hiểm ở phía trước. Cô đã học được cách nói nhiều điều với chúng, nhưng giờ đây, điều quan trọng nhất, một động tác vẫy tai hay một tiếng sủa để buộc chúng quay lại thì cô lại không biết.

Cô thầm nghĩ: Mình làm thế nào để nói được câu: “Chạy đi! Chạy xa vào!” đây? Cô cất tiếng hát:

Chạy đi nào, Sói ơi!

Đừng theo tôi nữa nhé

Chỉ qua cái thùng kia

Tôi sẽ thành nòng súng

Bắn vào bạn, Sói ơi.

Mây vần vũ đùn lên từ mặt đất và bay vùn vụt qua lãnh nguyên. Chúng báo hiệu bắt đầu một thời kỳ mù trắng. Miyax thay đổi kế hoạch, không lên đường vào đêm đó mà trở về lều, nhìn không gian chuyển màu trắng xóa do tuyết giăng đầy quanh cô và càng lúc càng dày thêm trên mặt đất. Cô thả rèm lều xuống rồi xách cái nồi ra. Cô lấy một mẩu mỡ cất trong cái túi bóng và một đoạn gân bỏ vào nồi. Cô đốt đoạn gân, ngọn lửa chiếu sáng căn lều nhỏ xíu của cô. Cô lôi chiếc lược ra.

Trong lúc đẽo gọt, cô nhận thấy nó chẳng giống cái lược chút nào mà rất giống dáng Amaroq. Răng lược là chân, cán lược là đầu nó. Nó như đang chờ đợi cô giúp nó thoát hình khỏi khúc xương. Ngạc nhiên khi nhận ra điều này, cô tỉ mẩn đẽo gọt hàng giờ liền và cuối cùng nó đã thành hình. Cổ nó được đẽo cong, đầu và đuôi đều vểnh lên. Đến đôi tai cũng như nói rằng: “Ta yêu con.”

Có tiếng chim kêu thảm thiết trong bóng tối. Miyax tò mò muốn biết đó là con chim gì và nó đang làm gì ở phương Bắc xa xôi trong ngày này. Vì quá buồn ngủ không còn muốn nghĩ thêm, cô bèn tháo ủng, cởi quần áo và gấp gọn lại. Tiếng chim vang lên ngay bên túi ngủ của cô. Giơ cao ngọn nến lên quá đầu, cô bò ra phía cửa và thấy ngay một đôi mắt long lanh của một chú chim choi choi lông vàng. Nó còn non vì bộ lông trên người nó và quanh mỏ nó vẫn còn những vệt màu vàng của chim non. Nó cố rúc sâu vào tấm da của cô.

Cô nhẹ nhàng luồn tay xuống dưới bụng nó, nhấc nó lên và mang nó lại gần. Những chiếc lông vàng và đen của nó ánh lên trong ánh sáng nhập nhoạng. Chưa bao giờ cô được giữ một con choi choi gần đến như vậy nên giờ cô hiểu tại sao cha Kapugen lại gọi loài chim này là “linh hồn của chim muông”. Cặp mắt vàng và đường viền quanh mỏ màu đỏ của con choi choi làm cho nó rất giống một vũ sư trong Đại tiệc Bong bóng.

- Mày bị lạc đây mà. Lẽ ra mày đã phải ở cách xa đây lắm rồi. Có lẽ là ở Labrador. Có khi nơi trú đông của mày là các thảo nguyên Argentina cũng nên. Nếu vậy thì mày chết mất thôi. Mày cần có côn trùng và các loại hạt. Nhưng có mày ở đây tao rất mừng. Tao sẽ gọi mày là Tornait, nghĩa là linh hồn chim muông đấy.

Cô nhẹ đặt con chim vào chiếc túi ngủ ấm áp của mình rồi cắt một miếng thịt tuần lộc chìa ra cho nó. Tornait nuốt ngấu nghiến. Cô cho nó ăn thêm miếng nữa, sau đó nó rúc đầu vào cánh và thiếp đi.

Đêm sau, mù trắng vẫn dày đặc đến mức cô không sao nhìn thấy nền đất khi bò ra ngoài lấy tuyết làm nước uống.

Lúc trở vào, cô nói với Tornait:

- Đêm nay tao chưa lên đường vội. Tao chẳng lo gì. Tao có đủ thức ăn, ánh sáng, đồ ấm, lửa và cả một người bạn đồng hành xinh đẹp nữa.

Đêm đó cô chau chuốt thêm hình đẽo Amaroq và trò chuyện với Tornait. Con choi choi thuần nhanh đến không ngờ, có lẽ vì nó sống ở những vùng cằn cỗi nhất thế giới nơi không hề có bóng con người, cũng có thể vì nó đang cô đơn. Tornait nhảy lách chách quanh những tấm da, bay đậu lên vai cô và hót líu lo khi cô cất tiếng hát.

Chiều hôm sau, mù trắng vẫn đặc quánh như sương mù. Miyax đang nấu ăn thì thấy Tornait xù lông, bật dậy vẻ đề phòng. Cô lắng tai nghe ngóng khá lâu mới phát hiện thấy có tiếng bước chân lạo xạo trên tuyết. Bò ra cửa, cô nhìn thấy Kapu trong màn sương, ria ướt sũng.

- Xin chào! - Cô lên tiếng.

Nó không lao bổ tới vì đang mải nhìn cái gì đó phía xa. Đúng lúc đó Amaroq xuất hiện và dừng lại bên cạnh Kapu.

- Amaroq! - Cô reo lên. - Amaroq, cậu khỏe chứ?

Lúc lắc đầu để thể hiện niềm vui sướng theo cách của loài sói, cô bò ra khỏi lều và nhẹ nhàng ngoạm lấy hàm nó. Nó vươn cao cổ rất oai vệ. Sau đó, nó nhìn Kapu và chạy vụt lên mặt hồ đóng băng. Con sói non chạy theo; Miyax cười khanh khách bò theo chúng. Cô chưa bò được bao xa thì Amaroq dừng lại và nhìn thẳng vào cô. Cô dừng ngay lại. Cặp sói thủ lĩnh phóng vụt đi, tuyết bay mù lên dưới nước kiệu của chúng.

Cô nhổm người lên tìm kiếm Ánh Bạc, Móng Vuốt và những con sói non khác nhưng chúng không đi theo cặp sói này. Miyax đứng thẳng dậy quay về lều. Chắc vị thủ lĩnh của bầy đàn đang dạy dỗ thủ lĩnh của bọn sói non. Cô khe khẽ lắc đầu vì đã hiểu ra vấn đề. Dĩ nhiên rồi. Cương vị thủ lĩnh không chỉ đòi hỏi sự can trường, trí thông minh mà còn cả kinh nghiệm nữa. Thủ lĩnh của một bầy sói cũng cần được dạy dỗ và còn ai làm việc đó tốt hơn Amaroq chứ?

- Tớ biết cậu sẽ dạy cái gì rồi. - Cô nói to. - Cậu sẽ dạy Kapu nên săn loài thú nào. Cậu sẽ dạy nó cách quyết đoán. Cậu sẽ dạy nó cách tiếp cận một con tuần lộc, chỗ nào thì có thể cho đàn nghỉ lại và cả cách yêu thương nữa.

Mù trắng đã tan, những ngôi sao hiện sáng rõ và San Fransisco lại vẫy gọi Miyax. Đã đến lúc phải lên đường. Giờ Kapu cũng phải học tập rồi.

- Nhưng tao làm thế nào để bảo chúng mày đừng theo tao nữa nhỉ? - Cô hỏi Tornait khi bò vào trong lều.

- Thôi phải rồi! - Cô bật lên. Chính Amaroq vừa dạy cô cách nói “Đứng lại” khi nó chỉ muốn Kapu theo nó. Nó chạy lên trước, quay lại và nhìn thẳng vào mắt cô. Cô đã phải dừng lại và quay về nhà. Cô háo hức làm thử. Cô chạy lên ngoái nhìn lại và trừng mắt.

- Đứng lại, Amaroq. Đứng nguyên tại chỗ!

Cô vừa khe khẽ hát vừa dỡ lều xuống, cuộn gọn lại và chất lên chiếc xe trượt của mình. Sau đó cô thu xếp hành lý và đặt Tornait vào trong mũ trùm áo parka. Xỏ chân vào đôi giày tuyết, cô nhắm theo hướng ngôi sao chỉ đường. Tuyết lạo xạo dưới chân cô và lần đầu tiên cô cảm thấy cái lạnh tê tái ngấm qua áo parka và ủng da. Vậy là nhiệt độ đang ở mức 0 độ C vì hằng năm cứ đến thang nhiệt độ này cô lại bắt đầu thấy ớn lạnh. Nhún nhảy và xoa mạnh hai bàn tay cho ấm lên, cô nhặt sợi dây kéo xe rồi đi về phía biển. Chiếc xe trượt băng băng theo sau cô.

Cô không nghe thấy tiếng động cơ máy bay nhưng cô nhìn thấy nó. Ánh nắng của mặt trời chính ngọ chiếu sáng thân máy bay bằng nhôm làm nó sáng lóa lên như một ngôi sao trên bầu trời. Đó là một chiếc máy bay cỡ nhỏ, loại máy bay các phi công vẫn dùng để chở hành khách vượt qua lãnh nguyên không có đường xá hoặc những vùng núi non hiểm trở của bang Alaska mà xe hơi không thể đi qua được. Đúng lúc đó, tiếng máy vọng đến tai cô, nhắc cô nhớ rằng đã bắt đầu đến thời kỳ các tay phi công chở người da trắng đi săn. Chiếc máy bay chao nghiêng và bay vòng vèo trên bầu trời. Nó vừa đổi hướng thì cô nhận ra tay phi công đang cho máy bay bám theo một con sông dài ngoằn ngoèo vốn là khu săn thú mùa đông. Sông thường phải chạy ra biển, cô vụt nghĩ. Vậy là mình sắp tới đích; có khi chỉ một đêm nữa là đến Mũi Hy Vọng. Cô rảo bước nhanh hơn.

Máy bay nghiêng cánh, lượn vòng và bay thẳng về phía cô. Khi nó bay là là gần mặt đất, trông nó to như một con đại bàng. Hai bên sườn máy bay liên tiếp nhá lên những tia sáng lóa mắt.

- Họ đang săn thú đấy. - Cô nói với Tornait. - Chúng ta phải chui vào vỏ thùng dầu thôi. Ăn mặc thế này trông tao chẳng khác gì một con gấu.

Gần tới chỗ thùng dầu, cô chợt thấy dấu chân của Amaroq và Kapu. Chắc chúng qua đây chưa lâu vì chỗ tuyết tan ra do hơi ấm ở chân chúng vẫn chưa kịp đông lại. Máy bay vẫn tiến thẳng tới cô. Rõ ràng cô đã bị phát hiện. Cô đá tung tuyết phủ kín xe trượt cùng hành lý rồi bò tới trước cái thùng.

Nó đã được hàn kín. Cô không thể chui vào được. Lật đầu bên kia lên cũng thấy hàn kín. Tuyệt vọng, cô nép người bên dưới bề mặt cong của cái thùng và nằm im. Rất nhiều chỗ trên người vẫn lộ ra. Cô đập mạnh tay chân cho tuyết bay mù lên. Bụi tuyết bay mù mịt rồi rơi xuống trùm kín cô vừa lúc máy bay ầm ầm vọt qua.

Có tiếng súng nổ chát chúa. Chiếc máy bay ào qua. Miyax mở choàng mắt. Cô vẫn còn sống, toán thợ săn trên không đã bay ra sông. Máy bay lại chao nghiêng và bay trở lại, lần này rất thấp, Tornait vùng vẫy.

- Nằm im nào! - Cô nói.

Tiếng súng lại nổ ầm ầm, nhờ mở mắt nên cô thấy rõ nó không nhắm vào cô.

- Amaroq rồi! - Cô lo lắng nhìn nó như nhảy vọt lên không khi một loạn đạn bay sát sạt quanh nó. Sục mạnh chân xuống tuyết, nó chạy vòng vèo qua trái rồi qua phải; Kapu bỗng chạy tới bên nó. Amaroq nhe nanh, gầm gừ dữ tợn xua Kapu đi. Kapu lao vút đi. Chiếc máy bay như do dự rồi đuổi theo Amaroq.

Đạn cắm phầm phập xuống tuyết trước mặt nó. Nó nhảy dựng lên và đổi hướng.

- Amaroq! - Cô hét to. - Lại đây! Lại đây đi!

Chiếc máy bay đột ngột đổi hướng, nhào xuống rồi lại vút lên và bay là là cách mặt đất khoảng chín mét. Những khẩu súng lại gầm lên. Amaroq khựng lại, tai cụp ra sau rồi phóng vun vút vào lãnh nguyên như một ngôi sao băng. Sau đó nó nhảy dựng lên và đổ vật xuống tuyết. Nó đã chết.

- Chỉ vì một món tiền thưởng! - Cô gào lên. - Chỉ vì tiền mà Amaroq oai hùng phải chết.

Cổ họng cô nghẹn lại đau đớn, những tiếng nấc bóp nghẹt cô. Chiếc máy bay chao nghiêng rồi bay vòng lại. Kapu đang chạy tới bên Amaroq. Đôi tai như dán chặt xuống, bốn chân nó như đang bay. Những phát đạn cày tung tuyết chung quanh nó. Nó nhảy quẫng lên tránh đạn và lao thẳng về phía thùng dầu. Cặp mắt mở to và cái mồm há ra của nó như nói với Miyax rằng đây là lần đầu tiên trong đời nó kinh hoàng đến vậy. Nó chạy quáng quàng, khi nó phóng ngang qua, cô nhào ra gạt ngã nó. Nó lăn soài trên tuyết và nằm im thít. Trong lúc chiếc máy bay cua một vòng rộng để đổi hướng thì cô mau chóng lấy tuyết phủ lên người Kapu.

Từ bả vai nó, máu loang ra đỏ lòm mặt tuyết. Miyax lăn trở lại chỗ núp.

Không gian rung ầm ầm, cô nhìn dán vào bụng máy bay. Những con ốc, những cánh cửa, những cái bánh máy bay, màu sơn đỏ, trắng, bạc, đen, cả chiếc máy bay nhấp nhóa trước mắt cô. Trong khoảnh khắc đó cô như thấy những đô thị lớn, những cây cầu, những cái đài, những cuốn sách giáo khoa. Cô nhìn thấy căn phòng quét vôi hồng, những con đường cao tốc dài tít tắp, những chiếc ti vi, những máy điện thoại và những bóng đèn điện. Một màu đen hãi hùng bao trùm lấy cô, xã hội văn minh biến thành con quái vật gầm rú trên bầu trời.

Trước mắt cô, chiếc máy bay co lại, đổi hướng rồi lại lớn dần. Tornait bay vọt lên nóc thùng kêu những tiếng kinh hoàng và đập cánh phành phạch.

Kapu gượng đứng lên.

- Đừng cử động! - Miyax thì thào. - Bọn chúng quay lại tìm xác Amaroq đấy.

Biết Kapu không hiểu nên cô nhoài hẳn ra, nhẹ nhàng vỗ về nó: “Nằm im nào! Nằm im nào!” Cô thấy nó nằm ẹp xuống tuyết không gây ra một tiếng động.

Chiếc máy bay vòng lại thấp đến mức cô thấy rõ những gã đàn ông ngồi trong khoang, cổ áo khoác kéo cao, những chiếc mũ sắt bảo vệ và những cặp kính râm của họ nhấp nhoáng.

Họ đang cười nói và nhìn xuống dưới. Miyax vụt nhớ ra Ánh Bạc, Móng Vuốt và những con sói non khác. Chúng đi đâu nhỉ? Trên nền tuyết trắng, chúng thành những mục tiêu ngon lành quá còn gì. Nhưng cũng có thể không vì lông chúng đều sáng màu chứ không đen.

Máy bay đột ngột tăng tốc, cánh ép xuống, toàn thân ngóc lên chao nghiêng rồi lao vút về phía sông. Nó không vòng lại nữa.

Miyax luồn tay vào lớp lông Kapu. Cô nấc lên:

- Thậm chí chúng cũng không thèm dừng lại nhặt xác nó. Thậm chí chúng giết nó cũng không phải vì tiền. Mình không còn hiểu được tại sao. Tavunga vunga. Pisuga gasu punga.

Cô bật lên những lời đau xót bằng tiếng Eskimo vì cô không còn nhớ nổi một chữ tiếng Anh.

Máu Kapu chảy loang trên tuyết. Cô luồn tay xuống người nó rồi ấn chặt ngón cái vào mạch máu đang phun mạnh. Cô cứ ấn chặt - một phút, rồi một giờ trôi qua - cô không nhớ chính xác là bao lâu. Rồi có tiếng Tornait kêu đòi ăn. Cô thận trọng nhấc tay lên. Máu đã ngừng chảy.

- Tagasu. - Cô nói với Kapu.

Cô bới tuyết ra khỏi xe trượt và lôi mấy cây cọc ra. Cô dựng lều kế bên cái thùng, lấy tuyết đắp kín xung quanh để ngăn gió lùa rồi trải tấm đệm xuống dưới. Cô định đẩy Kapu vào lều nhưng nó quá nặng. Nó ngóc đầu lên rồi lại thả phịch xuống đất một cách yếu ớt. Miyax quyết định dựng lều quanh nó. Cô dỡ mọi thứ xuống và làm lại từ đầu.

Lần này cô luồn tấm da xuống dưới người nó từng tí một cho tới khi nó nằm gọn lên đó. Sau đó cô lôi cái thùng lên khỏi tuyết, lăn nó lại gần Kapu và dựng lều dựa vào đó. Cô lấy tuyết bịt kín mọi chỗ trống.

Cái thùng đã cũ, nó có những ký hiệu khác hẳn loại thùng thường thấy quanh Barrow nhưng đều giống nhau ở chỗ không han gỉ mấy. Mùa đông lạnh giá cùng với điều kiện hanh khô như hoang mạc ở lãnh nguyên đã bảo vệ tốt kim loại, giấy rác thải và ngăn quá trình han gỉ chứ không như các vùng ấm áp hơn. Ở Bắc Cực, tất cả các đồ nhân tạo đều tự bảo tồn trong nhiều năm. Thậm chí, ném xuống biển cũng không thay đổi gì vì nước quanh chúng đều đóng băng và khi thành băng tảng, chúng lại được đưa vào bờ. Mặt trời mùa hè sẽ làm chúng xuất hiện trở lại.

Miyax làm tan tuyết, thái thịt cho Tornait ăn. Nó từ trên nóc thùng sà xuống và chạy vào lều. Nhảy lên chiếc túi ngủ bằng da thú, nó đứng co một chân rỉa lông cánh và thiếp đi.

Ngồi bên nồi thịt đang sôi sùng sục, Kapu nằm dưỡng sức và Tornait đang gà gật, Miyax miên man nghĩ tới Amaroq. Cô phải đi tìm và chào tạm biệt nó. Cô gắng đứng dậy nhưng không sao cử động nổi. Nỗi đau đớn day dứt trong cô như thể cô đang bị kẹp cứng trong một chiếc kẹp.

Khoảng một tiếng sau, Kapu ngóc đầu lên, liếc mắt nhìn khắp căn lều ấm cúng và chịu ăn mấy miếng thịt hầm. Miyax xoa đầu nó và bảo nó nằm im bằng tiếng Eskimo để cô xem xét vết thương. Vết thương rộng và sâu, cô biết cần phải khâu lại.

Rút một sợi gân từ tấm đệm, cô xâu vào cây kim rồi đâm mạnh qua lớp thịt mềm. Kapu gầm gừ. Cô khe khẽ hát:

- Xo lus pajau, sexo. Lupis pajau sesuri vanga pangmane majorivapangmane.

Bằng cách lặp đi lặp lại đều đều bài hát chữa bệnh của bà còng, cô đã thôi miên được Kapu để khâu vết thương cho nó. Xong việc thì hai má cô cũng ướt đẫm mồ hôi nhưng cô có thể khẳng định rằng nó sẽ bình phục trở lại để dẫn dắt bầy đàn.

Mặt trời đã khuất trên bầu trời xanh thẳm, những ngôi sao lần lượt hiện ra, nhấp nháy như nói lên khoảng cách xa xăm của chúng đến Trái đất. Khoảng nửa đêm, trong lều bắt đầu xuất hiện ánh sáng màu lục, đôi mắt Kapu cũng lấp lánh như những viên ngọc lục bảo. Miyax chăm chú nhìn ra ngoài. Từ mặt đất, những luồng sáng màu lục hắt lên nền trời đen như nhung. Những luồng sáng lục phát ra những tia sáng đỏ và trắng. Các loại ánh sáng của phương Bắc đang nhảy múa. Những hồ nước rền vang ầm ầm, từ xa nghe vọng lại tiếng tru thê thảm của Móng Vuốt.

Miyax hú đáp lại để báo cho nó biết cô đang