← Quay lại trang sách

- 3 -

Cô ngồi chênh vênh bằng hai gót chân. Thạch Đông cất lên tiếng kêu lúc trầm lúc bổng, Kapu bèn quay lại hang. Miyax đoán rằng đó là hiệu lệnh gọi về hang. Kapu tò mò ngoái nhìn lại vẻ ngạc nhiên. Cô bật cười khúc khích. Nó ve vẩy đuôi và nhảy bổ vào Thạch Đông.

Cô vỗ tay đôm đốp rồi ngồi im xem chúng nhảy nhót và vật lộn, trong lòng phấn khích vì cuối cùng cô đã giải mã được thứ ngôn ngữ của loài sói. Sau một lúc lâu, cô quả quyết rằng không phải chúng đang trò chuyện mà là đang gây ồn, vì thế cô quay về nhà. Rồi cô chợt nghĩ khác. Đối với loài sói việc gây ồn rất quan trọng. Bọn sói non gần như gây ồn suốt đêm.

- Eelie, được rồi. - Cô nói. - Mình sẽ học cách gây ồn. Có thể sau đó chúng mày sẽ chấp nhận tao và cho tao ăn.

Cô nhảy nhót, múa may rồi gầm gừ; cô lẩm bẩm và lăn lộn. Nhưng chẳng có ai đến để gây ồn cả.

Đang lần về trại, cô chợt nghe thấy tiếng cỏ sột soạt và nhìn thấy Amaroq cũng như trợ thủ của nó vây quanh ụ tuyết của cô và dừng lại cách đó khoảng mét rưỡi. Cô có thể ngửi thấy mùi hơi dễ chịu thoát ra từ lông chúng.

Tóc gáy cô sởn lên và mắt cô mở to. Đôi tai Amaroq chĩa thẳng về phía trước vẻ thù địch làm cô nhớ ra rằng mở to mắt nghĩa là sợ hãi. Sẽ không có lợi nếu để nó biết rằng cô đang sợ nó. Loài vật thường tấn công kẻ sợ chúng. Cô định khép hờ mắt nhưng lại nhớ rằng thế cũng chưa đúng. Khép hờ mắt có nghĩa là e ngại. Trong cơn tuyệt vọng, cô nhớ Kapu thường tiến lên khi bị thách thức. Cô chồm tới sát bên Amaroq. Tim cô đập thình thịch trong lúc bắt chước tiếng sói con làm nũng. Sau đó cô nằm dán xuống và chăm chú nhìn nó vẻ trìu mến.

Con sói khổng lồ lui lại và né tránh ánh mắt cô. Cô đã sai ư! Có khi còn làm nó nổi cáu nữa. Có một vài cử chỉ với cô là vô nghĩa nhưng rõ ràng lại có ý nghĩa gì đó đối với loài sói. Đôi tai nó chĩa thẳng đầy vẻ cáu kỉnh; mọi thứ thế là hết. Cô muốn vùng dậy và bỏ chạy nhưng cô gắng lấy hết can đảm chồm lại gần nó hơn nữa. Cô nhẹ nhàng vỗ vỗ vào hàm nó.

Cử chỉ đó có tác dụng ngay. Toàn thân con sói rúng động, những tình cảm trìu mến trào lên. Đôi tai Amaroq rủ xuống, đuôi nó ve vẩy một cách thân thiện. Nó không thể phản ứng khác trước một cái vỗ nhẹ vào hàm vì căn nguyên của cử chỉ đó rất sâu xa trong lịch sử loài sói. Nó được kế thừa từ thế hệ con đầu đàn này tới thế hệ con đầu đàn khác. Khi đôi mắt nó dịu lại, một mùi hương ngây ngất từ chót đuôi nó tỏa ra khiến cô ngộp trong mùi hơi của loài sói. Miyax đã là một thành viên của bầy đàn.

Suốt đêm, trời sáng rõ như ban ngày. Miyax chờ đợi Amaroq trở về và mang theo thức ăn cho cô cùng những con sói non. Cuối cùng cô cũng thấy nó xuất hiện ở phía xa, cô bèn quỳ phục xuống và bò tới vị trí quan sát của mình. Nó không đem thức ăn về.

- Ayi. - Cô kêu lên, - chắc bọn sói non đang thời kỳ bú sữa rồi. Vì như thế mới không cần thịt tươi.

Cô ngồi xổm dậy và suy nghĩ về tình huống này. Sau đó cô nghĩ lại.

- Mày không thể đang bú sữa được, - cô nói với Kapu, - rõ ràng Ánh Bạc gầm gừ khi mày đòi bú và đuổi mày ra.

Kapu ngó ngoáy đôi tai để lắng nghe cô nói.

- Này! - Cô gọi nó. - Mày kiếm đâu ra thức ăn mà trông mày béo vậy?

Nó chẳng thèm để ý đến cô mà chăm chú nhìn Ánh Bạc và Móng Vuốt đang thong thả trở về hang sau buổi săn. Miyax quay trở lại chỗ để cái nồi và nhấm nháp ít rêu khô lạnh cho tới lúc dạ dày cô thấy trương lên nếu không được thỏa mãn cơn đói. Sau đó cô chui vào trong căn nhà băng của mình với hy vọng giấc ngủ sẽ làm dịu cơn đói của cô.

Cô vuốt ve lớp lông trắng bông trên chiếc áo parka tuyệt đẹp dành cho ngày cưới của mình rồi cẩn thận cởi ra và gấp lại. Đặt cái áo cùng đôi găng một ngón bằng lông thú vào một chiếc túi bằng bong bóng cá voi, cô buộc thật chặt miệng túi để không cho hơi ẩm ngấm vào làm ướt quần áo trong lúc cô ngủ. Việc này cô thành thạo ngay từ khi còn nhỏ, đó là một trong những kinh nghiệm và có lẽ đó cũng là điều duy nhất từ xưa truyền lại của dân tộc Eskimo mà cô thấy thích, chưa bao giờ cô quên việc này kể cả khi còn sống trong căn nhà ấm cúng có hệ thống lò sưởi khí ga ở Barrow bởi vì quần áo ẩm ướt có thể khiến người ta chết cóng trong môi trường Bắc Cực.

Sau khi gấp gọn bộ quần áo ngoài, cô cởi nốt chiếc quần tất màu đỏ tươi mà mẹ nuôi đã mua cho cô trong một cửa hàng của người Mỹ ở Barrow. Đi chân trần ra ao, cô giũ sạch chiếc quần rồi phơi ngoài nắng. Không khí lạnh ùa tới và vây kín tấm thân trần của cô. Cô rùng mình và lấy làm mừng vì đã làm được một việc đúng: Cô mặc theo mình các loại quần áo mùa đông chứ không phải bộ Kuspuck[6] mùa hè.

Gió giật từng cơn; Miyax bò vội qua cửa ra vào thấp tè rồi chui vào túi ngủ. Lớp lông thỏ mềm mại, êm ái ôm lấy người cô, cô kéo mũ trùm kín mặt chỉ để hở mũi để thở. Hơi thở ấm nóng của cô bị lớp lông thú cản lại, phả vào mặt cô; chỉ một lúc sau người cô đã nóng rực như một lò sưởi bức xạ. Trong cái thế giới nhỏ bé ấm áp này, cô quên đi cơn đói đang hành hạ mình và gắng nhớ lại những điều cô đã biết để liên hệ với những gì cô vừa quan sát được.

Cha cô nói loài sói không dạn người, chúng sẽ bỏ hang nếu nơi đó bị loài người phát hiện nhưng đàn sói này thì không như vậy. Chẳng lẽ Amaroq không biết cô là một con người? Chắc là không; cô chưa bao giờ đi bằng hai chân khi có sự hiện diện của nó vì đối với các loài động vật hoang dã, con người thường đi bằng hai chân. Nhưng có lẽ nó biết rồi. Ông cũng nói rằng, chỉ cần một lần đánh hơi, loài sói sẽ biết ngay bạn là nam hay nữ, già hay trẻ, là thợ săn hay không là thợ săn, thậm chí bạn đang vui hay dang buồn. Vì thế cô kết luận rằng Amaroq tha thứ cho cô vì cô còn nhỏ, không có súng và đang buồn bởi cô là một đứa trẻ lạc đường.

Tiếp theo cô nghĩ tới Móng Vuốt. Con này là thế nào? Một trợ thủ trung thành của Amaroq, điều đó thì quá rõ rồi, nhưng cô ngờ rằng nó còn hơn thế nữa - nó là một người cha đỡ đầu của đàn sói non. Móng Vuốt chấp hành mọi mệnh lệnh của Amaroq nhưng lại gần gũi với Ánh Bạc và bọn sói non. Nó là người cha khi cha thật sự của chúng bận. Vậy nó là một cộng sự đắc lực của Amaroq. Thế còn Thạch Đông? Con này ra sao nhỉ? Nó từ đâu tới? Phải chăng nó là một con sói mới lớn? Hay cũng như cô, nó mới gia nhập đàn bằng cách cầu xin Amaroq cho làm thành viên trong đàn? Còn rất nhiều điều cần tìm hiểu về gia đình này của cô.

Miyax không biết là mình đã ngủ bao lâu bởi vì giữa đêm trời cũng sáng như giữa trưa nên rất khó có kết luận gì về sự trôi chảy của thời gian. Tuy nhiên, điều đó không hề gì, thời gian ở Bắc Cực được căn cứ theo nhịp điệu của cuộc sống. Bọn sói non đang sủa khúc Yipoo vui nhộn của chúng để chào đón một buổi săn vừa kết thúc. Cả đàn đang về hang. Trong đầu lởn vởn hình ảnh những súc thịt tuần lộc, Miyax chui ra khỏi túi ngủ và vớ lấy quần áo.

Lũ sói non có thể không cần ăn nhưng chắc chắn Amaroq sẽ phải mang thức ăn về cho Thạch Đông. Nó đã phải trông nhà suốt đêm còn gì. Bước ra ngoài nắng, cô mặc quần tất, nhảy nhót một lúc cho ấm người rồi khoác áo lông lên người. Cô đi ra ao, qua làn nước trong như gương cô nhận thấy hai gò má đã hóp lại. Cô thấy vui vui vì trông cô giống như thiếu nữ da trắng trong các tờ tạp chí và phim ảnh - mảnh mai, không có khuôn mặt tròn như trăng rằm của người Eskimo.

Trời ơi tóc của cô! Cô cúi sát xuống mặt băng vùng lãnh nguyên sáng như gương. Tóc cô rối bù. Đưa tay vuốt lại tóc, cô ao ước giá cô cầm theo bàn chải và lược Daniel tặng cô hôm cưới. Chúng vẫn nằm nguyên trong ngăn kéo tủ tại căn nhà ở Borrow.

Cô nhanh chóng trèo lên ụ tuyết, nằm xuống và quan sát đàn sói. Chẳng thấy một miếng thịt nào. Ba con sói săn đang nằm dài, bụng no căng thức ăn. Thạch Đông đã đi đâu mất. Đương nhiên rồi, cô tự nhủ, nó tạm thời được giải phóng khỏi công việc và đã theo dấu những con sói săn tới chỗ con mồi. Cô nhăn mặt vì cứ đinh ninh rằng hôm nay nhất định sẽ có thức ăn. Vậy là ta lại không có - cô tự nhủ - thế đấy.

Miyax biết khi nào cần chấm dứt mơ mộng và trở về với thực tại. Cô tụt khỏi ụ tuyết, quẳng chiếc áo parka đi và nhìn ra lãnh nguyên. Các loại cây quanh ao có rất nhiều loại hạt ăn được, cỏ lành cũng rất nhiều. Dưới nước có hàng ngàn ấu trùng muỗi và bọ xay lúa, hoa dại đua nở khắp nơi nếu không muốn nói là đang nở rộ. Nhưng tất cả những thứ đó đều nhỏ và mất nhiều thời gian thu gom. Cô nhìn quanh để tìm thứ gì lớn hơn.

Đôi mắt đen của cô vụt sáng khi thấy mấy con chim bọ sẻ vùng Lapland phóng vụt qua. Có thể trong tổ chúng vẫn còn chim non. Đứng khuất sau ụ tuyết để đàn sói không nhìn thấy tư thế hai chân của mình, cô nhảy vào bụi cỏ. Mấy con chim đã biến mất. Những đôi cánh có những chấm đen của chúng mất hút trên bầu trời như thể chúng đã cảm nhận được ý định nguy hiểm của cô với chúng. Miyax thu mình lại. Cha Kapugen đã dạy cô nhử chim bằng cách ngồi im và phải biết kiên nhẫn. Cô bắt chéo chân ngồi cho thoải mái và giấu mình trong đám cây cỏ, bất động như một khối đá.

Vừa lúc mấy lá cỏ rung rung và Miyax phát hiện thấy một chú chim non đang đập cánh đòi ăn. Một cặp chim bố mẹ trông giống chiền chiện màu nâu sà xuống và mớm mồi vào cái mỏ đang há ra của nó. Một con chim khác đòi ăn và chim bố mẹ bay tới chỗ nó. Thật không may, con chim thứ hai này ở cách xa con chim đầu tiên đến mức Miyax biết rõ chúng ở bên ngoài tổ mà không tài nào bắt được. Cô đành quay sang theo dõi bọn điểu chúc[7] tuyết.

Trên nền trời phía xa có vật gì đó chuyển động khiến cô chú ý và rồi cô nhận ra cái đuôi có chấm và cái đầu đen của một con ó biển. Cô biết rõ loài chim này vì chúng chỉ kiếm mồi ở vùng bờ biển và lãnh nguyên trên đảo Nunivak. Đó là một giống chim biển rất can đảm, có họ hàng gần với loài mòng biển nhưng lại không săn bắt cá. Ó biển thích săn lữ thử, các loại chim nhỏ và đôi khi cả thịt thối nữa. Miyax băn khoăn không hiểu nó đang săn lùng cái gì. Thêm ba con ó nữa xuất hiện cùng với con đầu tiên, cả bọn lượn vòng như đang bay trên mục tiêu rồi đột ngột lao vùn vụt xuống một nơi nào đó phía xa.

- Một con mới bị sói giết, - cô reo lên sung sướng, - chúng đang xâu xé một con mồi của đàn sói.

Nhảy bổ xuống, cô nhắm hướng mấy con ó vừa đáp xuống nơi có một khóm địa y nâu cách đó một quãng rồi hăm hở chạy tới. Khi chạy được một phần tư dặm, cô dừng lại và ngoảnh nhìn phía sau. Lãnh nguyên vô tận vây tròn quanh cô khiến cô không thể xác định ụ tuyết ở đâu.

- Chết rồi! - Cô kêu lên. Cô chạy quanh, cố gắng tìm cho ra những chỗ cây cỏ bị cô xéo nát. Đến gần một vũng nước thì cô hoàn toàn mất dấu nhưng sau đó, cô may mắn nhận ra một cái tổ lữ thử trống không rất giống một quả bóng bằng cỏ mà cô vừa đá đi. Cô như vồ lấy nó rồi lại thấy một bông hoa bị cô giẫm nát và từ đó tìm ra ụ tuyết. Đứng trên đỉnh ụ, cô phóng tầm mắt ra xa, nhìn về căn nhà thân quen của mình.

Cô nhắc mình không được phép bất cẩn như vừa rồi một lần nữa.

- Ở đây chỉ nhãng đi một chút là bị lạc, - cô nói to.

Miyax ngồi phệt xuống cỏ nghỉ lấy sức. Tay cô chạm vào một khóm đậu Bắc Cực, thứ này tuy nhỏ nhưng rất sai; cô bèn tháo giày và cởi cả tất rồi nhét đầy thứ hạt này vào. Khi đã lượm đủ, cô xốc chiếc tất lên vai và vui vẻ về nhà, vòng quanh ao và đổ tất cả đậu vào nồi. Cô dùng tay đảo đậu khiến chúng nhảy lách tách như tiếng nhạc. Cô đảo đi đảo lại và nghĩ thêm lời hát cho hợp với điệu nhạc:

Lách cách hạt đậu chạy

Lốc cốc hột đậu quay

Nhưng chúng chẳng thể nào

Thoát khỏi cái nồi này.

Bọn sói non sủa ăng ẳng và Ánh Bạc phóng mình ra lãnh nguyên. Dáng nó chạy thật đẹp, bộ lông sáng ánh lên như sắc kim loại; sau đó nó đường bệ tiến tới một con dốc và biến mất. Phía đường chân trời, mấy con ó táo tác bay lên báo hiệu rằng Ánh Bạc đã đến chỗ con mồi. Ôm khư khư cái nồi trên tay, Miyax hồi hộp đợi đến lúc được nhìn thấy nó mang thịt về cho đàn con.

Bọn ó lượn vòng, bọn bọ sẻ tung cánh nhào lộn; cuối cùng Ánh Bạc cũng quay lại. Mồm nó không ngậm gì cả.

- Tao không sao hiểu nổi chúng mày sống nhờ cái gì mới được chứ? - Cô nói với bọn sói non.

Chú thích:

[6] Loại quần liền áo của phụ nữ Eskimo.

[7] Một loài chim thuộc họ sẻ đồng.