← Quay lại trang sách

Chương 3 (3) Nàng dựa vào gò má của màn đêm-Tựa viên ngọc quý lấp lánh nơi tai thiếu nữ Etiopi-

Thành phố Siena đã ngủ say và không hề động lòng trắc ẩn. Những đường phố tôi chạy qua đêm ấy chỉ là những dòng suối im lặng đen ngòm và mỗi thứ tôi qua – xe máy, thùng rác, ô tô –đều bị ánh trăng mờ sương che phủ, dường như vẫn bị mê man trong tư thế xuất thần ấy từ một trăm năm nay. Mặt tiền các ngôi nhà quanh tôi đều như xua đuổi; các cửa ra vào không có quả đấm ở ngoài, từng cửa sổ đơn độc đóng chặt và có cánh chớp che ngoài. Bất cứ chuyện gì diễn ra trên các con đường về đêm ở thành phố cổ này, cư dân của nó đều không muốn biết.

Dừng lại một chút, tôi có thể nghe thấy – từ nơi nào đó trong bóng tối phía sau – tên côn đồ cũng bắt đầu chạy. Hắn không thèm che giấu việc đang đuổi theo tôi, bước chân của hắn nặng và không đều, đế giầy của hắn cào xước những tảng đá lát đường mấp mô, ngay cả khi đứng lại đánh hơi dấu vết của tôi, hắn thở vẫn nghe hổn hển như người không quen vận động. Dù vậy, tôi không thể vượt hắn, dù tôi có chuyển động nhẹ nhàng hoặc nhanh nhẹn đến đâu, hắn vẫn lần được ra và theo tôi tới từng góc phố, gần như hắn có thể đọc được ý nghĩ của tôi.

Bàn chân trần của tôi đau đớn vì đạp mạnh lên đá lạnh, tôi suýt ngã khi chạy qua một ngõ hẹp ở cuối phố hẻm, hy vọng có lối thoát ở đầu kia, tốt nhất là có vài lối. Nhưng chẳng có gì. Tôi rơi vào một ngõ cụt, mắc kẹt giữa những ngôi nhà cao ở mọi phía. Không có lấy một bức tường hoặc hàng rào để tôi trèo qua, không có thùng rác để tôi nấp đằng sau, và phương tiện tự vệ duy nhất của tôi là đôi giầy gót nhọn hoắt.

Đối mặt với định mệnh, tôi dồn hết sức cho cuộc chạm trán, Kẻ hạ lưu này muốn gì ở tôi? Ví tiền của tôi? Cây thánh giá trên cổ tôi? Hay là…tôi? Hay cũng như tôi, hắn muốn biết về kho báu của gia đình tôi, và trong tình hình này, tôi có thể bảo hắn rằng chẳng có gì quý giá hết. Không may, phần lớn bọn cướp – theo lời Umberto – không xử sự tử tế nếu thất vọng, vì thế tôi thọc nhanh tay vào xắc tay và lấy ví ra, hy vọng rằng các thẻ tín dụng của tôi trông rực rỡ đầy thuyết phục. không ai ngoài tôi biết rằng trong đó có khoảng hai chục ngàn đô la tiền nợ.

Lúc tôi đứng đó, đợi việc chắc chắn xảy ra, tim tôi đập thình thịch, chìm nghỉm trong tiếng một chiếc xe máy đang tới gần. Thay vì nhìn thấy tên côn đồ xuất hiện, đắc thắng ở lối vào ngõ cụt, tôi thấy một tia sáng kim loại lóe lên lúc chiếc xe máy vụt qua tôi và lao xuống đường khác. Nhưng thay vì chạy mất, nó bỗng dừng lại, lốp xe rít lên, tay lái rẽ ngoặt vài lần, vẫn không dừng ở bất cứ chỗ nào gần tôi. Đến lúc này, tôi mới nhận ra tiếng bước chân của kẻ đi giầy đế mềm đã vội rút lui bán sống bán chết xuống phố, thở hổn hển vì hốt hoảng, rồi biến mất ở một góc xa cùng mùi khói nồng nặc của chiếc xe máy lao theo vết hắn, giống như con mồi chạy trốn dã thú.

Sau đó là sự tịch mịch đột ngột.

Vài giây qua đi – có lẽ khoảng nửa phút – không thấy tên côn đồ cũng như chiếc xe máy trở lại. Cuối cùng, khi đủ can đảm thò ra khỏi phố hẻm, tôi không sao nhìn ra góc phố tiếp theo ở hướng nào. Tuy nhiên, lạc trong bóng tối rõ ràng đỡ tệ hại hơn việc xảy ra với tôi lúc nãy, và ngay khi tìm thấy bốt điện thoại công cộng, tôi gọi cho giám đốc Rossini hỏi lối về khách sạn. Không đếm xỉa gì đến việc tôi bị lạc và đang trong tình cảnh khốn khổ, lời đề nghị của tôi rõ ràng khiến ông hài lòng.

Lên một đường phố, tôi vừa đi được vài mét, một cái gì đó đập vào mắt tôi trong bóng tối đằng trước. Đó là chiếc xe máy và người lái xe, đỗ yên lặng giữa phố, đang nhìn thẳng vào tôi. Ánh trăng chiếu vào cái mũ bảo hiểm và các bộ phận bằng kim loại của chiếc xe, cho thấy hình ảnh một người đàn ông mặc đồ da màu đen, kính mũ bảo hiểm che kín mặt, ngồi đó rất kiên nhẫn đợi tôi xuất hiện.

Hoảng sợ là một phản ứng tự nhiên, nhưng tôi vẫn đứng đó, vụng về, tay xách giầy và cảm thấy vô cùng bối rối. người này là ai? Tại sao gã chỉ ngồi đó, nhìn tôi chằm chặp? Có phải chính gã đã cứu tôi khỏi tên côn đồ kia? Nếu thế, gã đợi tôi tới để cảm ơn chăng?

Nhưng sự biết ơn của tôi tắt ngóm ngay lúc gã bật đèn pha, chùm tia sáng chói lọi làm tôi quáng mắt. Lúc tôi giơ tay che mắt, gã khởi động xe, rú ga hai lần, rồi lao thẳng về phía tôi.

Quay ngoắt đi, tôi chạy xuống phố theo đường mà vẫn quáng mắt và tự rủa mình là đồ ngu. Dù gã là ai đi nữa, rõ ràng gã không phải là bạn bè. Rất có thể gã là một tay bất mãn ở địa phương, qua đêm bằng cái kiểu đáng buồn này, lái xe khắp nơi và hăm dọa những con người hiền lành. Dẫu tình cờ nạn nhân mới nhất của gã là tên lén theo tôi, điều đó cũng không thể làm chúng tôi trở thành bạn của nhau. Gã để tôi chạy một chút, thậm chí đợi cho đến lúc tôi rẽ ở góc phố đầu tiên, gã mới đuổi theo. Không phóng nhanh, hình như gã muốn tôi kiệt sức, chỉ đủ nhanh để tôi biết rằng tôi sẽ không thoát nổi.

Đó là lúc tôi nhìn thấy cánh cửa màu xanh lơ.

Tôi vừa rẽ thêm một góc phố nữa, và hiểu rằng tôi chỉ có chút ít cơ hội, trước khi ngọn đèn pha phát hiện ra tôi lần nữa, thì cánh cửa màu xanh lơ hiện ra ngay trước mặt tôi: cánh cửa xanh ở xưởng vẽ của người họa sĩ, khép hờ một cách kỳ diệu. Tôi không kịp dừng lại để cân nhắc liệu ở Siena có cánh cửa xanh lơ nào nữa không, hoặc đột nhập vào nhà người khác lúc đêm hôm khuya khoắt này có phải là ý hay không. Tôi chỉ kịp làm thế. Vừa lọt vào trong, tôi đóng sập cửa và dựa lưng vào đó, lo sợ lắng nghe tiếng xe máy chạy qua bên ngoài và cuối cùng tắt hẳn.

Phải thừa nhận rằng, khi chúng tôi gặp nhau trong vườn tu viện ngày hôm trước, tôi có ấn tượng rằng người họa sĩ tóc dài là một tay khá lập dị, nhưng khi bạn bị những kẻ hung ác săn đuổi qua những phố hẻm thời Trung cổ, bạn không thể chần chừ, kén cá chọn canh.

Xưởng vẽ của họa sĩ bậc thầy Lippi có phong cách rất lạ lùng. Trông nó như quả bom đã nổ của thần cảm hứng, và không chỉ nổ một lần. Trên cái nền nhà bình thường đặt rải rác những bức tranh pho tượng, sắp đặt kỳ quái ở khắp mọi nơi. Rõ ràng vị danh hoạ này là người có nhiều cách thức để truyền tải tài năng nghệ thuật của mình. Giống như một thiên tài về ngôn ngữ, ông nói bằng thứ tiếng phù hợp với tâm trạng, chọn dụng cụ và chất liệu với một kỹ năng tuyệt vời. Giữa mọi thứ ấy, một con chó đứng và đang sủa, trông như một sự hòa trộn ngộ nghĩnh của giống chó lông mịn với một con Doberman thuần giống.

- Chà! – Danh họa Lippi nói, nhô ra từ sau một giá vẽ ngay khi nghe tiếng chó sủa, - cô đấy à. Tôi đang tự hỏi bao giờ cô mới đến. – Rồi không nói thêm lời nào, ông biến mất. Lát sau, khi trở lại, ông xách theo một chai vang, hai cái ly và một ổ bánh mì. Thấy tôi không nhúc nhích, ông cười lúc cúc. – Cô phải tha lỗi cho Dante thôi. Nó luôn nghi ngờ đàn bà.

- Tên nó là Dante? – Tôi nhìn xuống con chó, nó đang tha tới cho tôi một chiếc dép lê cũ nhầy nhụa, như muốn xin lỗi theo cách của nó. – Kỳ quái thật, đấy là tên con chó của danh họa Ambrogio Lorenzo!

- Ờ, đây là xưởng vẽ của ông ấy mà. – Danh họa Lippi rót cho tôi ly vang đỏ. – Cô biết ông ấy ư?

- Ông định nói là ngài Ambrogio Lorenzo? Từ năm 1340.

- Tất nhiên rồi! – danh họa Lippi mỉm cười và nâng ly. – Mừng cô đã trở lại. Chúng ta hãy uống, chúc mừng những cuộc trở về may mắn. Chúng ta hãy uống vì Diana!

Tôi suýt nghẹn. Ông ta biết mẹ tôi ư?

Không để tôi kịp lắp bắp, nhà danh họa ngả người gần về phía tôi hơn, vẻ bí ẩn:

- Có một huyền thoại và dòng sông Diana, sâu, sâu thẳm trong lòng đất. Chúng ta không bao giờ tìm thấy nó, nhưng tương truyền, thỉnh thoảng lúc đêm hôm khuya khoắt, người ta tỉnh dậy giữa cơn mơ và có thể cảm nhận được nó. Cô có biết thời cổ đại, ở Campo có một ngôi đền thờ Diana. Người La Mã thi điền kinh, săn bò đực và quyết đấu ở đấy. Hiện giờ, chúng tôi có Palio thờ Đức Mẹ Đồng Trinh Maria. Bà là người mẹ ban cho chúng ta nguồn nước để chúng ta có thể vươn lên như những cây nho, thoát khỏi tăm tối.

Trong giây lát, chúng tôi chỉ đứng, nhìn nhau chằm chặp, và tôi có một cảm giác lạ lùng rằng nếu muốn, danh họa Lippo có thể kể cho tôi nghe nhiều điều bí mật về tôi, về số phận của tôi, về tương lai của mọi sự việc, những bí mật mà tôi phải mất nhiều cuộc đời mới tự khám phá nổi. Nhưng ý nghĩ ấy vừa hình thành đã tan ngay vì nụ cười say khướt của nhà danh họa lúc ông giật ly vang khỏi tay tôi và để xuống bàn.

-Đi nào! Tôi có một thứ muốn cho cô xem. Có nhớ tôi đã nói với cô rồi không?

Ông dẫn tôi vào một phòng khác, có thể nói căn phòng này còn nhồi nhét nhiều tác phẩm nghệ thuật hơn trong xưởng vẽ. Một phòng phía trong, không cửa sổ, rõ ràng dùng để làm kho.

- Đợi một chút, - danh họa Lippi đi thẳng qua đống lộn xộn đó và cẩn thận gỡ mảnh lụa che một bức tranh nhỏ treo trên tường phía xa. – Cô nhìn xem!

Tôi bước đến gần hơn đẻ nhìn cho rõ, nhưng khi thấy tôi đến quá gần, ông liền ngăn tôi lại.

- Cẩn thận. Tranh đã quá cũ rồi. Đừng thở vào nó.

Đó là bức chân dung một cô gái, một cô gái đẹp, cặp mắt to xanh biếc nhìn mơ màng về phía sau tôi. Hình như nàng buồn, nhưng đồng thời lại đầy hy vọng, bàn tay nàng cầm một bông hồng năm cánh.

- Tôi thấy nàng trông giống cô, - danh họa Lippi nói, hết nhìn nàng lại nhìn tôi, rồi lại nhìn bức tranh, - hoặc có lẽ cô giống nàng. Không chỉ đôi mắt, mái tóc, mà…còn một thứ khác. Tôi không rõ. Cô thấy sao?

- Tôi nghĩ đó là một lời khen mà tôi không xứng đáng. Ai vẽ bức tranh này vậy?

Nhà danh họa nghiên người về phía tôi, cười thích thú:

- Tôi tìm thấy nó khi tiếp nhận xưởng vẽ. Trong một cái hộp kim loại, giấu bên trong tường. Có cả một cuốn sách nữa. Một cuốn nhật ký. Tôi cho rằng…- Danh họa Lippi chưa kịp nói hêt, tóc gáy tôi đã dựng đứng và tôi biết chính xác những lời ông sẽ nói. - …Không, thực ra, tôi tin chắc chính Ambrogio Lorenzo đã giấu cái hộp. Nhật ký là của ông ấy. Và tôi nghĩ ông chính là người vẽ bức tranh này. Tên nàng giống hệt tên cô, Giulietta Tolomei. Ông đã viết cái tên đó đằng sau bức tranh.

Tôi trân trân nhìn bức tranh, không thể tin nổi đây chính là bức chân dung tôi đã đọc về nó. Từng li từng tí một đều mê hoặc như tôi hình dung.

- Ông vẫn còn giữ cuốn nhật ký ấy chứ?

- Không. Tôi bán rồi. Tôi nói chuyện đó với một người bạn, người đó lại nói với người bạn khác, rồi bỗng nhiên có một người đàn ông tới muốn mua nó. Tên ông ta là giáo sư…giáo sư Tolomei. – Danh họa Lippi nhìn tôi, nhếch lông mày. – Cô cũng là một Tolomei. Cô có biết ông ta không? Ông ấy rất già.

Tôi ngồi sụp xuống cái ghế gần nhất. Thực ra không phải là ghế nhưng tôi không quan tâm.

- Ông ấy là cha tôi. Ông đã dịch cuốn nhật ký sang tiếng Anh. Hiện nay tôi đang đọc. Cả cuốn nhật ký chỉ viết về nàng, - tôi hất đầu về phía bức tranh. – Giulietta Tolomei. Chắc chắn nàng là tổ tiên của tôi. Trong nhật ký, ông ấy đã miêu tả cặp mắt nàng….và chúng ở kia.

- Tôi biết mà! – Danh họa Lippi quay ngắt đi, đối diện với bức tranh, vẻ bối rối, hài lòng. – Nàng là tổ tiên của cô!- Ông cười vang và quay lại, nắm chặt vai tôi. – Tôi rất mừng là cô đến gặp tôi.

- Tôi không hiểu vì sao danh họa Ambrogio phải giấu các thứ này trong trường. Hay có khi không phải ông ấy, mà là một người khác…

- Đừng nghĩ ngợi nhiều thế! – Danh họa Lippi đe. – Nó sẽ làm mặt cô nhăn nheo đấy. –Ông dừng lại, sửng sốt vì cảm hứng bất ngờ ập đến, - Lần sau cô đến đây, tôi sẽ vẽ cô. Khi nào cô trở lại? Mai nhé?

- Thưa ông…- Tôi biết phải chộp lấy lúc này, khi ông còn đủ tỉnh táo chạm được tới thực tế. – Tôi không biết liệu tôi có thể ở đây thêm chút nữa hay không? Tối nay.

Ông tò mò nhìn tôi, dường như chính tôi chứ không phải ông đang biểu hiện nhiều dấu hiệu điên rồ.

Tôi cảm thấy phải giải thích:

- Có một người ở ngoài kia…tôi không biết sẽ xảy ra chuyện gì nữa. Gã này…- tôi lắc đầu. – Tôi biết nghe có vẻ dở hơi, nhưng tôi đang bị săn đuổi, và tôi không hiểu vì sao.

- Ôi chao, - danh họa Lippi nói. Rất cẩn thận, ông phủ mạnh lụa lên bức chân dung Giulietta Tolomei và đưa tôi trở lại xưởng vẽ. Ông mời tôi ngồi xuống ghế và đưa tôi ly vang, rồi ông cũng ngồi đối diện với tôi như thể ngồi trước mặt một đứa trẻ đang đòi kể chuyện. – Tôi nghĩ đúng là cô bị theo dõi. Hãy kể cho tôi nghe vì sao hắn đuổi theo cô.

Suốt nửa giờ sau đó, tôi kể hết mọi chuyện cho ông nghe. Lúc đầu tôi không định làm thế, nhưng khi đã bắt đầu, tôi không sao dừng nổi. Vị danh họa này có một điều gì đó và cách ông nhìn tôi – mắt ông lấp lánh phấn khích, thỉnh thoảng lại gật gù – làm tôi cảm thấy ông có thể giúp tôi tìm ra sự thật bị che giấu dưới những sự việc này. Nếu thật có người như vậy. Thế là tôi kể về cha mẹ tôi và những vụ tai nạn đã giết chết họ, bóng gió rằng có người tên là Luciano Allessandro có thể nhúng tay vào cả hai vụ. Sau đó, tôi miêu tả cái hộp đựng giấy tờ của mẹ tôi và nhật ký của danh họa Ambrogio, cũng như lời ám chỉ của ông anh họ Peppo về một kho báu chưa xác định tên là Mắt Juliet.

- Ông có nghe đến việc này bao giờ chưa? – Tôi hỏi, khi thấy danh họa Lippi cau mày.

Thay vì trả lời, ông đứng dậy, nghiêng đầu trong không khí một lúc, dường như đang lắng nghe một tiếng gọi xa xăm. Lúc ông dợm bước, tôi hiểu là phải theo ông, và chúng tôi đi vào một phòng khác ở tầng trên, qua một thư viện dài, hẹp, có nhiều giá sách võng xuống từ sàn tới trần. Ở đây, tôi có thể quan sát nhà danh họa đi tới đi lui nhiều lần, - tôi nhận ra – ông đang cố tìm một cuốn sách đặc biệt mà không mấy hy vọng tìm thấy. Cuối cùng, khi thành công, ông giật nó khỏi giá và giơ lên, đắc thắng.

- Tôi biết là đã trông thấy nó ở đâu đó mà!

Té ra là một cuốn bách khoa về những người vô cùng tàn bạo và kho báu huyền thoại – rõ ràng, hai thứ này luôn song hành với nhau và không thể tách rời. Khi nhà danh họa giở qua cuốn sách, tôi nhác thấy vài tranh minh họa chẳng khác gì các cuốn truyện cổ tích đã theo tôi cho đến bây giờ.

- Đây! – Ông gõ ngón tay vào một đoạn. – Cô nói cái này là gì? Không thể đợi đến lúc chúng tôi trở lại tầng dưới, ông bật ngọn đèn cầy lung lay, và đọc to đoạn đó lên, sôi nổi trộn lẫn tiếng Ý và tiếng Anh.

Chuyện kể rằng Mắt Juliet là một đôi ngọc bích lớn dị thường của Ethiopia, khởi đầu gọi là Cặp sinh đôi Ethiopia, do ngài Salimbeni ở Siena mua năm 1340 làm quà đính hôn cho cô dâu tương lai là nàng Giulietta Tolomei. Sau cái chết thê thảm của Giulietta, những viên ngọc này được khảm làm mắt một pho tượng vàng đặt trên mộ nàng.

- Nghe này! – Danh họa Lippi lướt ngón tay xuống cuối trang – Shakespeare cũng biết về pho tượng này! – Rồi ông đọc to những dòng sau ở đoạn cuối vở Romeo và Juliet, trong cuốn bách khoa trích bằng cả hai thứ tiếng Ý và Anh:

Tôi sẽ dựng tượng nàng bằng vàng ròng

Khi đó, thành Verona sẽ nổi tiếng vì tên nàng

Sẽ không bao giờ có pho tượng vào sánh được

Vì đó là sự chân thành và chung thủy của Juliet

Cuối cùng, khi đọc xong, danh họa Lippi chỉ vào bức tranh minh họa, và tôi nhận ra ngay. Đó là pho tượng một nam một nữ, người nam quỳ gối bế người nữ trên tay. Ngoại trừ vài chi tiết khác biệt, đó chính là pho tượng mà mẹ tôi ghi lại ít nhất hai chục lần trong cuốn sổ tay tôi tìm thấy trong hộp của bà.

- Trời ơi! – Tôi cúi nhìn bức tranh minh họa. –Nó nói lên điều gì về địa chỉ chính xác mộ của nàng?

- Mộ ai?

- Của Juliet, hoặc tôi nên gọi là Giulietta, - Tôi chỉ vào đoạn ông vừa đọc. – Trong sách nói rằng đó là pho tượng bằng vàng đặt trên mộ nàng…nhưng không nói thực ra ngôi mộ ấy ở đâu.

Danh họa Lippi gập cuốn sách và nhét hú họa vào một cái giá.

- Tại sao cô muốn tìm ra mộ nàng? – Ông hỏi, giọng ông bất đồ gây gổ. – Cô có thể lấy mắt nàng đi sao? Nếu không có mắt, làm sao nàng nhận ra Romeo khi chàng đánh thức nàng?

- Tôi không định lấy đi đôi mắt nàng! –Tôi phản đối. – Tôi chỉ muốn…nhìn thấy chúng thôi.

- Ờ, - vị danh họa nói, tắt ngọn đèn cây, - tôi nghĩ cô phải nói chuyện với Romeo. Tôi không biết còn ai khác có thể tìm ra nơi đó. Nhưng hãy cẩn thận đấy. Chốn này nhiều ma quỷ, và chúng không thân thiện như tôi đâu. – Ông cúi gần tôi hơn trong bóng tối, thích thú một cách ngớ ngẩn trong việc dọa dẫm tôi, và rít lên. Một tai họa! Tai họa cho cả hai gia đình các người!

- Điều đó thực sự nghiêm trọng, - tôi nói, - Cảm ơn ông.

Ông cười thân mật và vỗ đầu gối.

- Kìa! Đừng ngơ ngác như gà con thế! Tôi chỉ trêu cô thôi!

Xuống dưới nhà, sau vài ly vang, cuối cùng tôi cố hướng câu chuyện về Mắt Juliet

- Ý ông đúng ra là gì, - tôi hỏi, - khi ông nói Romeo biết ngôi mộ ấy ở đâu?

- Cậu ta ư? – Lúc này, trông ông rất lúng túng. – Tôi không chắc lắm. Nhưng tôi nghĩ cô nên hỏi cậu ta. Romeo biết nhiều hơn tôi. Cậu ấy trẻ trung. Còn tôi, hiện giờ tôi quên nhiều thứ lắm rồi.

Tôi cố mỉm cười:

- Ông nói như thể chàng vẫn còn sống vậy.

Vị danh họa nhún vai:

- Cậu ấy đến rồi đi. Lúc nào cũng vào đêm khuya…cậu ấy đến đây và ngồi ngắm nàng. – Ông hất đầu về phía căn phòng có bức vẽ Giulietta. – Tôi cho rằng cậu ấy vẫn yêu nàng, Chính vì thế tôi để ngỏ cửa.

- Thật sự thì, - tôi nói và nắm tay ông, - Romeo không tồn tại. không còn sống nữa. Đúng không ạ?

Danh họa trừng trừng nhìn tôi, gần như bực mình

- Cô đang tồn tại! Vậy tại sao cậu ấy lại không? - Ông cau mày. – Sao, hả? Cô cũng tưởng cậu ấy là một hồn ma ư? Hừ. Tất nhiên là cô chưa hề biết, nhưng tôi không nghĩ thế. Tôi cho rằng cậu ấy có thật. – Ông dừng lại giây lát, cân nhắc các lý lẽ thuận và chống, rồi nói, chắc nịch. – Cậu ấy uống vang. Hồn ma không uống vang. Phải tập, mà hồn ma không thích tập. Cô thật buồn cười. Đây, - ông rót đầy ly cho tôi thêm lần nữa, - uống thêm chút nữa đi.

- Thế, - tôi nói, ngoan ngoãn uống thêm một ngụm, - nếu tôi muốn hỏi chàng Romeo này vài câu…thì làm thế nào? Tôi có thể tìm anh ta ở đâu?

- Ờ - vị danh họa nói, nghiền ngẫm câu hỏi, tôi e rằng cô phải đợi cho đến khi cậu ấy tìm thấy cô. – Nhìn thấy sự thất vọng của tôi, ông nhoài qua bàn, chăm chú ngắm nhìn khuôn mặt tôi rất kỹ. – Nhưng này, - ông nói thêm, - tôi nghĩ có khi cậu ấy đã tìm thấy cô rồi. Phải. Tôi nghĩ là thế. Tôi có thể nhìn thấy điều đó trong mắt cô.