← Quay lại trang sách

- 8 -

Làng có một con đường chạy suốt, có nhà thờ và nhà truyền giáo. Kế bên là các cửa hiệu, Miyax nhận thấy ngay nhờ có rất nhiều người đi ra đi vào. Cô lắng tai nghe. Có tiếng chó đàn sủa ở cả hai đầu làng và mặc dù cô biết trong làng có ô tô đi trên tuyết nhưng đây rõ ràng vẫn là làng dùng xe chó kéo - một ngôi làng của người Eskimo truyền thống. Điều đó khiến cô rất hài lòng.

Mắt cô lướt dọc phố. Có mấy đứa nhỏ đang nô giỡn trên tuyết nên cô đoán lúc này khoảng 10 giờ sáng - giờ trẻ em Eskimo được phép ra ngoài chơi. Vào giờ này mẹ chúng phải hoàn tất nốt những công việc quen thuộc buổi sáng của họ và có thời gian mặc ấm cho những đứa nhỏ rồi cho chúng ra ngoài. Thời tiết rất lạnh.

Phía dưới thị trấn, cô có thể nhìn thấy đàn hươu xạ mà Uma đã nói đến. Chúng quần tụ bên nhau gần cổng rào, đầu quay ra ngoài để để phòng sói và gấu. Tim cô đập thình thịch khi nhìn thấy loài “bò sữa” của Bắc Cực. Cô có thể giúp cha Kapugen chăm sóc chúng.

Có hai đứa trẻ từ trong một căn nhà chạy ra, bắc một tấm ván ngang một cái thùng rỗng để làm bập bênh rồi chia nhau đứng trên hai đầu ván. Chúng bắt đầu nhún nhảy, càng lúc càng bật cao nhưng vẫn rơi xuống tấm ván một cách chính xác. Miyax đã thấy trò chơi này ở Barrow và cô thích thú ngắm nhìn hai chú nhóc đang say sưa chơi đùa. Sau đó cô từ từ nhìn lên và chăm chú quan sát những căn nhà.

Có hai ngôi nhà quét vôi xanh gần kề vùng hoang dã. Cô đang cân nhắc xem đâu là nhà cha Kapugen thì cửa ngôi nhà nhỏ hơn bật mở và ba đứa nhỏ ào ra. Cô quả quyết ông sống trong ngôi nhà kia - ngôi nhà có cửa sổ, có phần phụ và hai cái xuống gỗ để trong sân.

Một phụ nữ từ trong nhà cha Kapugen bước ra và rảo bước trên tuyết. Đương nhiên rồi - Miyax nghĩ - Bố đã lấy vợ. Bố cũng cần có người khâu vá và nấu nướng. Nhưng mình vẫn có thể giúp bố chăm đàn gia súc.

Người phụ nữ đi qua nhà thờ và dừng lại trước cửa nhà truyền giáo. Bóng bà hiện rõ trong ánh điện một lúc rồi cánh cửa khép lại sau lưng bà. Miyax đứng lên. Đã đến lúc tìm cha cô. Ông đang ở nhà một mình.

Chân cô lướt băng trên tuyết khi cô chạy xuống đồi và băng qua đường nơi bọn trẻ đang đánh xe trượt vào một con chó. Chúng cười khanh khách và Tornait đáp lại những tiếng cười trong trẻo như tiếng chim của chúng từ trong mũ trùm.

Khi đến gần ngôi nhà quét vôi xanh, Miyax bắt Tornait trên tay và chạy thẳng tới trước cửa. Cô gõ cửa.

Có tiếng chân bước vang lên từ một góc xa của ngôi nhà. Cánh cửa bật mở và cha Kapugen sừng sững hiện ra. Ông vẫn đúng như cô còn nhớ - rắn rỏi nhưng đôi mắt đen rất dịu dàng. Cô không thốt được một lời nào, thậm chí là gọi tên ông hay một câu chào. Cô quá mừng khi nhìn thấy ông đến nỗi không thốt lên lời. Sau đó Tornait kêu chiếp chiếp. Cô chìa nó ra trước.

- Con có một món quà tặng bác. - Cuối cùng, cô lên tiếng bằng tiếng Eskimo. Chiếc áo choàng lông chim sột soạt và cái đầu màu hổ phách của Tornait thụt vào trong áo hệt một con rùa biển.

- Gì vậy con? - Giọng cha Kapugen vang vang, ấm áp như vọng lại từ bờ biển Nunivak nơi rộn vang tiếng chim và biển được định hình bằng lớp lông trên áo parka của ông. - Con vào nhà đi. Bác chưa bao giờ thấy một con chim như thế này. - Ông nói bằng tiếng Anh.

Miyax vẫn mỉm cười và lắc đầu. Ông nhắc lại lời mời bằng tiếng Upik. Miyax bước qua ngưỡng cửa vào nhà.

Căn phòng lớn rất ấm áp, sực nức mùi da thú và mỡ. Trên tường treo mấy ngọn lao, dưới cửa sổ là một chiếc trường kỷ dài bọc da. Chiếc thuyền kayak treo trên trần; chính giữa phòng là một lò lửa xinh xắn. Căn nhà của cha Kapugen ở Kangik này vẫn y như căn nhà ở trại hải cẩu. Vậy là cô đã về đến nhà!

Tornait sà xuống sàn, cái áo choàng lông chim trên người nó rực rỡ như một con gà gô đang khoe mẽ. Nó chui xuống dưới một tấm da.

- Nó mặc áo choàng ư! - Cha Kapugen bật cười và quỳ hẳn xuống nhìn con chim.

- Vâng ạ. - Miyax đáp. - Nó là linh hồn của các loài chim đấy ạ. Nó là một con chim choi choi lông vàng.

- Một con choi choi lông vàng, linh hồn của các loài chim ư? Cháu nghe thấy những chuyện đó ở đâu vậy? - Cha Kapugen đứng bật dậy và đưa tay lật chiếc mũ trùm áo parka của cô.

- Con là ai?

- Julie Edwards Miyax Kapugen.

Đôi tay to bản dày dạn sương gió nhẹ vuốt khuôn mặt cô.

- Eelie! - Ông thì thầm. - Đúng, đúng là con rồi. Con xinh đẹp hệt như mẹ con vậy. - Ông dang rộng hai tay.

Cô nhảy bổ vào lòng ông và ông ôm ghì lấy cô một lúc rất lâu.

- Khi họ gửi con đi học, - ông thủ thỉ. - Nunivak đúng là không thể chịu được. Bố ra đi và bắt đầu một cuộc sống mới. Năm ngoái bố đã có của ăn của để, bố quay lại đón con. Con đã đi mất rồi. - Những ngón tay của ông lùa vào tóc cô và ông lại ôm ghì lấy cô.

Cửa bật mở và người phụ nữ bước vào. Bà ấy hỏi bằng tiếng Anh:

- Chúng ta đón ai thế này?

Miyax nhận thấy khuôn mặt bà xanh xao và mái tóc hung hung. Một vẻ lạnh lùng toát ra từ người bà. Cha Kapugen đã làm gì thế này? Chuyện gì đã xảy ra đến nỗi ông phải cưới một phụ nữ da trắng? Cuộc sống mới của ông là vậy ư?

Cha Kapugen nói chuyện với người phụ nữ - bà ấy nói rất to còn ông rất nhẹ nhàng. Miyax đưa mắt nhìn khắp phòng một lần nữa. Lần này ngoài những tấm da thú và chiếc thuyền kayak, cô còn thấy những bóng đèn điện, một cái máy hát, những bức rèm bằng vải bông và qua cánh cửa thông sang gian phụ, cô thấy thấp thoáng mép một cái lò sưởi điện, một phin pha cà phê và những chiếc đĩa sứ. Trên tường có mấy giá sách và một bức tranh lồng khung vẽ cảnh vườn tược thôn quê nước Mỹ. Rồi mắt cô nhìn thấy một chiếc mũ sắt và mấy cặp kính râm để trên một chiếc ghế tựa. Miyax dán mắt vào mấy thứ đó cho tới khi cha Kapugen gọi cô.

- Ồ, thế này, - ông nói. - Giờ bố có hẳn một chiếc máy bay, Miyax ạ. Đó là cách đi săn duy nhất hiện nay đấy. Hải cẩu rất hiếm còn cá voi hầu như không còn nữa; nhưng những người ham mê thì vẫn đi săn bằng máy bay.

Miyax không còn nghe thấy gì nữa. Có lẽ nào như vậy chứ, có lẽ nào như vậy chứ. Cô không thể để như thế này được. Cô lập tức vùi sâu những dự định của mình trong tiềm thức.

- Miyax này, - bà dì nói với thứ tiếng Upik rất tồi, - dì dạy học trong trường học ở đây. Ngày mai bố và dì sẽ ghi tên nhập học cho con. Con có thể học đọc và viết tiếng Anh. Không biết tiếng Anh sẽ rất khó sống, kể cả trong thị trấn toàn người Eskimo này.

Miyax nhìn cha Kapugen. Cô nói khẽ bằng tiếng Upik:

- Con đang trên đường tới San Fransisco. Những người da trắng ở Wainwright đã bố trí phương tiện đi lại cho con. Ngày mai con sẽ đi.

Có tiếng điện thoại reo. Cha Kapugen nhấc máy trả lời và ghi vội cái gì đó. Ông nói với Miyax.

- Bố sẽ quay lại ngay. Bố quay lại ngay đây. Rồi bố con mình sẽ nói chuyện.

Ông ôm lấy cô. Miyax cứng đờ người và nhìn chiếc mũ sắt.

- Ellen, em dọn cho con đồ ăn đi. - Ông gọi và khoác áo choàng, một chiếc áo choàng đồng phục của quân đội ở Bắc Cực do Mỹ sản xuất. Ông kéo khóa một cách phấn chấn và đi nhanh ra cửa. Ellen đi vào bếp và Miyax chỉ còn lại một mình.

Cô chậm rãi ẵm Tornait lên, mặc áo choàng parka da hải cẩu của mình và đặt con chim vào trong mũ trùm. Sau đó cô bật đài; nó sột soạt rồi bắt được sóng âm nhạc, cô mở cửa và nhẹ khép lại phía sau mình. Thế là cha Kapugen đã chết hẳn trong cô.

Cô tìm thấy lều và hành lý trên chiếc ghế băng thứ hai bên sông phía trên thị trấn và chất tất cả lên xe trượt, khom người kéo đi. Cô đi ngược sông nhắm về phía căn nhà của cô. Cô là một người Eskimo và cô phải sống như một người Eskimo. Mùa lữ thử đã đến, thời kỳ của Miyax cũng đang đến. Cô sẽ xây những ngôi nhà tuyết trong mùa đông, một căn nhà cỏ trong mùa hè. Cô sẽ đẽo khắc, khâu vá và bẫy thú. Và đến một ngày nào đó, sẽ có một chàng trai như cô. Họ sẽ cùng nuôi nấng con cái, những đứa trẻ sẽ sống theo nhịp sống của thiên nhiên và muôn loài.

“Hải cẩu rất hiếm còn cá voi hầu như không còn nữa.” Cô nghe thấy tiếng cha Kapugen văng vẳng. “Khi nào cậu mới đến sống cùng gia đình mình ở San Fransisco?” Tiếng Amy gọi cô.

Miyax bước giật lùi, nhìn về phía thung lũng ven sông. Khi ánh sáng cuối cùng của làng Kangik biến mất, những ngôi sao hiện lấp lánh trên tuyết, cái lạnh càng tụt sâu thêm dưới mức 0 độ C. Tiếng băng thở rền vang, ầm ầm như nhịp trống rung khắp miền Bắc Cực.

Tornait kêu chiếp chiếp. Miyax ngoái đầu lại, cằm cô chạm vào nó và thấy nó mềm nhũn. Cô dừng lại và ẵm nó lên.

- Tornait. Mày có chuyện gì vậy? Mày ốm ư? - Cô nhanh nhẹn mở hành lý, lấy ra một ít thịt, nhai nát và mớm cho nó. Nó không muốn ăn. Cô bỏ nó vào trong áo parka và dựng lều lên ngay trong gió. Khi đã lấy tuyết bịt kín các chỗ trống, cô nhóm một đống lửa nhỏ. Căn lều sáng lên ấm áp. Tornait nằm im trong tay cô, đầu ghếch lên những ngón tay; nó khẽ kêu và nhắm mắt lại.

Hàng giờ sau cô mới chịu chôn nó xuống tuyết. Totem của Amaroq nằm trong túi cô. Những ngón tay cô lướt dọc thân nó nhưng cô không lấy nó ra. Cô cất tiếng hát ca ngợi linh hồn của Amaroq bằng thứ tiếng Anh tốt nhất cô có.

Hải cẩu hiếm hoi còn cá voi biến mất.

Linh hồn muông thú đang bỏ đi.

Amaroq, Amaroq, cha nuôi của ta.

Bàn chân ta nhảy vì người.

Đôi mắt ta nhìn vì người.

Ta suy nghĩ vì người,

Và vẫn đang nghĩ trong đêm ầm vang tiếng sấm này

Đã qua rồi thời kỳ của sói và người Eskimo.

Nhằm theo hướng nhà cha Kapugen, Julie rảo bước.

.

Tác giả Jean Craighead George

HẾT