- 7 -
Đúng như cô dự đoán, việc săn bắn rất thuận lợi, ngay hôm sau đi kiểm tra bẫy cô đã bắt được ba con thỏ và hai con gà gô trắng. Mấy hôm liền cô bận rộn với công việc lột da và nấu nướng số thịt thú săn được.
Đến một đêm, trong khi Miyax khâu một chiếc ủng mới, Kapu liếm tai cô và chạy đi. Mặt trăng di chuyển hết một vòng quanh lều cô rồi lại bắt đầu vòng tiếp theo, tức là đã hết một ngày rồi mà nó vẫn không về, cô bèn ra ngoài tìm nó. Tuyết toàn màu xanh lam hoặc lục, những chòm sao sáng lấp lánh trên bầu trời và cả trên những lớp băng đóng trên mặt sông, cây cối. Tuy nhiên, không hề có dấu vết gì của Kapu. Cô định đi ngủ thì thấy phía đường chân trời có gì đó rung động, chính là bầy đàn của cô đang chạy trên bờ sông, Kapu dẫn đầu. Cô bò vào lều đánh thức Tornait dậy.
- Kapu đang dẫn đầu bầy đàn đi săn đấy. Thế là ổn cả rồi. Còn giờ chúng ta phải chia tay với chúng thôi.
Áng chừng đến giờ trời sáng, cô nhanh nhẹn dỡ lều xuống, xốc hành lý lên vai và bước lên mặt sông đóng băng để đi cho dễ hơn. Đi được một chặng khá dài, cô gặp những dấu vết của chồn gulo và lần theo dấu tới một cái hang. Ở đó, đúng như cô dự đoán, có một vài con thỏ và gà gô. Cô chất tất cả lên xe trượt và quay lại sông, vừa đi vừa nghe Tornait khe khẽ hát những bài ca của loài choi choi trong cái mũ trùm áo parka ấm áp. Cô khẽ đặt môi hôn lên cái mỏ xinh xinh của nó. Cả hai đang giúp đỡ lẫn nhau. Cô ủ ấm và cho nó ăn, nó tỏa hơi ấm ra cái mũ trùm của cô. Nhưng quan trọng hơn nữa tiếng hát của nó an ủi cô trong tình cảnh đơn độc và tuyệt vọng vì thiếu Kapu cùng đàn sói.
Giờ đây trên những chặng đường cô qua, những thùng dầu rỗng càng lúc càng nhiều còn dấu vết của loài chồn gulo càng thưa dần. Cũng như loài sói, chồn gulo là động vật hoang dã và khi Miyax thấy không còn nhiều dấu vết nữa, cô biết mình đang đến gần với con người. Một đêm, đếm thấy có tới năm mươi vỏ thùng trên một dải đất giữa sông, cô bèn dựng trại ngay đó. Cô cần dừng lại để suy tính kỹ càng xem nên làm gì sắp tới.
Nghĩ đến San Francisco, cô lại nhớ tới chiếc máy bay, những tiếng súng, máu đỏ, những mảnh thịt tươi và xác chết. Khi lấy kim ra ngồi khâu vá, cô nghĩ tới sự thanh bình và Amaroq.
Cô biết cô phải làm gì: Sống như một người Eskimo truyền thống săn bắt, đẽo khắc và ở cùng Tornait.
Hôm sau, cô lấy con dao đàn ông đẽo gọt những tảng băng. Cô chồng chúng lên nhau thành hình một căn nhà khá rộng rãi. Nếu cô định sống đúng như lối sống của người Eskimo trước kia, cô cần có một ngôi nhà chứ không phải là một cái lều tạm.
Khi ngôi nhà băng hoàn thiện, cô trải những tấm da xuống nền rồi ngồi xuống và lấy totem của Amaroq ra. Những ngón tay cô không ngừng vuốt ve nó khi đặt trong túi nên giờ trông nó thật rực rỡ và oai vệ. Đặt ở ngoài cửa, cô cúi xuống hôn nó; khi làm vậy cô cảm thấy một niềm hạnh phúc tràn ngập trong lòng. Cô biết rằng nó đang chăm sóc linh hồn cô.
Thời gian trôi đi, những luồng sáng kỳ ảo của Cực Bắc hiện ra rồi lụi đi, mặt trăng đã bao lần tròn rồi khuyết. Miyax thấy cuộc sống khá thoải mái. Cô đã thành một chuyên gia trong việc đánh bẫy các loài thú nhỏ và cô thấy rất ham thích công việc đẽo khắc. Hoàn thành hình đẽo những con sói non, cô lại tìm được một phiến đá ven sông và bắt tay vào đẽo nó thành hình một con cú. Cô vẫn luôn để tâm tới đàn sói nhưng không thấy chúng hú gọi. Cô vừa vui vừa buồn vì điều đó.
Miyax không lúc nào thiếu việc để làm. Khi không săn thú hay đẽo khắc thì cô nhảy múa, khâu vá, chặt gỗ hoặc chế tạo nến thắp. Thỉnh thoảng cô dùng chữ cái tiếng Anh tập đánh vần các từ Eskimo. Những từ ngữ tuyệt vời như vậy phải được bảo tồn mãi mãi.
Một đêm, cô bắt tay khâu một chiếc áo choàng nhỏ xíu làm bằng lông chim cho Tornait. Dạo này nó thường xuyên rùng mình ngay cả khi nằm gọn trong mũ trùm của cô khiến cô rất chú ý đến nó. Cô đính những chiếc lông chim vào một miếng da thỏ mỏng và cắt thành một chiếc áo khoác mang hình dáng con chim.
Đến lúc trăng lên, cô đã hoàn tất chiếc áo và đang thử ướm lên người Tornait thì cô nghe thấy có tiếng chân bước lạo xạo trên tuyết từ xa vọng lại. Tiếng chân mỗi lúc một to thêm, cô ló đầu ra ngoài và nhìn thấy phía sông có một người đàn ông đang chạy bộ bên cạnh chiếc xe trượt chó kéo. Tim cô đập rộn lên - một thợ săn Eskimo, một người của dân tộc cô. Chạy vội lên mặt băng trên sông, cô đợi chiếc xe trượt đến thật gần:
- Ayi! - Cô gọi.
- Ayi! - Có tiếng đáp lại và chỉ mấy phút sau, người thợ săn đã kéo xe trượt tới bên cô, vồn vã chào cô.
Vợ và con ông ta đang ủ mình trong những tấm da. Nhưng đôi mắt họ sáng long lanh dưới ánh trăng.
Giọng Miyax khàn đặc vì lâu không nói nhưng cô vẫn cố gắng dùng tiếng Eskimo chào hỏi họ rất thân mật và mời họ về nhà cô ngủ. Người phụ nữ rất mừng vì được nghỉ ngơi, bà ấy nói với Miyax bằng thổ ngữ của người Upik khi leo ra khỏi xe trượt. Hóa ra họ chưa hề được nghỉ ngơi kể từ lúc họ rời Kangik, một thị trấn ở Vịnh Kuk cửa sông Avalik, là con sông dưới chân họ lúc này.
Cuối cùng Miyax cũng biết được cô đang ở vị trí nào. Kangik ở sâu trong lục địa so với Wainwright và phải mất nhiều ngày đi từ Mũi Barrow tới. Nhưng cô cũng không bận tâm lắm.
- Tôi tên là Roland. - Người đàn ông nói bằng tiếng Anh trong khi dỡ những tấm đệm quẳng xuống nền ngôi nhà tuyết và trải rộng ra. - Cô sống một mình à?
Miyax mỉm cười nhìn ông ta tỏ vẻ như không hiểu và bỏ thêm một khúc gỗ sam cong queo vào bếp lửa. Khi củi bén lửa, hai vị khách sưởi lưng; Roland hỏi lại cô nhưng lần này bằng tiếng Upik, ngôn ngữ chính của cô. Cô trả lời rằng đúng vậy.
- Tôi tên Alice. - Người mẹ trẻ xinh đẹp nói.
Miyax tỏ vẻ thất vọng.
- Uma - người phụ nữ chỉ vào mình - Atik - bà ấy chỉ người đàn ông rồi nâng đứa nhỏ lên quá đầu và gọi tên nó là Sorqaq.
Miyax thấy những cái tên đó thật hay, cô vừa bắc nồi thịt ra khỏi bếp để thết các vị khách món thịt gà gô hầm nóng sốt vừa khe khẽ hát. Sau đó, cô đi tới chỗ túi ngủ của mình, ẵm Tornait lên và chìa nó ra trước mặt Sorqaq lúc này đang bám trên lưng mẹ trong lần áo kuspuck. Chú nhóc ló qua vai mẹ, toét miệng cười với con chim, vung vẩy chân và hụp xuống. Mải vui, nó quên mất rằng chân vẫn bị ôm và tụt dần xuống thắt lưng mẹ. Miyax cười khúc khích. Uma cũng phì cười và xốc nó lên, khuôn mặt tròn trặn của nó lại ló ra; nó nhoài người về phía con chim.
Miyax bỗng nhiên thấy cần trò chuyện. Nói rất nhanh bằng tiếng Eskimo, cô kể cho những vị khách nghe về dòng sông, các loài thú, chất đốt, những ngôi sao nhưng không đả động tới đàn sói hay quá khứ của mình. Họ chăm chú nghe và mỉm cười.
Ăn xong, Atik mới nhẹ nhàng, từ tốn kể chuyện, Miyax biết được rằng Kangik là một làng người Eskimo có một sân bay và một trường học cho con em họ. Một trạm điện đã được xây dựng và mùa đông ánh điện đã tỏa sáng các căn nhà. Ở đó có một số người mua được cả ô tô đi trên tuyết. Atik có vẻ rất tự hào về thị trấn của mình.
Trước khi đi ngủ, ông ấy còn ra ngoài cho đàn chó ăn. Sau đó Uma trò chuyện. Bà ấy nói rằng họ đang tiến về vùng núi để săn tuần lộc. Lúc Atik quay lại, Miyax cho ông ta biết rằng không cần tới tận các vùng núi - có một đàn khá lớn đang quần tụ không xa lắm phía thượng nguồn sông. Cô vạch sơ đồ lên nền nhà và chỉ rõ cho ông ta biết khu vực trú đông của tuần lộc nằm ở đâu. Ông ấy rất vui vì biết được điều này bởi vào mùa đông Vùng các Khe Suối rất khó lường, tất cả sườn núi đều có hiện tượng tuyết lở còn bão có thể ập đến bất cứ lúc nào.
Uma cho con bú rồi ủ ấm nó trong những tấm da và khẽ hát ru nó ngủ khi lửa bắt đầu lụi. Đầu bà ấy cũng gà gật, bà ấy đành chui vào ổ đã được Atik chuẩn bị cho.
Chỉ mình Miyax còn thức, những hình ảnh về Kangik đầy trong tâm trí cô. Cô sẽ đi tới đó và sẽ được khối việc. Có lẽ, cô sẽ dạy trẻ nhỏ cách bẫy thỏ, khâu áo parka và đẽo khắc; hoặc cô có thể đến sống với những gia đình cần có cô giúp đỡ. Thậm chí cô có thể làm việc ở cửa hàng. Cô sẽ sống ở Kangik như tổ tiên cô từng sống, hòa nhịp với các loài vật và khí hậu. Cô sẽ tránh xa San Fransisco nơi người ta được dạy cách tàn sát mà không cần biết lý do. Cô không thấy buồn ngủ hàng giờ liền.
Tornait thức dậy trước tiên và khẽ kêu. Miyax mặc quần áo, thái một mẩu thịt quăng cho nó. Nó mổ vội miếng thịt và nuốt chửng. Đứa bé choàng tỉnh, đánh thức luôn cả Uma, bà ấy tới bên nó, ẵm nó lên ngực và nựng nịu nó rồi lại nằm vào ổ lông ấm áp của mình. Trong nhà, nhiệt độ gần 0 độ C và bà ấy cũng không vội dậy làm gì.
Atik thức giấc, ngáp dài và nói to: “Đói quá rồi.” Uma bật cười, Miyax bắc nồi lên bếp. Atik mặc quần áo, đi ra xe trượt và đem vào thịt cừu, đậu hạt, bánh mì và bơ. Miyax đã quên không còn nhớ những thứ thức ăn thơm ngon này nên ngửi thấy mùi nấu nướng, cô ứa nước miếng. Ban đầu cô từ chối thức ăn Uma đưa mời nhưng nhìn thấy vẻ thất vọng của bà ấy, cô đành nhận ít thịt cừu và ăn rất nhỏ nhẹ, nhớ lại những cay đắng đã nếm trải ở Barrow.
Ăn sáng xong, Miyax thu dọn, Atik ra ngoài thắng chó vào xe còn Uma chơi với đứa nhỏ. Bà ấy vừa tung nựng nó vừa vui vẻ thủ thỉ kể về tình yêu của mình với Atik và rằng bà ấy đã vui sướng biết bao khi ông ấy quyết định đem bà cùng đi săn. Trong những dịp này, những người vợ Eskimo thường ở lại nhà vì nhờ những đồ ăn đông lạnh của người da trắng, chuyện nấu nướng không còn cần thiết nữa. Và phụ nữ cũng không còn phải thuộc da nữa vì tất cả thú đem bán cho du khách đều phải đưa tới Seattle để thuộc trực tiếp bằng nhiệt độ nóng và gửi đưa đi đóng gói.
Uma kể rời rạc. Atik lớn lên ở Anchorage nên rất ít hiểu biết về chuyện săn bắn vì cha ông là một thợ cơ khí. Sau khi cha chết, Atik được gửi tới sống với ông nội ở làng Kangik. Ông ấy trở nên ham mê săn bắn, câu cá và nhanh chóng thành thạo các việc nên khi ông nội mất, ông ấy được công nhận là người giỏi nhất trong tất cả các thợ săn còn sống người Eskimo.
- Kapugen đã dạy Atik biết nơi nào có hải cẩu sống và cách đánh hơi một con tuần lộc.
Miyax ngừng tay rửa nồi. Máu trong người cô nóng bừng bừng rồi lại lạnh ngắt. Cô từ từ ngoái lại chăm chú nhìn Uma.
- Cái ông Kapugen ấy sinh ra ở đâu? - Cô hỏi bằng tiếng Eskimo.
- Ông ấy chẳng bao giờ nói cả. Chỉ nhớ có một hôm ông ấy chèo chiếc thuyền kayak ngược sông, cập lại và dựng luôn một nếp nhà tại nơi ông ấy lên bờ. Tất cả những gì tôi biết là ông ấy từ biển Bering đến. Nhưng ông ấy có đủ các đức tính của người Eskimo: thông minh, can đảm, nhân ái - và chẳng bao lâu ông ấy thành linh hồn của làng Kangik.
Miyax không dời mắt khỏi đôi môi Uma đang thốt ra những lời kính phục đối với người đàn ông tên Kapugen. “U i ya Kangik?” - Cô hỏi.
- Đúng vậy, nhưng không phải ở trung tâm thị trấn là khu của những người giàu. Mặc dù Kapugen cũng rất giàu nhưng ông ấy lại sống trong một ngôi nhà đơn sơ quét vôi xanh ngay bên bờ sông. Nó ở phía thượng lưu, kề với vùng hoang dã nơi chỉ những người yêu cảm giác tự do mới lai vãng tới.
Run bắn lên vì hồi hộp, Miyax đề nghị Uma kể cho cô biết thêm nhiều chuyện nữa về cha Kapugen và Uma đã nhiệt tình kể lại chuyện mấy năm trước thị trấn và cư dân ở đó sống nghèo khổ, đói kém như thế nào. Loài hải mã vốn rất sẵn thì dần dần vắng bóng ở các vùng ven biển, cá voi xám cũng hiếm hẳn; hải cẩu thì rất ít và lại sống ở các khu vực xa. Vụ Quan hệ của người da đỏ đã phải trợ cấp cho mọi người dân còn những người này chỉ suốt ngày nốc rượu và quên hết những điều họ biết. Thế rồi Kapugen đến. Ông ấy tràn đầy kiêu hãnh, luôn ngẩng cao đầu. Ông lặn lội vào vùng hoang dã và bắt đàn ông giúp ông; phụ nữ chế biến lông thú thành sợi rồi dệt thành các loại găng, áo len và nơ tuyệt đẹp. Những thứ này đem bán cho người da trắng rất được giá, và chỉ một vài năm cư dân làng Kangik đã trở nên tự lập và khấm khá.
- Nhưng vẫn cần có lông tuần lộc và chồn gulo để làm quần áo và các loại trang điểm thêm. - Bà ấy nói. - Vì vậy Kapugen và Atik mùa đông nào cũng phải đi săn để cung cấp cho thị trấn.
- Năm nay Kapugen không đi. - Bà ấy nói tiếp. - Ông ấy để tôi đi thay. - Bà ấy mỉm cười, đặt đứa bé vào trong áo kuspuck, thắt chặt dây lưng và đứng dậy. - Kapugen rất thông minh và khỏe mạnh.
Miyax quay lưng lại phía Uma. Cô không muốn để bà ấy thấy người cô run lên mỗi khi nghe nhắc đến tên cha mình. Đối với cô ông đã chết, chuyện đó lâu đến mức giờ đây cô thấy hơi sợ khi biết tin ông còn sống. Nhưng cô cũng rất thích cái cảm giác ớn lạnh đã khẳng định với cô rằng điều đó hoàn toàn là sự thực.
Bên ngoài, đàn chó bắt đầu tranh giành phần ăn làm cây roi của Atik phải liên tục nhịp vun vút nghe như tiếng súng nổ. Miyax rùng mình khi nghe âm thanh đó. Cô nghĩ đến Amaroq và những giọt nước mắt ầng ậng dâng lên trong mắt cô nhưng không trào ra vì cô cũng đang nghĩ tới cha Kapugen. Cô phải tìm ông. Ông sẽ cứu được đàn sói cũng như ông đã cứu những người dân làng Kangik.
- Amaroq, Amaroq. - Cô bật hát thành tiếng trong lúc giũ mấy tấm da.
Uma ngạc nhiên quay nhìn cô.
- Cô có vẻ rất vui. - Bà ấy nói bằng tiếng Eskimo. - Tôi nghĩ chắc cô đang chuẩn bị sống tự lập nên gia đình cô cho cô ra ở riêng căn lều này. Cụ tôi, người nuôi tôi, cũng đã làm vậy nhưng tôi thấy rất khổ sở và buồn chán vì làm gì còn ai giữ tập tục này nữa.
Miyax lắc đầu:
- Tôi vẫn chưa phải là một phụ nữ.
Uma không thắc mắc gì thêm mà ôm ghì lấy cô. Sau đó, bà ấy đặt đứa nhỏ vào trong áo kuspuck rồi bước ra cửa cùng Atik đứng trong bóng tối đen đặc chỉ lờ mờ ánh sao. Giờ này là ban ngày nên trên cao chỉ có những chòm sao của Bán cầu Nam. Đàn chó nhay dây cương và chòng chọe lẫn nhau, Atik đang cố gắng ổn định chúng. Đột nhiên chúng chạy túa ra mọi hướng làm chiếc xe trượt hơi chuyển động. Atik bế xốc Uma và đứa nhỏ đặt vào trong xe và sau khi nói lời cảm ơn Miyax, ông cũng nhảy lên xe.
Cô vẫy tay chào cho tới khi bóng họ chìm hẳn trong đêm đen rồi chui vào lều, cuộn gọn túi ngủ lại và chất lên xe trượt của mình. Cô xốc hành lý lên lưng và ẵm Tornait lên. Cô cẩn thận mặc chiếc áo choàng lông chim cho nó, lồng qua hai cánh rồi buộc chặt lại ở phía sau lưng. Trông nó thật ngộ nghĩnh. Cô phì cười, chạm mũi vào mỏ nó và đặt nó vào mũ trùm áo parka.
- Amna a-ya, a-ya-amna. - Cô vừa hát vừa đi đôi giày tuyết vào rồi nhắm về phía sông, rảo bước trên mặt băng đang vặn mình răng rắc.
Cô đi được khoảng một dặm đường thì nghe thấy tiếng Kapu sủa. Cô biết chắc đó là nó. Giọng nó nghe không thể lẫn được. Cô hốt hoảng nhìn quanh. Cô hét lên:
- Ở lại ngay! Ở lại ngay!
Gió thổi bạt giọng cô đi và cuốn phăng về phía sông. Kapu chạy tới bên cô, theo sau là Móng Vuốt và bọn sói non. Tất cả đều mừng rối rít như rủ cô hãy theo chúng.
- Không được đâu! - Cô kêu lên. - Amaroq của riêng tao vẫn còn sống đây. Tao phải đi cùng Amaroq.
Cô tiến lên vài bước rồi quay lại trừng mắt đúng như con sói đầu đàn đã làm. Cả đàn lưỡng lự một lúc như không tin vào điều cô nói. Sau đó chúng tản đi và chạy về phía sông. Từ phía bờ sông vang lên tiếng chúng và sau đó chúng chạy biến.
Miyax đã nói những lời cuối cùng với đàn sói của mình.
Cô nghĩ đến cha Kapugen và vội vã đi tiếp. Cô sẽ nói gì với ông đây? Họ sẽ chạm mũi khi gặp mặt nhau ư? Chắc chắn ông sẽ ôm ghì lấy đứa con thương yêu của mình và để cô vào nhà, giúp ông thuộc da, khâu vá quần áo, nấu ăn. Giờ đây cô có thể làm được vô khối việc đỡ đần cha mình, một thợ săn lớn; cho tuần lộc ăn, bắt thỏ, vặt lông chim và thậm chí chế tạo được một số dụng cụ bằng nước đóng băng. Cô sẽ rất có ích cho ông và hai cha con sẽ sống như họ vẫn ao ước: sống với thời tiết lạnh lẽo cùng với muông thú.
Cô cố hình dung lại gương mặt cha Kapugen, cặp mắt màu đen và đôi lông mày hay nhíu lại rất thân yêu của ông. Chẳng biết đôi má ông có còn đầy căng và nhăn lại mỗi khi cười không? Chẳng biết ông còn để tóc dài và còn cao lớn lực lưỡng không?
Một luồng sáng xanh lục kỳ ảo phụt lên trời, không gian quanh nó sáng lấp lánh. Không gian như nứt vỡ, con sông như rên rỉ nhưng Miyax vẫn mải miết nhắm về phía có cha Kapugen.
Cô nhìn thấy làng Kangik từ rất xa. Có mấy ngọn đèn sáng rõ trong đêm đông ngay kề chiếc ghế băng đầu tiên kê bên bờ sông gần phía biển. Khi có thể phân biệt được những cánh cửa sổ và bóng tối bao trùm các ngôi nhà, cô kéo xe tới chiếc ghế băng thứ hai và dừng lại. Cô cần suy nghĩ trước lúc gặp cha.
Cô dựng lều và trải đệm, túi ngủ ra. Cô nằm sấp xuống, chăm chú nhìn vào làng. Có khoảng năm chục căn nhà gỗ. Một vài mái nhà khá rộng nhưng tất cả đều có hình dáng chữ nhật với mái nhọn. Kangik đang phủ trắng tuyết nên cô không nhìn được xem trên đường có rác rưởi không nhưng nếu có thì cô cũng chẳng bận tâm lắm. Nhà của cha Kapugen chắc phải rất đẹp.