- 3 -
Những lá thư của Amy hằng tuần đều đặn bay đến làm nhạt dần những điều hấp dẫn ở Mekoryuk. Julie biết thêm nhiều về vô tuyến, về những chiếc xe thể thao, những chiếc quần jean xanh, những bộ bikini, những chiếc bánh kẹp ngon tuyệt và cả những bức tường chăng thảm trong ngôi trường trung học nơi Amy sắp theo học. Mekoryuk không có trường trung học. Con cái các gia đình Eskimo khá giả được gửi vào đại lục để học lên cao, điều này thì bà Martha không thể kham nổi. Nhưng, cô nghĩ, nếu cô cưới Daniel, có lẽ Naka sẽ gửi cô đi học.
Qua mùa đông, bà Martha trở nên cáu bẳn với cô. Bà ấy cằn nhằn Julie về kiểu tóc ngắn của cô và luôn miệng chê bai Julie. Con bé đó vô lễ với cả bố mẹ nó - bà ấy cắm cảu - Nó hư đốn lắm. Đó là tất cả những câu nói của bà ấy trừ câu “Lối sống cổ truyền là tốt nhất” còn nghe được.
Sau đó, bà Martha giao cho cô làm những công việc chán ngắt trong các ngày nghỉ cuối tuần và không cho cô tham gia các hoạt động với bạn bè. Những đêm đông trong căn nhà bé nhỏ tối tăm trở thành những cơn ác mộng. Julie mong đợi những lá thư của Amy và tin điện của Naka.
“Bức điện” đến thật đột ngột. Một buổi sáng tháng Sáu, Julie đang thay đồ chuẩn bị đi mua sắm thì ông Chủ tịch Phòng Quan hệ với người da đỏ tại Mekoryuk xuất hiện trước cửa. Ông ta báo rằng Naka vừa gửi thư tới đề nghị Julie tới ngay Barrow để làm lễ cưới với con trai mình.
- Giờ cháu đủ mười ba tuổi rồi. - Ông Chủ tịch nói. - Trong các hồ sơ tôi giữ có bản cam kết về việc này do Kapugen và Naka cùng ký nhận.
Bà Martha lắp bắp và thì thào vào tai cô rằng cô có thể từ chối nếu cô muốn.
- Lối sống cổ truyền là tốt nhất. - Julie nói khiến bà Martha không thể phản đối gì được.
Ngày hôm sau Cục Quan hệ với người da đỏ bố trí ngay tàu xe cho cô và Julie gói ghém mấy thứ đồ dùng của mình vào một chiếc túi da nai sừng tấm rồi cùng bà Martha đi bộ tới sân bay. Bà già lê bước phía sau, cố ý đi thật chậm và đến khi họ đến sân bay thì bà ấy khập khiễng.
- Tao sẽ làm được gì khi bị què mà vẫn phải bò ra khỏi giường? - Bà ấy cắm cảu.
Julie định nhắc bà ấy nhớ rằng cách đây mấy tiếng bà ấy còn rất khỏe nhưng không còn đủ thời gian nói gì thêm ngoài mấy lời tạm biệt. Người phi công đỡ cô lên khoang lái tối mờ và chỉ cho cô cách thắt dây an toàn.
Cô dè dặt nhìn cái ghế bọc nệm, những ngọn đèn trên nóc, cánh cửa để ngỏ dẫn vào buồng lái - sau đó cô nhắm nghiền mắt lại. Cô vẫn sợ rằng máy bay có thể không cất cánh thật. Tiếng động cơ gầm lên, máy bay chuyển động và mấy phút sau, mở mắt ra, cô chỉ còn thấy những ngôi nhà ở Nunivak nhỏ như những hạt đậu, hòn đảo cũng càng lúc càng bé lại. Khi nó chỉ còn to bằng một hột xoàn nổi trên mặt biển cô mới dám sờ tay vào ghế ngồi, vào tay ghế và nhìn dán xuống chân.
- Cháu đang lơ lửng trên không hả bác? - Cô hỏi người đàn ông ngồi bên cạnh.
Ông ấy nháy mắt, cô dựa đầu vào cửa sổ. Cô như một con đại bàng đang bay tìm những đỉnh núi cao mới. Một lúc lâu sau cô mới chịu ngồi thư giãn và điều băn khoăn của cô về loại tàu đi trên không diệu kỳ này biến thành sự tò mò.
- Cái gì giữ cho chúng ta lơ lửng ở đây thế ạ? - Cô lại hỏi người đàn ông.
- Hỏi gì mà ngớ ngẩn vậy cháu. - Ông ấy nói khiến cô đành im lặng.
Máy bay hạ cánh xuống Anchorage rồi Fairbanks. Ở đây, cô được gửi sang máy bay khác loại nhỏ hơn - đó là chiếc duy nhất bay tới vùng Barrow xa xôi.
Những dãy núi lởm chởm và những thung lũng vùn vụt trôi qua dưới chân cô; cây cối trở nên nhỏ bé và ngày càng thưa dần rồi biến mất hoàn toàn khi máy bay bay qua không phận vùng Dốc Bắc, viên phi công thông báo rằng họ đang bay qua chí tuyến Bắc. Những người da trắng ồ lên thích thú và thi nhau mở chai để chào mừng cái ranh giới tưởng tượng đó nhưng họ phải nhấp từng ngụm nhỏ một cách khó khăn vì các cửa sổ máy bay bỗng trắng xóa, máy bay đang đâm thẳng vào một màn sương mù mùa hè.
Họ bay vòng vòng trên bầu trời Barrow suốt một tiếng rưỡi đồng hồ rồi người phi công thông báo họ sẽ thử thêm một lần nữa để cố tìm lối thoát khỏi màn sương nếu không sẽ bay ngược lại Fairbanks. Julie dán mũi vào cửa sổ nên cô có thể nhìn thấy những đường mảnh dài như sợi chỉ có thể chỉ ra một lối thoát. Đột nhiên Barrow hiện rõ mồn một phía dưới, những ngôi nhà co cụm bên nhau tương phản với bờ biển đóng băng trông y hệt một đàn chim lẻ loi.
Máy bay hạ thấp độ cao xuống Barrow, Julie nhìn thấy phía xa có mấy tòa tháp cao của Hệ thống thông tin khẩn vùng xa như đánh dấu sự hiện diện của lực lượng quốc phòng tại Barrow, và có một con đường hẹp chạy men bờ biển dẫn tới một cụm nhà cao tầng. Người phi công cho biết chỗ đó thuộc về Cục Hàng hải và Đại học Alaska.
- Ở đó có phòng thí nghiệm nghiên cứu Bắc Cực để các nhà khoa học tìm hiểu về Bắc Cực. Khắp nơi trên thế giới, người ta đổ về đây để biết thêm nhiều về cuộc sống vùng lạnh giá.
Bánh máy bay chạm xuống đường băng, máy bay lăn bánh tới trước một ngôi nhà nhỏ bằng gỗ dựng trên lãnh nguyên, đó là trạm dừng cuối cùng. Julie bỗng cảm thấy lo lắng cho số phận mình nhưng cô chiêu đãi viên đã mang áo khoác đến cho cô và dẫn cô ra cửa. Cô nhìn xuống chỗ hai người mà cô đoán chắc đó là Naka và vợ ông - Nusan. Daniel ngấp nghé phía sau họ. Julie chậm chạp bước xuống thang, đi qua một khoảng trống dải đá dăm tới bắt tay Naka. Ông ấy khoác một chiếc áo choàng đồng phục của lực lượng Hải quân Bắc Cực, đôi mắt đen như cũng đang cười. Cô vụt nhớ tới đôi mắt ấy trong vòng quay những kỉ niệm đầy màu sắc của mình và cảm thấy an tâm hơn.
Nusan mặc một bộ kuspuck có điểm thêm những bông hoa bằng đăng ten kiểu Nhật Bản; bà cũng cười niềm nở đón Julie. Trước đây họ chưa hề gặp nhau. Nusan chưa bao giờ đến trại hải cẩu cả.
Sau đó Julie nhìn sang Daniel. Cô cảm thấy điều gì đó không bình thường trong nụ cười toe toét và đôi mắt ngơ ngẩn của anh ta. Như đọc được vẻ thất vọng thoáng qua trên nét mặt cô, Nusan vội vòng tay ôm choàng lấy cô. Bà ấy nói nhanh:
- Daniel có một số vấn đề nhưng nó là một thằng bé ngoan, là một công dân khá. Nó làm công việc dọn vệ sinh các chuồng thú ở khu thí nghiệm nghiên cứu. Nó sẽ là một người anh của con.
Nghe những câu nói đó, Julie thấy yên tâm và xua anh ta ra khỏi tâm trí mình. Anh ta sẽ chỉ là một người anh trai thôi mà. Điều đó thật tuyệt. Cô ngắm nhìn những ngôi nhà nhỏ được vây phủ trong những chiếc xuồng, những vỏ thùng dâu, những cái lốp xe, những cái xô, những chiếc ô tô hỏng cùng vô số túi xách, quần áo cũ rồi vui vẻ theo chân bố mẹ mới đi vào nhà.
Thế nhưng, Julie rất ngạc nhiên vì ngay hôm sau đã tổ chức đám cưới. Ông mục sư cùng hai người lạ mặt nữa đến nhà Naka; Nusan dẫn Julie vào bếp và đưa cô một bộ đồ bằng da hải cẩu đẹp tuyệt. Bà giúp Julie mặc quần áo mới. Daniel mặc một chiếc áo sơ mi màu cánh chả và chiếc quần tây. Người ta bảo cả hai đứng ở ngưỡng cửa thông giữa phòng khách và gian bếp rồi ông mục sư bắt đầu làm lễ. Daniel nắm chặt tay cô. Bàn tay anh ta cũng ướt mèm vì hồi hộp y như tay cô. Cô nhìn chăm chăm xuống sàn, trong đầu lởn vởn với câu hỏi không biết cha Kapugen có biết rằng Daniel ngớ ngẩn không. Cô tin rằng ông ấy không biết.
Buổi lễ vừa kết thúc, Daniel liền chạy tọt vào bếp và leo tót lên giường ngồi. Anh ta bắt đầu hí hoáy vặn một cái đài và lầm bầm gì đó một mình. Naka theo ông mục sư và hai người lạ kia ra ngoài còn Nusan lại ngồi vào bàn máy khâu.
- Bác cần hoàn thành nốt đôi ủng này cho một vị khách du lịch. Con cứ tự nhiên nhé.
Tiếng máy khâu lạch xạch, tiếng đài kêu ong ong. Julie bước ra ngoài và ngồi lên một thùng dầu rỗng. Phố xá im lìm vì đang là giờ nghỉ ngơi. Cô không rõ mình đã ngồi bất động vì sợ hãi trong bao lâu, chỉ biết là rất lâu. Thế rồi, có một cô bé từ phía sau một khối máy tàu thủy hỏng xuất hiện, tay dắt theo một bé gái nhỏ hơn.
- Đi nào! - Cô bé ra lệnh cho bé gái đang miễn cưỡng bước theo. - Đến giờ hất mền rồi đấy.
Chúng vội vã đi tiếp, những đứa trẻ khác cũng từ mọi hướng đổ dồn đến và tụ tập đông nghẹt trước cửa tòa nhà hội đồng. Mấy người đàn ông mở một tấm da thú rất lớn ra. Những người Eskimo và các vị khách du lịch cùng túm lấy các góc tấm da. Một đứa trẻ ở chính giữa, nhún người rồi lộn tung lên không khí cao tới sáu mét y hệt một quả đạn đồ chơi. Nó vừa cười ré lên thích thú vừa vung chân lên như muốn chạy rồi lại nhẹ nhàng rơi xuống.
Julie quay mặt đi. Mấy con điểu chúc tuyết bay vòng vòng quanh nhà, một con nhạn biển vùng Bắc Cực lao vút ra phía biển và những đợt sóng ì oạp vỗ vào bờ, cuốn băng tuyết dồn thành đống cao. Cô thấy nhớ nhà mình ở Mekoryuk ghê gớm. Cô gục đầu lên gối.
- Julie đấy à? - Một cô gái cao dong dỏng vỗ nhẹ vào cánh tay cô. - Tớ là Pearl Norton đây, Pami NalaGan.
Cô ấy nói bằng tiếng Innuit. Julie lắc đầu. Cô nói:
- Tốt hơn chúng ta nên dùng tiếng Anh để nói chuyện.
Pearl gật đầu và cười:
- Tớ vừa nói rằng: “Chúng mình tới quán giải khuây đi”.
Julie nhảy xuống đất rồi theo Pearl vòng qua một cái hòm vỡ, đi qua một cánh cửa đóng mở tự động và tiến vào một ngõ hẻm. Họ lặng lẽ đi qua một nhà nghỉ dựng bằng gỗ, ở đó có một vị khách du lịch đứng co ro bên cánh cổng vòm để tránh gió lùa; sau đó họ ra phố chính nơi có nhiều cửa hiệu. Băng qua đường, cả hai bước vào một lều quán giải trí rất lớn. Khi mắt Miyax đã quen với thứ ánh sáng lờ mờ, cô nhìn thấy hơn chục cô cậu choai choai, một số mặc quần jean áo khoác, một số mặc kuspuck và áo parka. Họ ngồi quanh các bàn nhỏ hoặc đứng túm tụm bên máy chơi bắn đạn và nghe nhạc mạnh. Pearl gọi một lon Coke và hai cái ống hút rồi họ ngồi xuống một chiếc bàn gần cửa.
- Tớ hiểu cậu cảm thấy thế nào Julie ạ. Năm ngoái tớ cũng đã lấy chồng. - Pearl lên tiếng. - Đừng bận tâm đến chuyện đó. Chẳng ai làm vậy đâu. Tất cả những gì cậu phải làm là bỏ nhà trốn đi và rồi mọi việc sẽ trôi vào quên lãng. Hầu hết những vụ thỏa thuận này đều nhằm mục đích kiếm lợi thôi. Tớ bảo đảm cậu đến đây là để giúp Nusan may áo parka và găng tất cho khách du lịch ấy mà.
Pearl ngả người ra sau:
- Đến ngày xửa ngày xưa cha mẹ còn không thể trói buộc con cái vào những cuộc hôn nhân kiểu này nếu chúng không thích nhau nữa là. Họ mặc cho số phận đưa đẩy.
Julie chăm chú nghe, đầu óc cô quay cuồng vì một mớ hỗn độn… nào là Daniel, nào đám cưới, những chiếc áo parka, những đoàn khách du lịch, những chiếc máy hát tự động chọn bài, những cái máy bắn đạn… rồi còn ly hôn nữa.
- Tớ phải đi thôi. - Julie nói. - Tớ có thể trò chuyện với cậu lần nữa không?
- Ngày mai tớ sẽ gặp cậu tại đây. Tất cả bọn thanh niên đều tới đây giải khuây.
Khi Julie bước vào bếp và thận trọng nhìn quanh thì Daniel đã đi đâu đó.
- Con có biết máy không? - Nusan lên tiếng. Bà đang ngồi trên sàn cắt một tấm da thỏ.
- Có biết chút ít ạ. - Julie vừa đáp vừa cởi áo choàng và cẩn thận gấp gọn lại.
- Con sẽ được biết nhiều điều nếu con ở với bác. - Nusan trả lời và chỉ vào một cái thùng lớn để trong góc. - Cuối tháng này chúng ta phải hoàn thành ba mươi cái áo parka cho hãng hàng không. Họ cần áo để cho khách du lịch đến đây thuê. Có vị khách nào biết cần phải ăn mặc thế nào đâu. Không có áo parka họ sẽ chết cóng.
Nusan xâu kim và khâu vắt một miếng da thỏ lên cổ một chiếc giày Mukluk[9]. Bà liếc nhanh Julie.
- Con sẽ khâu rất đẹp cho mà xem. Con vốn thông minh lại xinh gái nữa.
Mùa hè năm ấy Julie rất ít gặp Daniel; năm học mới đến cô càng ít gặp anh ta. Vì thế, đến tháng Mười, cô bắt đầu thấy thích nhà mới của mình. Cô nấu nướng và khâu vá với Nusan, buổi tối học bài, buổi chiều có vài giờ đến quán giải khuây gặp Pearl.