CHƯƠNG 26
Từ khi tốt nghiệp khoa Luật của NYU*, Amanda đã vài lần quay lại New York và cô luôn có nhiều cảm xúc đan xen với thành phố này. Manhattan là một chốn thăm thú tuyệt vời. Ở đó có những nhà hàng tốt nhất, những nơi mua sắm không chê vào đâu được, những viện bảo tàng tuyệt vời, nghệ thuật thời thượng, nhà hát và âm thanh ồn ã trong không khí cho thấy những thứ sôi nổi đang diễn ra. Nhưng người ta không tới nhà hát hay ăn ở nhà hàng bốn sao mỗi tối khi sống ở thành phố. Về cơ bản, Amanda vẫn là một cô gái vùng Oregon. Khi những háo hức ban đầu của chuyến thăm dần tan đi, cô thấy nhớ Portland với nhịp sống hiền hòa, những dãy núi phủ đầy tuyết và những ngọn đồi xanh ngắt yên ả. Lần này dù sao cũng là ngày đầu cô ở New York sau một thời gian, và cô thấy bản thân đang phấn khích trước những đám đông ồn ào và nóng lòng thưởng thức một chiếc sandwich kẹp thịt bò hun khói tẩm gia vị đúng điệu khi chiếc limo tới đón cô tại sân bay và đưa cô lướt ngang qua Carnegie Deli* trên đường tới gặp thân chủ của mình.
New York University) là tên gọi tắt thông dụng của trường Đại học New York.
Một nhà hàng nổi tiếng ở New York.
Tờ Tin tức Thế giới giấu Charlie Marsh trong căn hộ cao cấp thuộc sở hữu của tòa soạn nằm gần khu vực Vòng xoay Columbus. Người lái xe gọi điện trước để thông báo cho Dennis Levy biết Amanda đang đến. Trong khi đi thang máy lên, Amanda tự hỏi không biết Charlie Marsh ngoài đời có giống chút nào với Charlie Marsh trong tưởng tượng của cô không: một tên cướp táo tợn đã vứt bỏ một cách ngoạn mục thiên hướng bạo lực để có thể đem đến sự khai sáng cho nhân loại. Nhiều người bị thuyết phục trước sự chuyển hóa mạnh mẽ của anh ta từ một kẻ bất lương thành một vị thánh và không bao giờ tin anh ta giết viên nghị sĩ. Amanda đã từng bị mê hoặc bởi cuốn tự truyện của anh ta nhưng cô cũng đã học hỏi được nhiều về nhược điểm của những tay tội phạm chuyên nghiệp từ bố cô, đủ để vẫn giữ được óc hoài nghi hợp lí trước những tuyên bố của vị guru này.
Cánh cửa căn hộ chung cư thuộc sở hữu của tòa soạn báo Tin tức Thế giới mở ra ngay khi Amanda gõ cửa. Một thanh niên gầy nhom, trông như vừa mới bước vào tuổi trưởng thành, ló người qua khe cửa và lo lắng nhìn quanh hành lang sau vai Amanda như thể đang chờ cả đội cảnh sát đặc nhiệm ập tới.
“Cô Jaffe phải không?” anh ta hỏi bằng giọng lo lắng.
Amanda gật đầu. “Chắc anh là Dennis Levy.”
“Cô vào đi,” Levy nói, lùi lại chỉ đủ để Amanda lách qua và bước vào phòng khách rộng rãi nhìn thẳng ra khu Công viên Trung tâm. Có vài tiếng khóa cửa lách tách sau lưng cô. Một thoáng sau, Amanda thấy một luồng không khí lạnh buốt thổi qua phòng như thể một cơn bão đang tràn qua.
“Máy điều hòa nhiệt độ làm sao thế?” cô hỏi Levy khi có chống lại thôi thúc vòng hai tay ôm trước ngực.
Levy thu lu trong chiếc áo len dày, hất đầu về phía người đàn ông tóc vàng, dáng mảnh khảnh trong bộ đồ thể thao màu xanh sẫm đang ngồi ở sofa và chuyển hết kênh này sang kênh khác trên tivi màn hình phẳng lớn.
“Anh ấy bảo rất ghét cái nóng và bất kì thứ gì khiến anh ấy nhớ tới châu Phi.”
Hình dung của Amanda về việc Marsh trông như thế nào hoàn toàn dựa vào tấm ảnh in ở bìa sau cuốn sách Ánh sáng Nội tâm và những kí ức mờ nhạt về một kẻ đào tẩu trên những chương trình truyền hình. Marsh trông không có vẻ gì giống người tự tin, sôi nổi chuyên rao giảng về sự tri nhận bản thân mà cô từng nhớ. Trông anh ta hốc hác và nước da có cái vẻ thô nhám của những người ra nắng quá nhiều mà lại ít dùng kem chống nắng.
“Charlie, luật sư của anh đến rồi,” Levy nói.
Khi Marsh nghe thấy tên mình, anh ta quay đầu sang phía Amanda nhưng cả người anh và chiếc điều khiển từ xa vẫn hướng về tivi.
“Tôi không thể tưởng tượng nổi là có những kênh thế này,” Charlie nói. “Cô có biết là có thể xem phim cấp ba miễn phí tại nhà với hình ảnh có độ phân giải cao không?”
“Có, anh Marsh ạ. Tôi biết rõ,” Amanda vừa nói vừa nở nụ cười miễn cưỡng. Đôi mắt mở to của vị thân chủ nhắc nhở cô rằng anh ta đã sống cảnh tha hương mười hai năm nay.
Marsh tắt tivi đi và đứng dậy. “Sao tôi không có được bố cô làm luật sư nhỉ?”
Amanda chẳng hề tức giận. “Ông ấy đã đại diện cho bà Pope, đồng bị can của anh. Nếu ông cũng đại diện cho anh thì sẽ bị coi là xung đột về lợi ích.”
Marsh dò xét Amanda. “Trông cô trẻ nhỉ? Cô có đủ kinh nghiệm để xử lí một vụ lớn thế này không?”
“Anh nghĩ một tờ báo lớn như Tin tức Thế giới, với mọi tiềm lực, liệu có yêu cầu tôi đại diện cho anh không nếu họ không tin tôi đủ khả năng?” cô bình thản đáp lại.
“Phải, đồng ý. Nhưng cô có thể tham khảo ý kiến của bố cô, đúng không? Ý tôi là ông ấy vẫn có thể tham gia vào vụ này ngay cả khi không phải là luật sư của tôi?”
“Tôi luôn tham khảo ý kiến của bố tôi khi gặp những vụ phức tạp. Và ông cũng tham khảo ý kiến của tôi khi ông gặp điều tương tự. Vì thế, anh không phải lo lắng. Anh sẽ có hai luật sư mà chỉ mất tiền cho một người.”
“Được. Chỉ kiểm tra thôi. Đừng có buồn nhé. Mạng sống của tôi đang gặp nguy hiểm mà.”
“Tôi rất hiểu điều đó. Nghe này anh Marsh, anh là thân chủ và ý anh là quan trọng. Nếu anh không thoải mái khi tôi là luật sư của anh thì anh hoàn toàn tự do thuê người khác.”
“Không, không, ổn mà. Tôi chắc chắn là cô rất giỏi. Tôi chỉ hi vọng được cha cô bào chữa vì ông ấy đã giúp Sally thoát tội. Nhưng cô cũng được mà.”
“Vậy là giờ chuyện ấy đã xong, còn nhiều thứ phải bàn bạc, vì vậy chúng ta nên bắt đầu thôi, chỗ nào thích hợp để nói chuyện nhỉ?”
“Chúng ta có thể bàn bạc ngay tại đây,” Dennis Levy nói. Amanda nghe thấy sự háo hức trong giọng anh ta và quyết định rằng không thể trì hoãn việc thiết lập một số nguyên tắc cho tay phóng viên này.
“Anh Levy, anh không thể ngồi cùng khi tôi và anh Marsh trao đổi.” ,
“Ồ, cô không cần lo đâu, tôi đứng về phía Charlie mà. Và đừng quên là cuốn sách tôi sắp viết càng chân thực thì sẽ càng bán chạy, như vậy mọi người đều có lợi.”
“Có thể như vậy, nhưng anh Marsh sẽ mất đặc quyền luật sư - thân chủ nếu bên thứ ba có mặt trong cuộc trò chuyện của chúng tôi. Điều đó có nghĩa là bên công tố quận có thể buộc anh phải khai với bồi thẩm đoàn mọi điều mà anh Marsh chỉ tiết lộ riêng cho tôi. Tôi không thể để điều đó xảy ra.”
“Cô không hiểu rồi. Đây sẽ là một câu chuyện đình đám.
Chúng ta đang nói tới chuyện giải thưởng báo chí đấy. Và cô sẽ thu hút được sự quan tâm từ phía công chúng nhiều không thể tưởng, vậy sao không cho tôi một cơ hội đi?” Levy cười vẻ bí hiểm. “Ai mà biết được chuyện gì diễn ra trong căn phòng này nếu không ai nói ra?”
“Tôi biết,” Amanda nói, “và tôi sẽ không nói dối, nếu được hỏi về việc anh có mặt trong cuộc nói chuyện của chúng tôi hay không. Anh là phóng viên. Tôi hiểu anh mong muốn có được một câu chuyện như vậy nhưng cuộc sống của anh Marsh đang bị đe dọa và tôi sẽ không làm bất kì điều gì tổn hại tới anh ấy. Anh không thể ở đây khi chúng tôi nói chuyện. Anh hiểu được điều đó chứ?”
Mặt Levy đỏ rần lên trong khi Amanda nói.
“Được thôi, được thôi, nhưng cô sẽ cho tôi biết những điều không gây tổn hại tới vụ này chứ?”
“Dĩ nhiên, tôi sẽ cố gắng để anh biết thông tin và tham gia cùng chúng tôi càng nhiều càng tốt,” cô nói để xoa dịu Levy, “nhưng anh Marsh vẫn là ưu tiên hàng đầu của tôi.”
“Này Dennis,” Marsh xen vào, “anh giúp tôi một việc được không?”
“Được chứ Charlie,” Levy đáp, nóng lòng muốn làm hài lòng người nắm giữ nguồn sống của mình.
“Tôi đang chết đói đây. Anh có thể ra ngoài và kiếm cho tôi một chiếc bánh mì kẹp phô mai cùng thịt lợn xông khói được không? Đã mười hai năm rồi tôi chưa được thưởng thức chiếc hamburger nào cho ra hồn.”
Levy trông có vẻ thất vọng khi bị biến thành người sai vặt nhưng anh ta không nói gì.
“Và khoai tây chiên nữa nhé? Tôi muốn khoai chiên và coca.”
“Được thôi,” Levy miễn cưỡng đáp.
“Cô thì sao, Amanda,” Charlie hỏi. “Tôi gọi cô là Amanda aược không?”
“Tất nhiên là được.”
“Vậy thì cô có thể gọi tôi là Charlie. Thế cô thì sao? Cô có đói không?”
“Tôi chỉ thèm một chiếc sandwich lúa mạch đen với thịt bò hun khói nóng hôi hổi từ lúc đi ngang qua Carnegie Deli tới giờ.
“Xong nhé. Anh nghe thấy cô ấy gọi món gì rồi đấy, phải không Dennis?”
+
+ +
“Levy đúng là đồ ôn dịch,” Charlie nói ngay sau khi cửa đóng lại sau lưng tay phóng viên.
“Anh ấy chỉ quá hứng thú với câu chuyện của anh thôi.”
Marsh nhướn lông mày lên. “Cô có bị kẹt với anh ta hai mươi tư trên bảy suốt mấy ngày qua đâu.”
“Đồng ý,” Amanda nói khi đi về phía chiếc bàn đặt cạnh khung cửa sổ không có chấn song nhìn ra công viên. Marsh ngồi xuống cạnh bàn còn Amanda lấy từ trong cặp tài liệu ra bút và sổ tay.
“Vậy điều gì sẽ xảy ra với tôi khi tôi tới Oregon?” Marsh hỏi. Anh cố gắng tỏ ra bình thản nhưng ngôn ngữ cơ thể của anh lại cho Amanda thấy câu chuyện khác.
“Tôi đã thương lượng với Karl Burdett, công tố viên quận.”
“Không phải anh ta là người khởi tố Sally sao?”
Amanda gật đầu. “Và anh ta vẫn là công tố quận. Karl đã hứa sẽ không bắt anh khi anh tới đó. Anh sẽ được tự nguyện đầu thú tại một phiên điều trần bảo chứng.”
“Được, vậy tốt rồi. Và tôi có tiền để trả cho khoản bảo lãnh.”
“Trong các vụ án mạng thì không phải ai cũng có quyền được bảo lãnh, Charlie ạ. Quan tòa có thể ra phán quyết giam giữ anh không được bảo lãnh nếu Burdett thuyết phục được tòa rằng có những bằng chứng rõ ràng là anh đã giết nghị sĩ Pope.”
“Nhưng tôi không làm. Tôi vô tội.”
“Vậy sao anh lại chạy trốn?”
“Delmar đã túm lấy tôi ngay khi có tiếng súng nổ và kéo tôi lên xe. Anh ấy đã làm bổn phận vệ sĩ. Bọn tôi nhanh chóng khởi động xe và Delmar bắt đầu lái qua hết chỗ này chỗ nọ để cắt đuôi bất kì ai bám theo. Đến khi dừng lại thì bọn tôi đã ở xa câu lạc bộ đó tới hàng dặm và tôi đã có thời gian để suy nghĩ. Tôi từng bị ngồi tù; Pope đã đánh tôi vì tôi lòng thòng với vợ anh ta; và tôi đã chạy khỏi hiện trường vụ án. Tất cả những chuyện đó nói lên điều gì? Có tội, có tội, có tội là câu trả lời duy nhất tôi nghĩ tới khi đó. Tôi chắc chắn rằng mình sẽ là kẻ phải giơ đầu chịu báng nếu tự nộp mình, nhất là sau khi họ đã bắt Sally. Vì thế tôi tới Canada, kiếm mấy giấy tờ tùy thân giả và lên tàu thủy tới Batanga. Chuyện tiếp theo thì mọi người biết cả rồi.”
“Tôi thấy tò mò Charlie ạ. Anh biết là mình phải đối mặt với án tử hình chứ?”
Marsh gật đầu.
“Vậy sao anh lại quay về? Anh được an toàn ở Batanga mà.”
Marsh cười. “Amanda à, bị cột vào ghế điện còn an toàn hơn là ở cái chốn địa ngục toàn muỗi là muỗi ấy.”
“Sao anh không giải thích cho tôi hiểu nhỉ?”
“Nếu cô không phiền thì tôi không muốn nói tới chuyện đó.”
“Tôi hiểu là anh đã trải qua những chuyện chẳng mấy tốt đẹp ở đó...”
Marsh khịt mũi. “Cô chẳng hiểu được chuyện đó tệ đến mức nào đâu.”
“Điều đó có thể quan trọng với phiên điều trần bảo chứng. Anh đã chạy trốn khỏi đất nước này một lần và Burdett sẽ lập luận rằng đó là bằng chứng cho thấy anh có thể trốn tiếp nếu quan tòa cho phép bảo lãnh.”
“Tin tôi đi, tôi sẽ không bao giờ quay lại châu Phi, không bao giờ. Cô thậm chí sẽ chẳng bao giờ thấy tôi xem phim Tarzan nữa đâu.”
“Quan tòa sẽ không tin lời anh nói là anh sẽ không bỏ trốn nếu không có giải thích hợp lí.”
Marsh có vẻ bối rối và Amanda để anh suy nghĩ. Khi anh nhìn cô, trông anh đầy vẻ quyết tâm.
“Tôi sẽ chỉ làm điều này một lần này thôi, vì thế hãy ghi chép cho kĩ và đừng bao giờ hỏi tôi về chuyện ở Batanga nữa. Nhưng trước khi kể cho cô nghe về Batanga, tôi có một chuyện cần cô làm giúp.”
“Chuyện gì vậy?”
“Tôi có mang một thứ từ Batanga tới và tôi muốn cô giữ hộ tôi. Khi chúng ta tới Oregon, tôi muốn cô đặt nó vào két an toàn tại ngân hàng.”
Amanda cau mày. “Chính xác thứ đó là gì vậy?”
“Tôi không thể cho cô biết được.”
“Không phải ma túy đấy chứ?”
“Không, cô sẽ không làm gì phạm pháp cả, mà sẽ làm một việc quan trọng với rất nhiều con người vô tội. Tôi không thể nói gì hơn. Cô sẽ làm chứ?”
Amanda ngần ngại. Cô phải lấy được lòng tin của Marsh nếu muốn là người biện hộ hiệu quả của anh ta. Mặt khác, cô không muốn giúp đỡ và tiếp tay cho một vụ phạm pháp.
“Anh có thề là không yêu cầu tôi làm gì phi pháp không?” cô hỏi, biết thừa rằng thật là nực cười khi đưa ra câu hỏi như vậy với một kẻ tội phạm chuyên sống bằng nghề lừa đảo.
“Tôi thề.”
“Vậy thì được. Hãy đưa thứ đó cho tôi.”
Charlie vào phòng ngủ rồi quay trở lại ngay với một chiếc hộp được gói giấy nâu và buộc dây bên ngoài. Amanda bỏ nó vào chiếc túi xách to của mình.
“Anh đã sẵn sàng kể về châu Phi rồi chứ?” cô hỏi khi đã cất chiếc hộp đi.
Charlie thở dài. “Hãy làm cho xong chuyện này đi.”
Trong mấy giờ sau đó, Marsh kể cho luật sư của mình nghe về những năm tháng tha hương, kết thúc bằng cuộc tẩu thoát trong đường tơ kẽ tóc từ một bãi đất trống dùng tạm làm sân bay.
“Lạy Chúa, Charlie, anh thật may mắn là đã sống sót.”
“Tôi muốn cô giữ cho tôi sống sót như vậy.”
“Chắc chắn tôi sẽ cố hết sức, nhưng hãy cho tôi biết, nếu anh không giết Pope thì ai đã làm?”
“Tôi không biết.”
“Mọi người đều nói phát súng được bắn ra từ gần chỗ anh và khẩu súng được tìm thấy ở nơi anh đã đứng.”
“Nghe này Amanda, lúc đó rất tối, rồi lại còn thêm cả vụ đánh nhau của Werner và Delmar, rồi Pope thì đang gào thét với tôi và mọi người xung quanh la hét ầm ĩ, tất cả đều hỗn loạn và lộn tùng phèo cả lên.”
“Vậy anh đang nói rằng anh không hề nghĩ ra ai đã giết Arnold Pope?”
“Đúng là không hề.”
+
+ +
Amanda mệt bã người khi làm thủ tục nhận phòng tại khách sạn. Chuyến đi từ đầu này tới đầu kia đất nước và cuộc hỏi đáp nhiều giờ với Charlie khiến cô kiệt sức, và Dennis Levy lại chẳng làm cho công việc của cô dễ dàng hơn. Mấy lần anh ta cứ cố nghe trộm cuộc nói chuyện của hai người và cô đã tốn nhiều công sức để chống đỡ những nỗ lực liên miên của anh ta nhằm thuyết phục cô rằng sẽ không có vấn đề gì nếu anh ta được tiếp cận thân chủ của cô.
Amanda tắm nước nóng để xua tan cái lạnh như ở Bắc cực đã thấm vào tận xương trong phòng Charlie. Martha Brice để lại một lời nhắn mong được cập nhật tình hình. Amanda thông báo với bà ta trong khi nằm khoan khoái trên giường, cuộn tròn trong chiếc áo choàng tắm bằng bông của khách sạn. Cô những muốn gọi cho Mike Greene để có thể nói với anh những chuyện không dính gì tới vụ án nhưng nhớ ra là múi giờ ở New York và Oregon chênh nhau ba tiếng, có thể lúc này anh đang ở tòa án. Thay vào đó, cô gọi cho Karl Burdett để báo là Marsh sẽ bay tới Oregon vào thứ tư. Burdett đồng ý tổ chức phiên điêu trần bảo chứng vào thứ năm. Amanda đã lo Burdett không giữ lời hứa và cô thở một hơi nhẹ nhõm khi gác máy. Sau khi gọi cho Burdett, cô gọi về văn phòng để xem có chuyện gì cần lưu tâm không và nói chuyện qua với Kate Ross.
Sau khi kết thúc cuộc chuyện trò với Kate, Amanda thấy thoải mái hơn một chút và đã sẵn sàng suy nghĩ về ấn tượng đầu tiên cô có với Charlie Marsh. Chắc chắn anh ta không giả vờ tỏ ra nhẹ nhõm khi thoát khỏi Batanga. Những năm anh ta ở đó có vẻ như địa ngục vậy. Amanda không tài nào hình dung nổi nỗi kinh hoàng mà anh ta cảm thấy khi chứng kiến người tình bị giết một cách tàn bạo trong phòng tra tấn của Baptiste.
Marsh cũng có vẻ khó khăn và thiếu tự tin. Mặc dù anh ta đã cố khoác lên mình bộ dạng cứng cỏi nhưng Amanda có thể nói rằng anh ta đang sợ hãi, một phản ứng hoàn toàn hợp lí trong hoản cảnh của anh ta. Giúp cho Charlie được bảo lãnh sẽ không phải chuyện dễ dàng. Giữ cho anh ta tránh xa khu xà lim tử tù cũng vậy.
Điều khiến Amanda lo ngại nhất là liệu Charlie có lo lắng vì mình đã giết Arnold Pope con hay không. Trong hệ thống pháp lí của Mỹ, văn phòng công tố là bên duy nhất có bổn phận trình ra các chứng cứ buộc tội bị cáo tại tòa. Cơ quan này phải thuyết phục bồi thẩm đoàn tin chắc rằng bị cáo phạm tội như đã cáo buộc. Một bị cáo không bao giờ có nghĩa vụ phải chứng minh bất kì điều gì, vì thế, một luật sư bào chữa không cần biết thân chủ có thực hiện vụ án bị cáo buộc hay không. Điều đó không có nghĩa là Amanda không tò mò về sự có tội của thân chủ cũng như cô rất muốn biết thứ gì nằm trong chiếc hộp anh ta đưa cho cô. Sự cam đoan vô tội của Charlie rất thuyết phục nhưng anh ta là một kẻ lừa đảo, mà một kẻ lừa đảo thì chuyên sống bằng cách nói dối không chớp mắt.