CHƯƠNG 47
Wanda Simmons, quyền công tố quận Washington, là một công tố viên chuyên nghiệp trông rất nghiêm khắc với mái tóc quăn màu đỏ và bề ngoài luôn luôn lo lắng. Simmons có cuộc sống không tách rời khỏi các vụ án, và luôn luôn mặc những chiếc váy và áo khoác nhàu nhĩ màu xanh nước biển giống hệt nhau cùng những chiếc áo choàng trắng nhăn nhúm cũng y hệt nhau. Amanda ngờ rằng Simmons chịu đựng được khoảng thời gian dành cho việc mặc quần áo chỉ là vì bà ta không được phép bước vào tòa án mà không mặc gì.
“Ai sẽ nói cho tôi biết vì sao chúng ta có cuộc gặp bí mật này?” Marshall Berkowitz vừa hỏi vừa nhìn tới nhìn lui giữa Simmons và Amanda.
“Tôi sẽ bãi bỏ vụ kiện chống lại anh Marsh,” viên công tố quận nói với quan tòa. “Cả hai bên tham gia vụ này đều không muốn có sự rùm beng của giới truyền thông.”
Berkowitz nhướn mày lên ngạc nhiên khi thấy Amanda gật đầu bày tỏ sự đồng tình. Charlie Marsh, vốn được Amanda yêu cầu chỉ nói khi cô bảo, ngồi lặng lẽ bên cạnh luật sư của mình.
“Cô muốn cho tôi biết vì sao không?” quan tòa hỏi.
“Như tòa đã biết, Derrick Barclay, trợ lí của Arnold Pope cha, đã bị bắt trong khi chôn xác Tony Rose trong khu rừng thuộc về một công ty của Pope.”
Vị quan tòa gật đầu. Vụ bắt giữ Arnold Pope và Derrick Barclay đang là chuyện mà ai cũng nói tới.
“Barclay đã tỏ ra hợp tác từ khi bị bắt và nói với chúng tôi nhiều điều mà chúng ta không biết về sự dính líu của Pope cha trong vụ án này. Mười hai năm trước, Pope cha đã gây áp lực buộc Karl phải truy tố anh Marsh và con dâu ông ta. Karl không hề có ý định buộc tội bà Pope cho tới khi Pope cha ép buộc ông ta làm vậy. Barclay cũng nói rằng Pope cha muốn Rose bị giết vì tin rằng Rose đã giết con trai ông ta.
Tôi đã có dịp nghiên cứu các bằng chứng và thấy rất nhiều vấn đề nghiêm trọng trong vụ này. Tôi không hề biết là các chứng cớ đó thiếu cơ sở đến mức nào cho tới khi xem xong hồ sơ vụ án sau khi Karl bị sát hại. Vấn đề lớn nhất là Werner Rollins đã rút lại lời khai rằng đã nhìn thấy anh Marsh bắn nghị sĩ Pope. Rollins là nhân chứng duy nhất đặt hung khí giết người vào tay anh Marsh. Rollins nói với chúng tôi rằng anh ta đã khai mình nhìn thấy Marsh bắn viên nghị sĩ vì Karl đã đe dọa sẽ truy tố anh ta về vụ tấn công nhân viên bảo vệ nếu không chịu làm. Không có lời chứng của Rollins thì không có vụ kiện nào cả. Bất kì ai, bao gồm cả Tony Rose, đều có thể đã bắn viên nghị sĩ. Giờ thì Rose đã chết nên chúng ta sẽ không bao giờ biết được anh ta có tội hay không, nhưng khả năng anh ta là nghi phạm cũng nhiều ngang với anh Marsh và vài người đứng gần anh Marsh khi phát súng đó được bắn ra.
Rồi còn có cả vấn đề về mẩu giấy nhắn và những bức ảnh nữa. Mười hai năm trước, khi Sally Pope bị truy tố, giả thuyết của bên công tố là bà Pope và anh Marsh đã dẫn dụ nghị sĩ Pope tới Câu lạc bộ Westmont bằng cách gửi cho anh ta vài tấm ảnh khiếm nhã chụp cảnh hai người đang ở trong những tư thế cho thấy họ là tình nhân, và một mẩu giấy nhắn nặc danh trên đó ghi rằng anh Marsh và bà Pope sẽ cùng có mặt tại Westmont để tham dự một trong các buổi hội thảo của Marsh. Frank Jaffe đã đưa ra những bằng chứng cho thấy Pope cha đứng đằng sau vụ những tấm ảnh và mẩu giấy nhắn nặc danh đã khiến Pope con tới Câu lạc bộ Westmont.”
“Tôi chưa bao giờ được biết điều đó,” thẩm phán Berkowitz nói.
“Đó không phải là thông tin công khai. Trên thực tế, những bằng chứng và bản ghi chép tại phiên điều trần mà các thông tin đó được phơi bày đã được niêm phong. Amanda đã kể cho tôi nghe về bằng chứng đó ngay sau khi tôi được giao phụ trách vụ án của anh Marsh.
Tôi đã suy nghĩ rất nhiều về vấn đề này và kết luận rằng tôi sẽ có sự nghi ngờ thích đáng về việc anh Marsh có tội nếu ở trong ban bồi thẩm. Nếu đã cảm thấy như vậy thì tôi không thể tiếp tục vụ án với lương tâm thanh thản.”
+
+ +
“Tôi tự do rồi sao?” Charlie hỏi ngay sau khi anh và Amanda vào xe của cô.
“Mọi chuyện kết thúc rồi, Charlie. Dĩ nhiên không có thời hạn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với cáo buộc giết người. Về mặt lí thuyết, anh có thể bị buộc tội lại nếu có thêm bằng chứng mới chống lại anh. Nhưng tôi nghi ngờ chuyện đó, bởi lẽ cả hai chúng ta đều biết chuyện gì thực sự diễn ra tại Westmont.”
“Chuyện gì sẽ xảy ra bây giờ đây?” Charlie hỏi.
“Bất cứ khi nào anh sẵn sàng, phi cơ riêng của Brice sẽ đưa anh và Levy trở lại New York để anh có thể bắt tay vào cuốn sách của mình.”
“Levy sẽ rất tức giận khi biết vụ án đã kết thúc,” Charlie nói, kèm theo một nụ cười. “Anh ta tính đưa phiên xét xử của tôi và tình huống tha bổng đầy kịch tính vào chương cuối của cuốn sách.”
+
+ +
Tâm trạng lâng lâng của Charlie chỉ kéo dài tới lúc Nathan Tuazama lách mình vào thang máy khi thang dừng ở sảnh khách sạn.
“Xin chào, Charlie,” Tuazama nói khi cánh cửa bằng thép đóng lại nhốt Charlie bên trong cùng gã sát thủ.
Tim Charlie như nhảy vọt lên tận cổ họng. Anh đã quá mải mê với các sự kiện trong ngày hôm nay tới mức quên béng mất gã người Batanga này. Trước gã Tuazama đang đứng cách mình trong gang tấc, Charlie quá sợ hãi không nói nên lời. Tuazama cảm nhận được nỗi kinh hoàng của Charlie và mỉm cười khi nhấn vào một cái nút khiến thang máy dừng lại lưng chừng.
“Anh nghĩ là tôi đã quên anh rồi sao?”
“Anh muốn gì?”
“Tôi muốn số kim cương đó. Anh sẽ phải đưa cho tôi bây giờ.”
“Sao tôi phải làm vậy?” Charlie hỏi, làm ra vẻ can đảm nhưng không thuyết phục lắm.
“Nếu anh quyết định giữ chúng, Charlie ạ, tôi sẽ giết anh. Tôi cho là lập luận này rất thuyết phục. Mai tôi sẽ gọi điện để cho anh biết phải mang chúng tới đâu.”
Tuazama khởi động lại thang máy. Cửa thang máy mở ra ở tầng ngang dưới tầng mà Charlie ở.
“Đợi đã,” Charlie nói.
“Thời gian chờ đợi đã hết rồi,” Tuazama nói khi cánh cửa đóng lại và hắn biến mất khỏi tầm mắt.
Charlie run rẩy khi khóa cửa phòng mình. Ngay khi trấn tĩnh lại, anh gọi điện cho Amanda và bảo cô mang số kim cương tới văn phòng cô sáng mai. Cô không hỏi một câu nào, cho là Charlie muốn mang số kim cương tới New York và cô vô cùng sung sướng khi không phải giữ chúng nữa.
Ngay sau khi Charlie kết thúc cuộc gọi cho Amanda, anh gọi cú điện thoại thứ hai.