- 4 -
Ngày tháng trôi qua, những lá thư của Amy trở thành điều quan trọng nhất trong cuộc đời Julie và ngôi nhà ở San Francisco ngày càng quen thuộc hơn cả ngôi nhà ở Barrow. Cô biết rõ từng loại hoa mọc trên đồi nhà Amy, từng viên gạch xây tường vườn và từng cái cây cao vút. Cô cũng nắm rõ từng thanh sắt uốn hoa văn trang trí trên cổng sắt, biết rõ cần đi bao nhiêu bước để tới cửa chính; cô gần như biết rõ từng hàng gạch bông đen trắng lát sàn tiền sảnh. Cứ nhắm mắt lại cô có thể hình dung ra ngay lối đi có vòm cuốn, tấm thảm Ba Tư trải trên sàn phòng khách, những chiếc ghế tựa mạ vàng rực rỡ, cái cửa sổ lớn nhìn xuống khu vịnh. Những cái đài, những ngọn đèn, những chiếc bàn ngồi uống cà phê - tất cả những thứ đó cô đều biết rõ. Và nếu cô nhắm mắt thật chặt, cô có thể cảm nhận được bàn tay của Amy trong tay cô và nghe thấy tiếng bàn chân to bè của Amy bước trên đường.
Nghĩ tới tầng hai lúc nào cũng thấy vui. Trên đỉnh có phòng thông gió với bốn cửa lớn luôn mở để lấy ánh sáng vào nhà. Có một căn phòng quét vôi hồng, đó sẽ là phòng của cô khi nào cô tới San Francisco.
Qua mùa đông, Julie hiểu rõ về con người Naka. Mới đầu cô tưởng ông ấy làm một công việc rất quan trọng vì ông ấy thường vắng nhà nhiều ngày, có khi hàng tuần liền và khi về, ông ấy có vẻ rất mệt mỏi và cáu bẳn. Nhưng những hôm nhiệt độ dưới mức 0°C, Naka ở lỳ trong nhà nên dần dà Julie nhận ra ông ấy chẳng làm gì cả. Ông ấy nốc rượu. Càng uống ông ấy càng cáu bẳn, dễ nổi khùng. Nhiều lần ông ấy đánh đập Nusan; càng ngày ông ấy càng hay gây gổ với hàng xóm. Cuối cùng khi nào lạnh cóng, ông ấy mới chịu thả người xuống giường như một con hải cẩu to lớn nhưng mềm nhũn và ngủ ly bì mấy ngày liền.
Khi nào tỉnh giấc, ông ấy lại trở nên hiền lành, ngồi lỳ trong căn phòng bừa bộn lông thú và những mảnh da vụn, cần mẫn khâu những chiếc mặt nạ bằng da nai sừng tấm để bán cho khách du lịch mùa hè. Ông ấy hát những bài ca truyền thống ở trại hải cẩu và kể cho Julie nghe về những loài vật mà ông ấy và cha Kapugen từng biết. Những lúc như vậy, cô mới hiểu vì sao cha mình lại quý mến ông ấy đến thế.
Một đêm nọ, ông ấy đánh đập cô Nusan mấy bận liền. Khi bà ấy kêu gào và đánh trả, Julie vội chạy tới quán giải khuây tìm Pearl. Cô ấy không có ở đó nhưng góc phòng lại có Russell, một chàng trai đang đi khắp làng vận động những người Eskimo kiên quyết không đồng ý chương trình khuyến mại rượu bia của các nhà hàng địa phương.
Julie ngồi xuống. Cô nói:
- Naka lại nổi điên rồi. Ông ấy mất trí mất rồi.
Russell gục gặc đầu:
- Ông ấy, cũng như nhiều người khác, không sao bỏ được rượu chè. Có một ông từ San Francisco tới đã làm được biết bao nhiều việc ở bang Alaska này. Chú ấy có thể giúp đỡ được những người như Naka. Chú ấy đã giúp cha anh. Và cả anh nữa.
Russell nói thêm:
- Giờ đây tất cả chúng ta phải cùng phối hợp và giúp đỡ nhau bỏ rượu chè. Nhưng Naka phải đồng ý gặp mặt chú ấy. Nếu ông ấy đồng ý anh sẽ liên hệ với…
Julie chồm về phía trước như đã đoán chắc những gì Russell sắp nói ra. Cô thì thào:
- Ông Pollock.
- Eelie. Sao em biết?
Căn phòng quét vôi hồng ở San Francisco.
Ngày 24 tháng Giêng là một ngày lễ. Bắt đầu từ ngày 21, đỉnh của quả đất đỏ rực lên do một hiện tượng thiên thực xảy ra khi mặt trời di chuyển ở vị trí thấp dưới đường chân trời. Những người Mỹ bắt đầu cười đùa còn người Eskimo thôi không chơi những trò chơi mùa đông của họ là phi tiêu và con lắc nữa. Càng ngày không khí chộn rộn càng tăng lên.
Sáng ngày 24, Julie và Pearl cùng chạy tới trường; hôm nay sẽ là ngày đẹp nhất trong năm, ngày mặt trời mọc.
Gần trưa, Julie cùng bạn bè trong lớp mặc áo choàng parka, đi găng ấm rồi lặng lẽ leo qua cổng trường tránh không gây động. Ông hiệu trưởng người da trắng đã ra ngoài ngắm nhìn bầu trời phía đông nam một cách bồn chồn. Vẻ mặt ông ta như tỏ rõ rằng ông ta không hề tin phép màu sẽ xảy ra.
- Kia rồi! - Một cậu bé hét toáng lên và một cột sáng rực rỡ mới đầu màu lục sau là đỏ bùng lên phía đường chân trời. Ngôi sao của sự sống từ từ nhô lên cho tới khi nó hiện ra tròn vành và đỏ rực trên bầu trời. Những người Eskimo cùng nâng cao tay hướng lòng bàn tay về phía cội nguồn sự sống. Hoàn toàn vô thức, tất cả những người da trắng cũng từ từ nâng tay lên. Không một ai tỏ vẻ nhạo báng truyền thống lâu đời của người Eskimo.
Suốt một tiếng rưỡi đồng hồ, mặt trời từ từ di chuyển cao dần phía chân trời, nhắc người Eskimo nhớ rằng các loài chim thú cũng sắp quay về, rằng tuyết sắp tan và rằng những đống băng lớn trên bờ biển sẽ lùi ra xa, họ sẽ lại thoải mái đi săn thú và đánh bắt cá.
Thậm chí ở Nunivak cũng không thể có một ngày tuyệt vời như thế này vì quanh năm, mỗi ngày mặt trời chỉ hiện ra một lúc.
- Mặt trời chói lọi, con nhớ người biết bao. - Julie thầm thì và bàn tay cô cũng như cảm nhận được nhịp rung của cuộc sống.
Ngôi nhà nhỏ ở Barrow dần trở nên quen thuộc vì Julie cũng đã hòa nhịp được với nếp sống của Nusan và rồi mùa hè đến lúc nào cô cũng không biết. Hằng ngày, du khách nườm nượp kéo đến các khách sạn; phòng thí nghiệm nghiên cứu bấn lên vì vô số công việc. Julie bận tối tăm mặt mũi với công việc may vá, thỉnh thoảng lắm mới có thời gian tới thăm Pearl và gia đình cô ấy.
Một buổi chiều muộn Nusan từ cửa hàng quay về. Bà nói với vẻ bực tức:
- Lão Naka bị bắt rồi. Tao phải đi và đưa lão ra khỏi đó. Làm cho xong mấy cái ủng mukluk này đi. Ngày mai có người cần đấy.
Bà tất tả đi ra cửa, Julie nhặt mấy chiếc ủng lên. Cô đang hý hoáy cắt một miếng da màu đen vuông vức xinh xắn để khâu kèm vào dải băng viền miệng ủng thì cánh cửa bật mở và Daniel bước vào.
Cô chẳng buồn nhìn lên vì cô đã biết thói quen của anh chàng. Anh ta sẽ dán mắt vào chương trình TV tối trong khi ăn, uống một lon Coke và leo lên giường nghe đài.
- Này em! - Anh ta gọi giật giọng. Cô ngạc nhiên nhìn lên. - Em ơi. Em là vợ anh.
- Daniel, chuyện quái gở gì vậy?
- Chúng nó đang chế nhạo tao kia kìa. Đấy mới là chuyện quái gở. Chúng nó bảo rằng: “Ha ha. Thằng Daniel ngu đần. Mày có một con vợ nhưng mày không dám động đến nó. Ha ha.”
Gã kéo tuột cô vào lòng và áp môi hẳn vào môi cô. Cô cố gắng đẩy gã ra.
- Chúng ta không phải là vợ chồng. - Cô hét lên.
- Chúng nó đang chế nhạo tao. - Gã nhắc lại và xé toạc vai áo cô. Cô giữ chặt lấy và cố gắng vùng ra. Daniel như nổi điên. Gã ngáng chân cô và cả hai cùng ngã nhào xuống sàn. Cặp môi gã trễ ra, lưỡi gã chạm vào môi cô. Dùng sức nặng toàn thân đè cô xuống, gã vật cô trên sàn nhà. Cô sợ chết giấc khiến gã cũng hơi run.
Căn phòng quay cuồng và trở nên mờ mịt. Daniel vẫn nằm thượt vừa chửi rủa vừa co chân đạp cô túi bụi. Đột nhiên gã nhổm dậy và chạy ra khỏi nhà.
- Ngày mai, ngày mai tao có thể, tao có thể, ha ha ha! - Gã gào lên ngớ ngẩn đến tội nghiệp.
Julie lật sấp người và nôn thốc nôn tháo. Cô gắng gượng đứng dậy. Cô lẩm nhẩm:
- Khi sợ hãi hãy thay đổi những gì con đang làm bởi con đang làm sai việc gì đó.
Cô với lấy chiếc quần tất màu đỏ để trong một cái hòm trên giá, mặc vội một cái áo sơ mi khá ấm rồi khoác thêm chiếc áo parka hôm cưới cùng chiếc quần dài. Sau đó cô mở hòm để dưới gầm giường và chọn lấy một cặp tất đen rất ấm. Xỏ chân vào ủng, cô thắt chặt dây giày. Cái túi khoác cũ của Daniel để ngay dưới giường gã. Cô với lấy mở một chiếc hộp bằng bìa cứng để cạnh bếp lò và lôi ra con dao chuyên dụng của nam giới cùng con dao ulo mà cô mang từ Nunivak tới. Cô bốc một nắm diêm gỗ và bỏ tất cả các thứ vào một chiếc nồi nhôm rất kín.
Cô mở cửa và bình tĩnh băng mình trong bóng đêm để tới nhà Pearl. Len lén vượt qua phòng các anh chị em và bố mẹ Pearl đang say ngủ, cô rón rén vào phòng cô ấy.
- Pearl ơi, tớ đi đây. - Julie thì thào.
Pearl tỉnh giấc ngay tức khắc:
- Lại vì Daniel hả?
Julie gật đầu:
- Hắn ngu ngốc quá. Người ta trêu chọc hắn.
Pearl tụt khỏi giường và cả hai rón rén đi vào bếp. Pearl khép chặt cửa lại rồi mới ngồi xuống.
- Cậu định đi đâu?
- Tớ chưa nói cho cậu được. Nếu không người ta sẽ quấy rầy cậu. Tớ cần có đồ ăn.
Pearl ngước nhìn mấy cái giá phía trên bếp lò và đẩy một cái thùng lại gần đó để kê chỗ đứng; cô ấy lấy xuống nào bánh mì, pho mát, nào hoa quả khô, thịt ướp và cả một bịch yến mạch với đường.
- Đủ rồi đấy. - Julie trả lời. - Tớ chỉ cần đủ dùng trong một tuần thôi. Nhưng tớ cần mượn một cái túi ngủ bằng da và một tấm đệm. Khi nào đến nơi đã định tớ sẽ gửi trả lại.
Pearl lần xuống kho chứa đồ rồi trở lại mang theo một cái túi ngủ và một tấm da.
- Những thứ này là quà cưới đấy. - Cô ấy mỉm cười. - Cậu có thể giữ lấy. Không ai dùng những thứ đồ cổ này ở đây đâu.
- À, còn mấy cây kim nữa. - Julie nói. - Thế là đủ rồi đấy.
Nhét túi ngủ vào hành lý, cô buộc chắc tấm da tuần lộc xuống bên dưới rồi xốc hành trang lên vai.
- Cậu có chắc rằng cậu sẽ ổn cả không? - Pearl hỏi.
- Cha tớ là một thợ săn lão luyện. Ông đã dạy tớ nhiều điều. Nếu Nusan hỏi tớ đi đâu, cậu cứ nói thấy tớ đi bộ trên mặt băng. Bà ấy sẽ không mất thời gian tìm tớ đâu.
Julie thổn thức vòng tay ôm choàng lấy Pearl rồi vội vã đi nhanh ra cửa và nhẹ nhàng khép lại. Cô đi ra phía bờ biển, leo lên một tảng băng và nhìn lại sau. Ngoài phố không có ai trừ một vị khách du lịch đang mải mê chụp cảnh mặt trời. Ông ta quay lưng lại phía cô. Julie hụp đầu xuống dưới tảng băng rồi bò lần lần cho tới khi ra khỏi làng và chắc chắn đã thoát khỏi tầm nhìn kể cả của những người đứng trên nóc nhà cao nhất Barrow. Sau đó, cô đứng thẳng dậy và nhìn ra khơi xa.
- Từ nay ta không còn là Julie nữa. - Cô nói. - Giờ ta là Miyax.
Cô nhanh nhẹn nhảy lên bờ và tiến sâu vào lãnh nguyên. Cô sải chân bước mỗi lúc một nhanh vì cô đang trên đường tới San Francisco.