CHƯƠNG 48
Amanda đưa cho Charlie số kim cương một giờ sau khi Tuazama gọi cho anh để thông báo địa điểm. Cầm số kim cương, Charlie quay về khách sạn và đợi tới nửa đêm.
Công viên Washington là một cánh rừng rộng 130 mẫu với nhiều điểm tham quan như Vườn thú Oregon, Vườn Hồng và Vườn Phong cảnh Nhật Bản, nằm trên dãy West Hills nhìn xuống thành phổ Portland. Ban ngày, công viên trông như một lễ hội sắc màu và là nơi để hàng nghìn du khách tới vui chơi. Vào ban đêm, nó hoàn toàn vắng lặng, là nơi buôn bán ma túy, nơi các đôi tình nhân hẹn hò và nơi những vụ bạo lực thi thoảng vẫn xảy ra. Vào nửa đêm, đó không phải là nơi dành cho những công dân tuân thủ hợp pháp mà là địa điểm lí tưởng để chuyển giao số kim cương trị giá hàng triệu đô la cho một sát thủ chuyên nghiệp mà không bị ai nhìn thấy.
Charlie không hề biết Tuazama ẩn nấp ở chỗ nào khi anh đậu xe vào bãi đỗ vắng tanh vắng ngắt gần khu Vườn Hồng và đi bộ dọc theo con đường chìm trong bóng tối tới chỗ khán đài vòng cung dạng bậc thang, nhưng chắc chắn rằng gã người Batanga kia ở gần anh đủ để bảo vệ số tài sản kia khỏi đám trộm cướp thường lang thang trong công viên ban đêm.
Suốt mùa hè, kịch và hòa nhạc được trình diễn trên bãi cỏ bao bọc bởi cây cối và các bụi cây thấp. Đêm nay, chỉ có duy nhất mảnh trăng khuyết soi sáng cho bãi cỏ. Charlie bước lên chiếc bục được dựng làm sân khấu, đúng như anh được bảo. Tim anh đập thình thịch trong lồng ngực. Anh nhắm mắt lại trong giây lát, cố kiểm soát hơi thở của mình. Khi mở mắt ra, anh đã thấy Nathan Tuazama đứng cách mình chỉ vài bước chân.
“Tôi đã mang chúng đến,” Charlie nói, giọng anh run run.
“Tôi biết là anh sẽ làm thế,” Tuazama đáp với vẻ tin tưởng trong khi hắn bắt đầu tiến về phía Charlie. Tuazama tiến được hai bước thì một người đàn ông xuất hiện giữa hai cái cây. Phát súng đầu tiên của anh ta găm thẳng vào ngực Tuazama. Gã sát thủ người Batanga lảo đảo lùi lại và đưa tay vào áo khoác để lấy súng. Thêm vài phát đạn nữa bắn vào hắn từ phía sau khi hai người đàn ông khác xuất hiện từ trong bóng tối. Những người nổi dậy đã sử dụng súng giảm thanh và những phát đạn nghe chỉ như những lời thì thầm trong đêm. Tuazama ngã bổ nhào xuống bãi cỏ và ba người đàn ông vây quanh hắn. Charlie tới nhập bọn với họ.
“Xin chào, Nathan,” Pierre Girard nói. Tuazama nhìn chằm chằm vào anh nhưng không trả lời. Máu từ từ trào ra trên môi hắn. “Mày có nhận ra tao không? Tao là anh trai của Bernadette và tao lấy làm tiếc là không có thời gian để bắt mày phải chịu đựng theo cách mà Bernadette đã trải qua.”
Pierre quay về phía Charlie. “Anh có muốn kết liễu hắn không?” anh hỏi.
Charlie lắc đầu. Pierre quay lại phía Tuazama và bắn vào giữa hai mắt hắn. Charlie rùng mình. Anh thấy nhẹ nhõm vì Tuazama đã chết nhưng anh không hề có cảm giác thỏa mãn chút nào. Giết Tuazama không thể làm Bernadette sống lại.
“Anh có mang số kim cương tới chứ?” Pierre hỏi.
Charlie đưa cho anh chiếc hộp.
“Cảm ơn anh,” Pierre nói. “Chúng tôi sẽ luôn luôn biết ơn anh đã chấp nhận rủi ro vì chúng tôi.”
“Tôi mới là người cần cảm ơn anh vì đã cứu mạng tôi ở đây và ở nhà Sally,” Charlie nói.
“Chúng tôi phải bảo vệ anh tới khi anh có thể đưa số kim cương. Chúng tôi cần chúng để mua những vũ khí sẽ hạ bệ được Baptiste.”
“Chúc may mắn ở Batanga.”
“Cảm ơn anh, Charlie. Chúng tôi sẽ đưa anh ra xe, sau đó chúng tôi phải đi,” Pierre nói. “Tôi sẽ luôn ghi nhớ những việc anh đã làm cho chúng tôi.”
Cổ họng Charlie nghẹn lại và nước mắt dâng đầy trong đôi mắt anh. “Tôi làm điều này vì em gái anh, Pierre ạ. Tôi làm điều này vì Bernadette.”
PHẦN KẾT Moonbeam
Tiếng ầm ĩ từ đám đông ồn ào trong phòng khách căn hộ penthouse của Martha Brice biến mất khi Amanda Jaffe đóng lại cánh cửa trượt dẫn ra sân hiên sau lưng cô và Brice. Đây là một tối mát trời ở Manhattan và dấu hiệu sắp có mưa đã giữ chân các vị khách ở lại trong nhà tại bữa tiệc nhằm ăn mừng sự kiện ra mắt cuốn sách Chuyến trở về bão táp. Cuốn sách đã nhận được nhiều lời khen ngợi và còn có cả lời đồn rằng đây là cuốn kế tiếp của tập hợp hai cuốn Máu lạnh và Helter Skelter * .
Hai cuốn sách nổi tiếng dựa trên những vụ án có thật.
Lúc chập tối, Amanda đã thấy Dennis Levy có những cử chỉ thân mật với một người mẫu xinh đẹp gần đây đã xuất hiện trên trang bìa một tạp chí chị em với tờ Tin tức Thế giới. Cô gái dường như đang lắng nghe Levy với vẻ say mê chăm chú nhưng Amanda ngờ rằng cô ta chỉ giả vờ thấy anh ta thú vị mà thôi. Dennis đã được phỏng vấn trên các mạng lưới truyền thông và được xem là cây bút kế cận lớn nhất thuộc thế hệ anh ta, điều đó có nghĩa anh ta đã chính thức giàu có và nổi tiếng, nhưng danh tiếng và tiền bạc không thể biến đổi một cách thần kì một gã ngốc thành người tinh tế, lịch thiệp. Dĩ nhiên điều đó chẳng hề hấn gì. Amanda chắc chắn rằng Levy sẽ lên giường với cô người mẫu trước khi đêm nay kết thúc. Một phụ nữ xinh đẹp có thể bỏ qua những nét tính cách không thích hợp nếu một nhân vật nổi tiếng có đủ tiền.
Và có thể Dennis xứng đáng được lên giường với cô người mẫu tối nay, như phần thưởng cho việc làm đúng đắn của mình. Anh ta đã trả lại bức ảnh vào buổi sáng sau ngày diễn ra phiên điều trần về quyền chăm sóc, mặc dù Amanda có thể thấy rằng quyết định đó không phải là dễ dàng với tay phóng viên trẻ tuổi. Nhưng sự hướng thiện của Levy có vẻ đã nhận được phần thưởng lớn gấp nhiều lần và giờ là lúc tới phiên Amanda làm việc tốt.
“Cô có chuyện gì mà không thể nói ở trong kia?” Martha Brice hỏi Amanda.
“Có vài thứ bà cần xem và tôi không nghĩ là bà đánh giá cao việc tôi đưa chúng cho bất kì ai khác ở đây.”
“Sao cô không hoàn thành nốt màn vừa khoe vừa kê đi để chúng ta có thể quay lại bữa tiệc. Ngoài này rét cóng đi được.”
“Được thôi, Moonbeam.”
Amanda chờ một phản ứng và cô đã không thất vọng. Khuôn mặt Brice nhợt nhạt không còn chút huyết sắc và cô ta nhìn chằm chằm vào Amanda một lúc trước khi lấy lại được bình tĩnh.
“Moonbeam ư? Sao cô lại gọi tôi bằng cái tên đó?”
“Chẳng phải đó là tên mà bà tự đặt cho mình khi đi theo Charlie từ Yale tới Oregon hay sao?”
Amanda lấy ra hai tấm ảnh từ trong túi xách. Bức đầu tiên là hình đoàn tùy tùng của Charlie được chụp tại buổi hội thảo ở Dunthorpe. Ngay khi Amanda đưa tấm ảnh cho Brice, đôi vai cô ta chùng xuống.
“Tôi không thích kiểu đầu cạo trọc này lắm.” Amanda nói.
“Cô lấy cái này ở đâu ra vậy?”
“Trong đống hồ sơ vụ án của Sally Pope. Sẽ không ai xem nó nếu Charlie không trở về để ra tòa.”
“Trông tôi trẻ quá,” Brice vừa nói vừa chăm chú nhìn bức ảnh.
“Chuyện xảy ra thế nào vậy?”
“Chuyện gì cơ?” Brice hỏi với vẻ thận trọng.
“Để bà không phải lo lắng, tôi xin nói là các nhà chức trách đã tin một nửa rằng Tony Rose là kẻ đã bắn Pope và tôi chẳng có lí do nào để thay đổi suy nghĩ của họ. Tôi không thể chứng minh là bà đã giết viên nghị sĩ, dẫu là vậy, và tôi cũng không có hứng thú nêu ra giả thuyết của mình với cảnh sát khi vụ án của Charlie đã được bãi bỏ.”
“Thế Charlie thì sao?”
“Anh ấy sẽ không hé miệng. Delmar Epps đã chết còn Werner Rollins thì không nhìn thấy bà. Tôi không biết Gary Hass thấy gì nhưng sẽ không ai tin hắn cả, kể cả khi hắn có nhìn thấy bà bắn Pope. Và tôi cũng ngờ rằng hắn có thể liên hệ giữa cô nàng hippie mà hắn thấy ở Oregon giữa bóng tối và chỉ trong vài phút từ mười hai năm trước với người phụ nữ thành đạt đang điều hành tờ Tin tức Thế giới”
“Cô nghĩ là tôi đã giết Arnold Pope ư?”
Amanda mỉm cười. “Không có ai nghe cuộc nói chuyện của chúng ta và bà cũng không phải thừa nhận điều gì, nếu bà lo lắng.”
“Tôi chẳng có gì phải lo cả. Tôi chỉ tò mò muốn biết vì sao cô cho rằng tôi là kẻ giết người.”
“Khẩu súng luôn luôn là vấn đề then chốt. Nếu Delmar Epps có mang nó khi trận đánh lộn bắt đầu thì rất nhiều người có thể bắn Pope con, nhưng nếu Epps để quên khẩu súng trong xe ô tô thì người đó chỉ có thể là bà. Mickey Keys, Charlie, Delmar Epps và bà đã cùng tới Câu lạc bộ Westmont trên chiếc limo. Mickey Keys nhớ rằng Epps đã đánh rơi khẩu súng khi mọi người đang trên đường tới câu lạc bộ. Điều đó đã làm Keys sợ chết khiếp vì nòng súng chĩa thẳng vào anh ta khi nó rơi xuống sàn xe và anh ta đã tưởng mình sẽ bị trúng đạn. Anh ta rất lo lắng và đã la hét với Epps. Keys nhớ rất rõ ràng rằng Epps đã để khẩu súng sang ghế bên cạnh sau khi bị anh ta la mắng nhưng không thể nhớ được chuyện gì xảy ra với nó sau đó và không ai nói được điều gì xảy ra với khẩu súng sau khi chiếc limo dừng ở Câu lạc bộ Westmont.
Keys không thể là người bắn viên nghị sĩ vì anh ta đứng sau Pope, gần lối ra vào câu lạc bộ.
Epps đã chết, vì thế anh ta không thể cho chúng ta biết anh ta có mang theo khẩu súng khi ra khỏi xe hay không, nhưng anh ta đã hành động theo bản năng bảo vệ Charlie khi Gary Hass mở cửa xe và có thể đã để quên khẩu súng trên ghế.
Werner Rollins nhớ là bà đã đứng cùng Charlie, Gary Hass, và Delmar khi Pope bị bắn. Nhưng không ai nói bà đã ở đâu từ lúc mọi người tới câu lạc bộ tới lúc viên đạn được bắn.”
Amanda đưa cho Martha Brice một bức ảnh khác mà cô lấy từ sở cảnh sát Portland, bức ảnh hiện trường vụ án được chụp vào tối hôm xảy ra án mạng.
“Đây là vòng xoay quay đầu xe trước lối ra vào của câu lạc bộ.” Cô chỉ tay vào một chỗ trên tấm ảnh. “Có người đã giẫm lên những luống hoa ở phía xa này. Khi chiếc limo dừng lại trước lối ra vào, người lái xe đã đi vòng sang phía cửa bên ghế phụ để mở nhưng Gary Hass đã làm việc đó trước. Werner Rollins cũng ở bên phía ghế phụ của chiếc xe. Delmar đã ra khỏi xe cùng phía khi Gary mở cửa xe. Charlie và người đại diện cũng ra khỏi xe ở phía đó ngay sau Epps. Không một ai trông thấy bà ra khỏi xe. Tôi cho rằng đó là vì bà đã ra khỏi xe từ cửa sau phía bên ghế lái trong khi mọi người mải tập trung vào vụ lộn xộn phía bên ghế phụ của xe. Có lẽ bà đã giẫm lên những luống hoa khi chạy khỏi vụ đánh lộn đó.
Charlie nói với tôi rằng bà đã lo lắng thế nào về việc có người báo với nhân viên quản chế là anh ấy đang giữ súng. Tôi cho là bà đã lấy khẩu súng nhằm giữ nó tránh xa khỏi Charlie để anh ấy không gặp rắc rối khi vụ đánh nhau giữa anh ấy và viên nghị sĩ nổ ra. Bà đã nhập bọn cùng Charlie và Gary Hass khi họ tới phía bên kia của vòng xoay quay đầu xe. Rồi bà nghe thấy nghị sĩ Pope đe dọa Charlie và chạy về phía anh ấy. Và bà đã bắn Pope là để bảo vệ Charlie.”
“Thật là một giả thuyết thú vị,” Brice nói.
“Tôi luôn thắc mắc vì sao Charlie lại chọn bà để liên hệ khi anh ấy cần tiền để thoát khỏi Batanga.”
“Anh ấy biết tôi sẽ trả tiền cho câu chuyện của anh ấy.”
“Còn cả chuyện này nữa. Bà đã gửi cho anh ấy bảy mươi lăm ngàn đô la ngay khi anh ấy yêu cầu. Đó là việc người ta có thể làm nếu lo lắng rằng ai đó có thể tiết lộ một bí mật đã được chôn giấu từ lâu. Nhưng, như tôi đã nói, bà không cần lo lắng. Charlie không hề có ý định tiết lộ bí mật của bà. Anh ấy muốn để mọi chuyện trong quá khứ lại phía sau. Và tôi không có nghĩa vụ giải quyết vụ sát hại Arnold Pope con. Khi vụ án của Charlie được bãi bỏ, tôi đã mất hết hứng thú với những chuyện đã xảy ra từ mười hai năm trước tại Câu lạc bộ Westmont.
Không có một từ nào trong bất kì bài báo nào viết về bà nhắc tới sự biến mất của bà khỏi Yale trong một thời gian ngắn và tôi cho là chẳng mấy ai biết về chuyến phiêu lưu tới Oregon của bà. Việc giết chết Pope hẳn phải là một trải nghiệm đáng buồn. Bà đã xuất sắc trong học tập sau khi trở lại và cũng xuất sắc cả trong sự nghiệp. Giờ thì vụ án của Charlie đã khép lại và tôi định sẽ hủy những bức ảnh này, vì tôi không nghĩ ra lí do nào để hủy hoại cuộc sống mà bà đã tự mình tạo dựng.”
Brice mỉm cười, “Nếu như trước đây tôi có chút nghi ngờ nào thì giờ cô đã thuyết phục được tôi rằng tôi đã có một quyết định đúng đắn khi bảo Charlie thuê cô làm luật sư. Cô là một quý cô thật thông minh.”
+
+ +
Charlie Marsh dõi theo Amanda và Martha Brice qua cửa sổ. Anh biết vì sao Amanda lại đưa Brice ra ngoài. Khi Martha quay vào, anh sẽ nói với cô rằng cô chẳng có gì phải sợ anh cả.
Trong suốt mấy tháng qua, Charlie đã suy nghĩ rất nhiều về cuộc sống của mình và đã đi đến kết luận rằng anh đang ở giữa ngã ba đường. Các cáo buộc về tội giết người đã được bãi bỏ và Amanda đã khiến Sở Thuế vụ Liên bang đồng ý rằng họ sẽ không theo đuổi bất kì cáo buộc nào ở cấp liên bang nếu anh trả đầy đủ các khoản thuế còn nợ. Lần đầu tiên sau nhiều năm, Charlie không còn gặp rắc rối với pháp luật.
Hai tuần trước đây, lực lượng nổi dậy đã tấn công vào Baptisteville và Jean-Claude đã trốn sang Lybia. Charlie tự hỏi liệu tên tổng thống đó có cử ai truy lùng anh để trả thù cho cái chết của Tuazama hay không, nhưng không ai xuất hiện cả và bây giờ thì Baptiste có nhiều vấn đề đáng lo ngại hơn để suy nghĩ.
Trên báo, cuộc sống của Charlie có vẻ khá ổn. Anh đã thoát khỏi Baptiste và vòng vây của pháp luật, anh là một nhân vật nổi tiếng, và anh vững vàng về tài chính. Với số tiền bản quyền tác giả cho cuốn sách và cả số tiền vẫn đang nằm trong tài khoản ngân hàng Thụy Sĩ của anh, anh vẫn ổn ngay cả khi trả hết các khoản nợ cho Sở Thuế vụ Liên bang.
Lẽ ra Charlie phải cảm thấy rất tuyệt. Thay vì vậy, anh lại thấy như đang trôi dạt trên xuồng cứu sinh mà vẫn chưa thấy bến an toàn nào trong tầm mắt. Một người sẽ làm gì nếu có mọi thứ mà bất kì ai có lí trí cũng mong muốn nhưng điều đó lại chưa đủ, vì đã mất đi người khiến cuộc sống của anh ta trở nên đáng sống? Sự giàu có và tiếng tăm mà anh đã đắm mình vào từ một thập kỉ trước giờ đã để anh lại trong sự lạnh lẽo. Và anh vẫn tiếc thương Bernadette. Anh sẽ không bao giờ quên được cô và anh hi vọng một ngày nào đó sẽ tìm được một người mà anh có thể yêu nhiều như từng yêu cô. Ít nhất thì anh đã biết rằng mình biết yêu.
Charlie cảm thấy mình đã có một khởi đầu hoàn toàn mới và anh cần một kế hoạch cho quãng đời còn lại của mình, chỉ có điều là ngay bây giờ thì chưa có. Nhưng anh muốn làm điều đó và lần này nó phải là một kế hoạch tốt không dính dáng tới dối trá và bạo lực. Anh không biết kế hoạch đó ra sao nhưng hi vọng rằng nó được soi sáng bởi thứ ánh sáng mà anh hi vọng đang hiện hữu trong anh.