← Quay lại trang sách

Vụ Án Thứ 2 Tiếng Súng Lúc Nửa Đêm-Phần 1

Tuy thầy tắt điện thoại, nhưng tôi không hề cho rằng những lời mình nói khi nãy là vô nghĩa. Thực ra bản thân cơ thể con người vô cùng kỳ lạ. Đôi khi vết thương trông có vẻ rất nhẹ nhưng nó lại đủ sức lấy mạng con người, lại có những lúc vết thương nhìn có vẻ rất nặng nhưng người bệnh lại vẫn có thể sống sót. Khi tôi thực tập ở quê nhà từng gặp một trường hợp như thế.

* * *

Mặc dù, Lâm Đào chưa có bạn gái, nhưng tôi luôn cho rằng cậu ta là kẻ có mới nới cũ, mấy hôm trước, còn mân mê ảnh của Tô My, hôm nay đã bắt đầu chủ động 'bóc quýt' cho Trần Thi Vũ. Đương nhiên, sở thích ấy cũng áp dụng luôn trong công việc, gặp vụ án mới, cậu ta lập tức quên vụ án cũ. Tôi thì hoàn toàn trái ngược với cậu ta, tuy chúng tôi phá giải được vụ huyết án giết nhiều người, nhưng vụ án quái lạ không có chút manh mối nào liên quan đến ‘Kẻ dọn rác’ kia vẫn đeo đẳng trong đầu tôi, khiến từ đáy lòng dấy lên một cảm giác không lành.

“Tiêu rồi! Xém chút tôi quên mất vụ đó.” Lâm Đào nói xong, liền cười chữa ngượng, rồi lục điện thoại bấm gọi cho ai đó.

“Đợi chút!” Tôi kéo Lâm Đào lại: “Cậu không xem giờ là mấy giờ hay sao mà còn gọi điện thoại cho người ta?”

“Cá một bữa sáng nhé! Tôi cược là anh cả Ngô này dậy rồi.” Lâm Đào không chịu ngừng động tác bấm điện thoại: “Anh tin không? Không tin à?”

Điện thoại nhanh chóng được kết nối, Lâm Đào chỉ 'Ừm… à…' đáp lời, rồi tắt máy.

“Đi nào! Chúng ta đến Sở Cảnh sát.” Lâm Đào nheo mắt nói: “Trên đường anh đãi tôi bữa sáng đấy nhé! Vì anh thua cược!”

“Chưa đến bảy giờ mà anh Ngô đã đến văn phòng rồi ư?” Tôi ngạc nhiên. Trong ấn tượng của tôi phòng Giám định chữ viết là phòng nhàn rỗi nhất trong cả Sở Cảnh sát, chẳng ngờ mới sáng sớm tinh mơ thế này, người ta đã đi làm rồi, đúng là chẳng ai học được chữ ngờ.

Ngô Kháng năm nay bốn mươi lăm tuổi, là trưởng khoa Giám định chữ viết, tuy chức hàm không cao nhưng lại vang danh khắp cả nước. Anh ấy nói mình chỉ hợp làm chuyên môn, không hợp làm lãnh đạo, thế là ngày nào anh cũng trốn trong phòng thí nghiệm mải mê nghiên cứu đống văn kiện tài liệu. Thành quả mà anh đạt được từ các đề tài nghiên cứu trong lĩnh vực giám định chữ viết còn nhiều hơn bất kỳ giáo sư nào thuộc khoa Giám định chữ viết ở các Học viện Cảnh sát.

Nghiên cứu học thuật thường chia ra làm hai loại, những người theo nghề nghiên cứu học thuật mang tính lý luận thường đem lại cho người ta cảm giác cứng nhắc và bài bản, còn những người nghiên cứu học thuật mang tính thực tiễn thì thông thường đều rất đơn thuần. Ngô Kháng là một 'Lão Ngoan Đồng'[*] chính hiệu.

Tuy bốn mươi lăm tuổi chưa thể coi là già, nhưng đã ở tuổi trung niên mà Ngô Kháng hễ rảnh lại gọi điện rủ chúng tôi chơi trò World of Warcraft[*] hoặc Leagues of Legends[*], hành động đó có lẽ, chỉ dùng cụm từ 'tâm tính trẻ con' mới đủ sức hình dung mà thôi.

Vì anh thường chơi với hội thanh niên hơn hai mươi hoặc hơn ba mươi tuổi như chúng tôi nên các anh em trong tổ mới tôn trọng gọi anh là 'anh cả Ngô'. Bất kể xét về mặt học thuật hay xét về mặt nhân phẩm, anh ấy đều xứng đáng là anh cả của chúng tôi.

“Chuyện này thì các anh chưa hiểu rồi.” Hàn Lượng vừa nheo mắt lái xe vừa nói: “Trên Weibo thường nói thế này: Bạn tự nhiên tỉnh dậy lúc mấy giờ vào sáng sớm, sẽ nói cho bạn biết bạn thuộc thế hệ mấy X, ví dụ mặc dù tối hôm trước, tôi cố gắng ngủ sớm đến đâu thì sáng hôm sau, cũng phải tám giờ hơn tôi mới tỉnh tự nhiên mà không cần ai hay công cụ nào báo thức. Điều đó nói lên tôi thuộc thế hệ 8X, lớp người già như anh Ngô dậy lúc hơn sáu giờ sáng là phải rồi.”

“Vớ vẩn! Anh Ngô vẫn còn thanh niên lắm, ngoại hình và nội tâm đều tương đương chúng ta.” Tôi biết Hàn Lượng lắm lời nên cắt ngang: “Bữa sáng này đổi thành cậu đãi đấy nhé, nếu không tôi sẽ đi mách anh Ngô. Còn nữa, tôi cảm thấy nếu giờ mà chạm vào gối, đảm bảo tôi sẽ ngủ đến tận chiều, cậu bảo tôi thuộc thế hệ mấy X?”

“Quy luật này không hợp với những người ngủ ngày cày đêm như anh.” Hàn Lượng cười đáp.

“Tôi là bị bắt buộc trở thành cú đêm đấy nhé!” Tôi ngáp dài: “Ai không muốn đúng giờ trở về nhà ôm vợ ngủ chứ hả?”

Tôi huênh hoang kéo dài chữ 'vợ' làm Lâm Đào quay lại nhìn khinh bỉ, sau đó cậu ta liếc trộm Trần Thi Vũ đang lơ đãng ngồi ở hàng ghế sau.

Trong phòng thí nghiệm bày đủ loại dụng cụ dùng để kiểm tra mẫu chữ với các công dụng khác nhau: máy quét phân tích cao tần, máy phân tích thời gian viết chữ, máy kiểm tra con dấu,… đương nhiên, vật nổi bật nhất vẫn là màn hình tinh thể lỏng độ nét cao 45 inch để trên bàn ngay giữa phòng thí nghiệm. Lúc nghỉ trưa, chúng tôi từng nối PS2 chơi bóng đá trên màn hình cỡ đại này, sau đó bị thầy bắt ngay tại trận, từ đó mới không dám 'sử dụng của công vào việc tư' nữa.

Lúc này, trên màn hình hiển thị cảnh tượng luôn luẩn quẩn trong đầu tôi - ba chữ viết bằng máu ‘Kẻ dọn rác’.

“Đến rồi à?” Anh Ngô ngồi vắt chéo chân, chỉ vào màn hình nói: “Bức ảnh này chụp không tốt lắm, hơi rung.”

Tôi nhìn Lâm Đào bằng ánh mắt khinh bỉ.

Trần Thi Vũ nói xen vào: “Trong máy tôi có hình chụp cảnh này.” Nói xong, liền cắm dây kết nối máy ảnh của mình vào máy tính của anh Ngô.

Mắt anh Ngô bừng sáng: “Có thế chứ! Đúng là trình độ chuyên nghiệp! Bức này thì rõ rồi!”

“Thế anh có nhìn ra manh mối gì không?” Tôi sốt ruột hỏi.

Anh Ngô cầm hộp sữa đậu nành đặt trên bàn rít một hơi, chậm rãi nói: “Ba chữ này viết hơi ngoáy, nhưng nét chữ lại rất uyển chuyển. Điều đó cho thấy người viết chữ không thể là người có trình độ văn hóa thấp.”

“Đợi chút! Anh dùng từ ‘uyển chuyển’ ở đây là ý gì?” Tôi mở to mắt ngạc nhiên: “Chẳng lẽ anh có thể phán đoán được giới tính của người viết chữ sao?”

Anh Ngô lắc đầu: “Tôi không đánh giá cao việc phán đoán giới tính thông qua nét chữ. Tuy cũng có đề tài về phương diện này, nhưng đó đều là đề tài nghiên cứu chữ viết trên giấy, vì khi hạ bút trên giấy cũng chẳng khác nào đóng dấu. Nhưng, lấy chữ viết trên tường để phán đoán giới tính thì phần đa đều không chuẩn. Trong vụ án này, tôi chỉ có thể kết luận hung thủ có trình độ văn hóa nhất định. Điều tôi muốn nhắc nhở các cậu là dáng điệu viết chữ cho thấy khi viết ba chữ này, hung thủ rất ung dung.”

“Ung dung ư?” Tôi nhíu mày: “Điều đó chứng tỏ tố chất tâm lý của hắn rất vững, giết người mà không hề hoảng loạn sao?”

“Ừ! Cậu nói đúng một phần rồi đấy!” Anh Ngô nói: “Còn phần nữa, hung thủ không khom lưng, không ngồi xổm cũng không kiễng chân để viết.”

“Hả?” Mắt tôi sáng bừng lên: “Suy đoán này hay quá, như thế ta có thể phán đoán chiều cao của hung thủ.”

Tôi lấy điện thoại ra, giơ bút lục khám nghiệm tử thi và bút lục kiểm tra hiện trường sau mỗi lần khám nghiệm tử thi kết thúc.

“Thông thường khi một người viết chữ ở tư thế đứng, vị trí của chữ thường nằm ngang tầm giữa mũi và miệng của người viết.” Anh Ngô bổ sung: “Ba chữ viết bằng máu kia cách mặt đất bao nhiêu?”

“Một mét rưỡi.”

“Vậy phải cộng thêm hai mươi centimet nữa! Đó chính là chiều cao của hung thủ.” Anh Ngô nói.

Đại Bảo vân vê chòm râu ở cằm, nói: “Một mét bảy mươi, đó hẳn là một phụ nữ khá cao đấy!”

“Phụ nữ?” Tôi quay sang nhìn Đại Bảo: “Sao cậu biết là phụ nữ?”

Đại Bảo lắc đầu không nói.

Lâm Đào nhăn mày: “Với chiều cao như thế, mà là nam giới thì hơi thấp, nhưng nếu là nữ giới thì lại hơi cao. Bởi vậy, việc suy đoán chiều cao hung thủ trong tình trạng vẫn chưa phát hiện ra bất kỳ kẻ nào khả nghi như bây giờ thì chẳng có mấy tác dụng.”

“Những phương diện khác thì sao?” Tôi hỏi: “Anh có suy đoán gì về các phương diện khác không?”

Anh Ngô nói: “Vì dùng máu viết lên tường thì phần các nét giao nhau sẽ thường in chồng lên nhau, không giống như viết trên giấy còn có độ hằn xuống của mặt giấy. Bởi vậy, khó lòng phán đoán được thói quen viết chữ từ thứ tự đặt bút. Tuy nhiên, vẫn có thể phát hiện ra một vài quy luật từ thói quen viết nét chữ.”

“Anh nói vậy là ý gì?” Tôi khấp khởi mừng thầm.

Anh Ngô cười lớn vỗ vai tôi: “Chẳng ý gì cả! Tôi nghĩ nếu các cậu mang tập tài liệu mà hung thủ viết đến đây, nói không chừng sẽ có giá trị so sánh.”

Nếu thông báo tin này vào hậu kỳ công tác điều tra thì hẳn là một tin rất tốt, vì giám định chữ viết có thể coi là chứng cớ trực tiếp trước tòa án. Nhưng, biết tin này trong giai đoạn đầu điều tra thì chẳng có gì hay ho cả. Giờ chúng tôi giống như con mèo mù lang thang trên phố, không biết phải gom góp bao nhiêu may mắn mới có thể vớ được khúc cá rán thiu. Thời điểm hiện tại, hướng điều tra đang mông lung thế này càng chẳng thể bàn đến việc xác định kẻ tình nghi là ai. Vả lại từ giọng điệu của anh Ngô có thể ngầm hiểu dẫu có bút tích của hung thủ thì cũng chưa chắc đã so sánh và xác định được rằng chúng đồng nhất.

“Điều tôi quan tâm bây giờ không phải chứng cứ.” Tôi nói: “Chỉ cần có thể cung cấp phương hướng điều tra là tốt lắm rồi.”

Anh Ngô lắc đầu: “Chữ người này rất ngoáy, tôi không phát hiện ra đặc trưng nổi bật nào có thể dùng để loại trừ đối tượng một cách trực tiếp. Đương nhiên, khi viết chữ mỗi người đều có đặc trưng riêng, chỉ có điều hiện giờ, những thông tin mà tôi nắm được quá ít ỏi, chỉ có ba chữ. Mỗi ba chữ! Các cậu coi tôi là thánh à?”

“Nhân vật đẳng cấp thần thánh thì phải làm được những việc thuộc đẳng cấp thần thánh tí chứ!” Lâm Đào cười.

Anh Ngô nói: “Nếu lại xảy ra một vụ thuộc chuỗi án liên hoàn này, rồi cầm ba chữ kia đến đây, nói không chừng tôi sẽ phát hiện ra điều gì đó.”

“Lạy anh luôn!” Tôi suýt quỳ xuống vái sống anh Ngô: “Anh độc mồm vừa thôi! A di đà Phật!”

“Làm gì có chuyện nói đâu trúng đó thế được!” Anh Ngô nói giọng phớt đời: “Nếu tôi nói hai câu mà xảy ra án mạng thật thì tôi mới thực sự xứng danh nhân vật đẳng cấp thần thánh như các cậu vừa tôn vinh đấy!”

“Ôi thôi! Anh cả đừng nói nữa!” Lâm Đào nghiêm giọng nói: “Chuyện này cũng khó lý giải lắm, ví dụ như mỗi lần trưởng khoa Tần Minh nhà chúng ta mà nói nhàn thế, rỗi thế, thoải mái thế, chán thế thì y như rằng có án mạng xảy ra. Cái này người ta gọi là độc mồm độc miệng.”

“Không đùa với các cậu nữa! Các cậu đang đùa với lửa đấy!” Tôi trừng mắt nhìn họ, rồi nói tiếp: “Năm người chúng ta thức trọn một đêm chưa được ngủ để phá án, giờ díp hết cả mắt, chúng ta nên về ngủ một lát trước đã!”

“Hàhàhà! Nếu tôi còn tiếp tục độc mồm độc miệng thì chẳng phải các cậu khỏi ngủ luôn còn gì?” Anh Ngô cười sung sướng.

“Tinh tang! Tinh tang!”

Tiếng chuông điện thoại của tôi reo lên khiến nụ cười trên môi mọi người lập tức tắt ngúm.

“Không phải chứ?” Anh Ngô trợn mắt kinh ngạc.

“Ổn không?” Thầy luôn nói ngắn gọn như thế, nhưng tôi nghe ra ẩn sau hai chữ đơn giản ấy là lần nữa chúng tôi trúng 'chưởng thối mồm' của anh Ngô.

“Dạ… ổn!” Tôi đáp với giọng không chắc.

Dù lực lượng cảnh sát thiếu hụt trầm trọng thì khoa Pháp y, khoa Giám định dấu vết vẫn phải miễn cưỡng chia thành hai đội để đề phòng trường hợp lỡ cùng lúc xảy ra hai vụ án thì vẫn còn phương án đối phó. Nếu giờ mà tôi bỏ về nhà ngủ thì tổ pháp y còn lại gồm bác sĩ Tiêu và bác sĩ Phương buộc phải lập tức chạy đến hiện trường. Chỉ trong ba giây ngắn ngủi sau khi nhận được cú điện thoại của thầy, trong đầu tôi âm thầm diễn ra cuộc đấu tranh tư tưởng kịch liệt. Cuối cùng, sức hấp dẫn của việc phá án đã đè bẹp sức hấp dẫn của chiếc giường, thế là tôi liền gật đầu đồng ý.

Thầy nói: “Ở Trình Thành vừa xảy ra một vụ nổ súng, các cậu lập tức xuất phát ngay bây giờ, trong vòng hai tiếng phải tới được hiện trường.”

“Vụ nổ súng sao?” Tôi hỏi: “Vậy có người chết không ạ?”

“Nói nhảm!” Thầy tắt điện thoại.

Tuy thầy tắt điện thoại, nhưng tôi không hề cho rằng những lời mình nói khi nãy là vô nghĩa. Thực ra bản thân cơ thể con người vô cùng kỳ lạ. Đôi khi vết thương trông có vẻ rất nhẹ nhưng nó lại đủ sức lấy mạng con người, lại có những lúc vết thương nhìn có vẻ rất nặng nhưng người bệnh lại vẫn có thể sống sót. Khi tôi thực tập ở quê nhà từng gặp một trường hợp như thế.

Hôm đó, tôi đang trực ban trong phòng Chẩn đoán pháp y, bố tôi là đội phó đội Điều tra hình sự của khu vực, ông gọi điện thoại cho tôi nói Viện Kiểm sát đang xử lý một vụ án, đó là vụ nổ súng, ông đã liên hệ với người ta bảo cho tôi xuống đó kiến tập.

Nhận được điện thoại của bố xong, tôi bật nhảy thật cao và sung sướng, tôi chưa từng nhìn thấy vết thương do súng bắn, ngay cả các thầy giáo ở Học viện Pháp y chúng tôi cũng rất hiếm khi gặp. Đương nhiên, điều này có lợi cho việc kiểm soát súng ống của quốc gia một cách hữu hiệu. Khi đó, tôi chẳng nghĩ gì, vội vàng bắt xe đến Bệnh viện Nhân dân của thành phố. Hồi ấy, cước phí khởi điểm của xe taxi là ba tệ, khoảng cách giữa phòng hội chẩn pháp y và bệnh viện vừa vặn nằm trong mức giá mở cửa đó. Lúc xuống xe, tôi hào phòng rút ra tờ năm tệ đưa cho tài xế mà bảo: “Chú cứ cầm lấy, không cần trả lại tiền thừa đâu! Đừng ngại!”

Vốn nghĩ rằng đồng chí phòng Pháp y của Viện Kiểm sát sẽ dẫn tôi đến thẳng nhà xác, nào ngờ họ lại dẫn tôi vào phòng bệnh. Trong hành lang của phòng bệnh có một người đang đứng tựa tường, đầu cuốn băng trắng xóa, luôn miệng lải nhải với bác sĩ: “Nói cho bác sĩ biết nhé! Ông đây bị súng bắn đấy, các người mà không giúp ông gắp viên đạn trong đầu ra thì ông liều mạng với các người!”

Anh ta nói câu đó nghe như thể đang hát đồng dao, tôi nghe kỹ lại thấy tâm trạng mình rất phức tạp. Nếu nói theo ngôn ngữ hiện đại thời bây giờ thì phản ứng của tôi khi đó, là 'ngớ người'.

Sau khi xem phim chụp X-quang, tôi mới biết người này bị đạn nảy sát thương. Vì viên đạn bắn trúng tảng đá mất lực xoay chuyển nên cũng mất 'hiệu ứng cộng hưởng hốc sau khi bị đạn bắn', nhờ đó lực sát thương của viên đạn cũng giảm đi hàng mấy trăm lần. Viên đạn này bật từ tảng đá văng trúng đầu người này. Tuy viên đạn đã bắn nát phần da và xương sọ của anh ta, vào hẳn trong hộp sọ nhưng viên đạn đã suy yếu đi rất nhiều và không còn chút lực sát thương nào nữa. Sau khi viên đạn mất lực sát thương chui vào trong đầu anh ta và dừng lại tại mô não, nó không làm tổn thương trung khu, cũng không làm vỡ mạch máu. Bởi vậy, người bị trúng đạn không hề xảy ra hiện tượng xuất huyết não, cũng không xảy ra bất kỳ triệu chứng nào về hệ thống thần kinh, nhờ thế anh ta vẫn có thể đứng đó quát mắng bác sĩ.

Là bác sĩ pháp y, tôi hoàn toàn không có kinh nghiệm xử lý những vết thương kiểu này, căn cứ vào tiêu chuẩn chẩn đoán tình trạng vết thương lúc bấy giờ, căn cứ vào tình trạng hộp sọ bị tổn thương dạng mở, tôi đánh giá thương tích của anh ta vào loại nặng. Sau đó, tôi cũng rất quan tâm đến tình hình chữa trị của anh ta, chẳng ngờ các bác sĩ chỉ cần nhẹ nhàng gắp viên đạn ra từ lỗ hổng trên hộp sọ của anh ta, mà không cần phải cưa hộp sọ.

Vì trải qua kinh nghiệm này nên tôi mới hỏi thầy câu đó.

Tuy Đại Bảo và Lâm Đào không hiểu dụng ý câu nói của tôi lắm nên cảm thấy buồn cười nhưng thời hạn thầy quy định vô cùng gấp gáp nên thậm chí chúng tôi còn không có thời gian mà trách móc anh Ngô, càng không có thời gian cười chọc tôi. Tất cả chạy xuống chỗ đỗ xe ở dưới tầng.

Hàn Lượng vẫn chưa đến, chúng tôi sốt ruột chờ đợi. Thế mà Lâm Đào vẫn nhàn nhã ngồi chỉnh sửa lại tóc mình và quay sang hỏi Trần Thi Vũ: “Buồn ngủ không?”

Trần Thi Vũ vẫn không đoái hoài đến cậu ta, điều đó làm tôi rất bất ngờ. Cô gái trước mặt liệu có phải phụ nữ không mà lại thờ ơ với Lâm Đào thế nhỉ?

Chúng tôi nóng lòng chờ đợi hai mươi phút mới thấy một chiếc Audi phóng như bay đến đội xe, Hàn Lượng tới rồi.

“Cậu làm sao thế? Không biết công việc này gọi một tiếng là phải đến ngay à?” Tôi hơi bực mình.

Hàn Lượng ấm ức: “Lúc ở trên tầng các anh bảo tôi về nhà nghỉ ngơi còn gì? Ai mà biết lại có vụ án mới. Hay các anh đi chùa khấn vái xem có đỡ hơn không? Chỉ trong vòng hai mươi tư tiếng đồng hồ mà xảy ra những ba vụ án.”

“Vừa mới sáng sớm cậu đã chạy đi tán gái rồi à?” Đại Bảo tỏ vẻ hiểu biết: “Lại thay bạn gái mới à?”

Hàn Lượng nhún vai: “Tôi chỉ đưa một em mới quen đi làm thôi mà! Dẫu sao tối qua trong lúc các anh khám nghiệm tử thi, tôi đã ngủ một giấc ngon lành rồi!”

“Thời điểm này mà đàn bà còn có sức hấp dẫn hơn cả giấc ngủ cơ à?” Tuy biết Hàn Lượng là cậu ấm con nhà giàu có thiên tình sử dài dặc, nhưng tôi vẫn không thể hiểu nổi hành vi của cậu ta.

Xe rung lắc khiến chúng tôi nhanh chóng đi vào giấc mộng, dường như tôi mơ thấy người bị trúng đạn đang giậm chân giậm cẳng trách cứ chúng tôi đến muộn.

Xe thoát khỏi đường cao tốc và chạy vào vùng giảm tốc, chúng tôi lần lượt tỉnh giấc, nhìn thấy hai chữ 'Trình Thành' ở trạm thu phí đường bộ. Thì ra, chúng tôi đã đến rồi.

Sau hai tiếng ngủ gà gật trên xe, tôi thấy tinh thần tỉnh táo hơn nhiều, mặc kệ thân thể đau ê ẩm, chúng tôi lao thẳng đến hiện trường bắt đầu hành trình phá giải vụ án mới.

Tiếng Súng Lúc Nửa Đêm

Phần 2

Xe cảnh sát của chúng tôi đi theo xe cảnh sát địa phương hướng về phía tây ngoại ô thành phố. Một lát sau, đã đến thôn. Đây là một miền quê khá trù phú và rộng lớn.

Hiện trường nằm ven đường cái cắt ngang thôn, phía ngoài vòng dây cảnh báo đã có rất nhiều người dân đứng vây quanh.

Tôi dụi mắt cho đỡ mỏi, vươn vai, rồi xách hòm dụng cụ khám nghiệm bước xuống xe.

Đây là đường chính dẫn vào trong thôn nên con đường đất đỏ này khá rộng rãi. Vì hiện trường ở ngoài trời nên để bảo quản vật chứng và các dấu vết xung quanh, cảnh sát dân sự đến trước đó, đã dựng chướng ngại vật và căng dây cảnh báo cách hiện trường trung tâm hơn một trăm mét. Ba chúng tôi đeo thẻ điều tra, vượt qua khu vực phong tỏa hướng về phía hiện trường trung tâm.

Lần này vết thương do súng bắn đã lấy đi mạng người!

Một người đàn ông tầm ba, bốn mươi tuổi nằm dưới gốc cây ven đường, quanh thi thể có rất nhiều vết máu lớn. Từ hiện trường trung tâm hướng về phía bắc chừng mười mét có thể thấy dấu chân máu thành hàng, hướng bước chân cho thấy kẻ đó tiến vào hiện trường trung tâm.

Là kỹ thuật viên giám định dấu vết nên Lâm Đào rất hứng thú với dấu chân. Trong khi chúng tôi vẫn đang quan sát xung quanh hiện trường thì Lâm Đào đã chạy đến bên cạnh dấu chân, ghé sát mặt xuống xem xét. Nhìn một lúc, cậu ta lại bước đến cạnh thi thể, thấy đế giày của thi thể, cậu ta nói: “Ô, dấu chân thành hàng này là của chính bản thân nạn nhân.”

“Không có dấu chân của người khác sao?” Tôi hỏi.

Lâm Đào lắc đầu: “Không! Từ đặc trưng của dấu chân cho thấy chỉ có một đôi giày, chính là đôi giày mà người chết đang đi.”

“Vậy xem gần đây, có dấu chân của những người khác không?” Trần Thi Vũ hỏi.

“Làm thế không có ý nghĩa gì hết! Cô đừng quên đây là đường cái, trên đường đương nhiên phải có rất nhiều dấu chân với đủ mọi kích cỡ, hình dạng. Ai dám khẳng định dấu chân nào là dấu chân do hung thủ để lại?” Lâm Đào thất vọng.

Tôi lần theo dấu chân máu bước đến điểm khởi đầu của dấu chân và quan sát trên mặt đất. Trên mặt đất có một vết bùn đất cọ sát còn mới, cạnh đó có một vùng máu lớn. Điểm khởi đầu của dấu chân máu chính là từ đây. Tôi chỉ vũng máu nói: “Có lẽ, nạn nhân bị thương ở đây, sau đó bước dần đến hiện trường trung tâm, ngã xuống và tử vong.”

“Bị bắn mà còn đi được dài thế sao?” Trần Thi Vũ hỏi.

Đại Bảo cướp lời: “Lông Vũ, tại cô chưa hiểu đấy thôi. Đầu tiên, chúng ta không biết vị trí vết thương chí mạng của nạn nhân nằm ở đâu và vết thương chí mạng đó có nghiêm trọng hay không. Tiếp đó, chỉ xét riêng khả năng hành vi sau khi dính vết thương chí mạng thì mỗi cá nhân đã có sự khác biệt rất lớn. Thông thường khi bị một nhát dao đâm vào tim, đa số trường hợp tim sẽ ngừng đập, rồi tử vong ngay sau đó, nhưng cũng có người sau khi bị dao đâm vào tim sẽ chạy điên cuồng một trăm mét, rồi mới ngã vật xuống đất và tử vong. Từ dấu vết để lại có thể thấy nạn nhân bị thương ở đây, nhưng vẫn tiếp tục đi được ngoài chục mét mới chết là chuyện rất bình thường.”

Trần Thi Vũ gật đầu, nhưng ngay sau đó, lại nhăn mày nói: “Tên tôi là Trần Thi Vũ, ok? Tên hay thế mà bị anh gọi chẳng ra làm sao cả!”

Cạnh tử thi có một khẩu súng, trên thân súng dính vài vết máu. Đây là khẩu súng săn tự chế, ống đạn đơn. Vì muốn đảm bảo có thể bắn đạn từ cự ly xa mà không thay đổi đường đạn nên nòng súng được thiết kế rất dài, phải đến tám mươi centimet, cộng cả thân súng và báng súng thì khẩu súng này dài chừng một mét hai mươi.

Nhà nước quản lý súng ống vô cùng nghiêm ngặt, không chỉ quản lý nghiêm ngặt với việc thực thi sản xuất súng ống mà còn quản lý nghiêm ngặt cả với các loại súng tự chế, nếu phát hiện sẽ lập tức bị tịch thu, không những thế còn xử phạt nghiêm khắc với những người tàng trữ súng ống. Nhưng, có lẽ do vấn đề tồn đọng của lịch sử nên súng tự chế ở Trình Thành vẫn còn khá nhiều. Tuy bộ phận cảnh sát an ninh thường xuyên tổ chức các chuyến ra quân quy mô lớn để thu hồi súng ống và xử lý đương sự, nhưng tình trạng chế tạo và buôn bán súng ống phạm pháp vẫn cứ tồn tại, đặc biệt đối với những trường hợp chế tạo và cất giữ súng ống tại nhà lại càng không có biện pháp gì từ bỏ tận gốc. Dẫu có người báo án thì khi cảnh sát dân sự đến kiểm tra vẫn rất khó khăn mới tìm ra được nơi giấu súng ở địa bàn nông thôn người thưa đất rộng này.

Tuy thấy súng ống ở Trình Thành không phải việc gì kỳ quái nhưng cảnh sát địa phương vẫn vô cùng căng thẳng, bởi họ không quản lý súng ống chặt chẽ gây hậu quả chết người, chắc chắn trưởng đồn cảnh sát là người phải chịu trách nhiệm về việc này.

“Đây đâu phải địa điểm thuận tiện để giết người nhỉ?” Tôi đứng thẳng người, thắc mắc: “Xung quanh hiện trường rất trống trải, không có vật che chắn. Tuy hộ gia đình gần đây nhất cũng cách hơn hai trăm mét, nhưng chỉ cần ai đó đứng ở cửa là có thể nhìn rõ mọi thứ xảy ra tại đây. Trong ấn tượng của tôi, những kẻ dùng súng bắn người thông thường đều lên kế hoạch từ trước, nhưng lên kế hoạch giết người ở đây thì không hợp lý chút nào.”

Đại Bảo nghe tôi nói vậy cũng đứng thẳng người nhìn bốn phía xung quanh.

“Tình hình chúng tôi điều tra được là thế này…” Đồn trưởng cảnh sát Lưu châu đầu lại chủ động trình bày: “Nạn nhân tên là Hồ Kỳ, ba mươi bảy tuổi, sống ở thôn Hồ Gia, nông dân, đạo đức không tốt lắm, có tiền án về tội trộm cắp. Hơn nữa, tật xấu lớn nhất của người này là yêu rượu hơn cả mạng sống. Mà hễ uống rượu là đánh vợ, đánh mẹ già, ra ngoài động tay động chân với các bé gái, thường xuyên tranh chấp cãi cọ với người khác. Nói chung mọi người trong thôn rất ghét anh ta, nghe đến tên anh ta là đã cau mày khó chịu. Chắc anh ta bị coi là ác bá mất, người dân trong vùng đều nói loại cặn bã như anh ta chết đi là phúc đức cho xã hội.”

Tôi hiểu hàm ý trong câu nói của đồn trưởng, anh ta muốn kể lể các tật xấu của nạn nhân lúc còn sống hòng giảm nhẹ trách nhiệm của mình. Nhưng, tôi tin rằng cho dù nghĩ vậy anh ta cũng không dám bịa đặt tình tiết, có lẽ lúc còn sống nạn nhân quả thật đầy rẫy chiến tích bất hảo.

“Còn nữa…” Đồn trưởng bổ sung: “Chúng tôi từng nhìn thấy khẩu súng này rồi, cũng đối chiếu rồi, nó là súng tự chế của anh ta. Tháng trước không biết anh ta lấy đâu ra một ống thép, thế là anh ta bắt đầu chế tạo súng ngay tại nhà, đại khái là hai tuần trước thì làm xong. Chuyện này, mẹ của anh ta là Triệu Tú Liên và vợ của anh ta là Trương Việt có thể làm chứng. Chúng tôi cũng đã lục soát trong hầm chứa nhà anh ta, tìm thấy vật liệu còn thừa dùng để chế tạo súng, cùng mấy viên đạn tự chế.”

“Hiện tại, cảnh sát bước đầu nhận định nạn nhân Hồ Kỳ nửa đêm mang súng ra khỏi nhà không cẩn thận làm súng cướp cò bắn trúng người mình dẫn đến mất máu quá nhiều và tử vong.” Bác sĩ pháp y ở Trình Thành họ Dương lên tiếng: “Chúng tôi vẫn chưa tiến hành khám nghiệm nên cũng chưa thể khẳng định quan điểm của họ.”

Súng của mình lấy đi chính tính mạng của mình, đây là cái cớ tốt nhất để đồn trưởng làm giảm nhẹ trách nhiệm khi bị truy cứu.

“Các anh sờ vào khẩu súng đó rồi à?” Lâm Đào nghe họ nói đã nhận diện khẩu súng tại hiện trường rồi, liền vội hỏi.

Tôi cũng lo lắng hệt như Lâm Đào, chỉ sợ tên đồn trưởng cuống lên muốn thoát khỏi trách nhiệm đã phá hoại dấu vết trên khẩu súng.

“Không! Không!” Đồn trưởng xua tay: “Chúng tôi dẫn nhân chứng đến hiện trường để nhận diện. Chúng tôi cũng có ý thức bảo quản vật chứng chứ!”

“Vậy phần vật liệu thừa giờ ở đâu?” Lâm Đào cau mày: “Tôi muốn tiến hành đối chiếu chỉnh thể phân tách.”

Kỹ thuật đối chiếu chỉnh thể phân tách là một trong những ngón võ hữu dụng của chuyên ngành giám định dấu vết. Phương pháp cụ thể như sau: Thông qua việc đối chiếu dưới kính hiển vi, nhân viên giám định sẽ tiến hành kiểm tra, giám định lắp ráp lại, quan sát các đặc trưng nhỏ ở miệng các vết lắp ráp phần đầu bị vỡ hoặc gãy của hai vật thể, sau đó phán đoán xem hai vật thể đó có phải cùng một vật không hay chúng là hai vật thể riêng rẽ.

“Để tôi cho người đi lấy.” Đồn trưởng nói xong, liền gọi điện thoại cho nhân viên kỹ thuật hình sự của đồn.

“Ai báo án vậy?” Tôi hỏi.

Đồn trưởng hướng mắt về đám người ở phía xa, rồi chỉ một thanh niên trẻ, hét to gọi cậu ta: “Hồ Lê Miêu, cậu lại đây kể cho lãnh đạo trên tỉnh biết tất cả những gì cậu phát hiện và quá trình đi báo cảnh sát.”

Nghe thấy cụm từ 'lãnh đạo trên tỉnh', đám đông đột nhiên nhao nhao như chợ vỡ, mọi người thi nhau bàn luận, có thể họ cho rằng tất cả lãnh đạo trên tỉnh đều được cử xuống điều tra vụ án này, điều đó chứng tỏ vụ án này nhất định phải là vụ án lớn chứ hoàn toàn không đơn giản giống suy nghĩ ban đầu của họ.

Tôi ngại ngùng gãi đầu, trừng mắt nhìn đồn trưởng, lòng thầm mắng sao anh to mồm thế? Đám đông vây quanh chắc không biết rằng trong Sở Cảnh sát, phòng Pháp y thực ra chỉ là đơn vị cơ sở. Ngoại trừ những vụ án đơn giản, thông thường thì chỉ khi Đội Cảnh sát không đủ nhân lực, chúng tôi mới được nhúng tay vào. Còn lại chúng tôi chỉ việc đi giám định hiện trường và giải quyết các vấn đề ở cơ sở, giúp các đơn vị pháp y cơ sở thêm tay thêm chân, thêm con dao mà thôi.

Hồ Lê Miêu theo chân một cảnh sát dân sự băng qua khu vực phong tỏa tiến về phía chúng tôi. Trông cậu ta mắt la mày lém, dọc đường đi luôn ngó trước dòm sau.

“Cậu nói đi! Rốt cuộc xảy ra chuyện gì?” Tôi đứng trước mặt Hồ Lê Miêu, che tầm nhìn của cậu ta, không cho cậu ta nhìn thấy thi thể người chết, đồng thời tháo găng tay dính máu trên tay mình ra.

Hồ Lê Miêu rụt đầu nói: “Chuyện là thế này ạ… tối qua tôi đánh mạt chược ở nhà anh tôi, lúc hơn mười giờ đêm đột nhiên tôi nghe thấy một tiếng 'Pằng!' giống như nhà ai nổ pháo. À không, còn giòn hơn cả tiếng pháo. Bốn người chúng tôi lập tức chạy ra ngoài xem, nhưng chẳng thấy ánh pháo gì cả.”

“Đợi chút! Nhà anh cậu ở đâu?” Tôi hỏi.

Hồ Lê Miêu và đồn trưởng cùng chỉ về phía đông của hiện trường, rồi đáp: “Nhà anh tôi nằm ở phía đông cách đây ba trăm mét.”

“Men theo con đường này phải không?”

Hồ Lê Miêu gật đầu.

“Vậy các cậu nhìn thấy gì không?”

“Khi đó, trăng rất sáng, chúng tôi nhìn thấy một bóng người đi về hướng tây.” Hồ Lê Miêu nói: “Xem bóng lưng rất giống anh ta.” Nói xong Hồ Lê Miêu chỉ tay về phía thi thể của Hồ Kỳ nằm trên mặt đất.

Tôi ngoảnh đầu nhìn đồn trưởng để xác thực xem cậu ta khai đúng không.

Đồn trưởng gật đầu: “Chúng tôi đã lấy khẩu cung rồi, mấy người chơi mạt chược đều xác nhận chuyện này là thật.”

“Cậu chắc chỉ thấy một bóng người chứ?” Tôi hỏi.

Hồ Lê Miêu kiên định gật đầu.

“Căn cứ vào manh mối này, về cơ bản chúng tôi xác định nạn nhân tử vong vì súng tự chế của mình bị cướp cò.” Đồn trưởng nói.

Tôi xua tay: “Đừng vội đưa ra kết luận! Nhà Hồ Kỳ ở đâu?”

Đồn trưởng chỉ tay về phía tây đáp: “Nằm ở phía tây cách đây một trăm mét, qua khu vực phong tỏa, rẽ trái, rồi rẽ phải là đến.”

Tôi nhìn theo hướng tay chỉ của đồn trưởng và thấy vòng hết ngã nọ đến ngã kia thì tầm nhìn bị nhà vệ sinh công cộng chắn mất.

Sau khi nghe thấy tiếng súng, khoảng bao lâu thì các cậu đi ra ngoài?” Trần Thi Vũ hỏi. Câu cô ấy hỏi cũng là câu mà tôi đang muốn hỏi.

Hồ Lê Miêu cúi đầu nghĩ một lát, rồi đáp: “Chúng tôi ở vườn sau, chỉ cần mở cửa, đi qua vườn, mở cổng là ra đến ngoài rồi. Nên tôi đoán chỉ tầm hai mươi giây là cùng.”

Tôi 'Ồ!' lên một tiếng bảo: “Các cậu cứ kể tiếp đi! Khi nãy cậu nói cậu nhìn thấy một bóng người.”

“À vâng!” Hồ Lê Miêu hắng giọng: “Chúng tôi thấy Hồ Kỳ loạng choạng đi về phía tây, cũng chính là phía nhà của anh ta. Vì nghĩ thường ngày Hồ Kỳ luôn thích uống rượu, mà cứ uống nhiều là dáng đi lại xiêu vẹo, nghiêng ngả như thế, nên chúng tôi không để ý, tất cả quay vào chơi tiếp ván mạt chược đang dở. Lát sau thì trời sáng, tôi thắng hơn ba ngàn tệ, hề hề!”

Nói xong, cậu ta liền phát giác mình lỡ lời nên liếc nhìn đồn trưởng, thấy đồn trưởng không có ý truy cứu việc nhóm cậu ta đánh bạc, nên mới mạnh dạn nói tiếp: “Sáng sớm tinh mơ, tôi từ nhà anh trai đi theo hướng tây, cứ đi tiếp con đường này đến đầu bên kia chính là nhà tôi. Chẳng ngờ khi đi ngang qua qua đây thì nhìn thấy anh ta nằm trên đất, bên cạnh có vũng máu to làm tôi sợ hết hồn.”

Đồn trưởng liếc mắt ra hiệu cho Hồ Lê Miêu, cậu ta liền vội nói tiếp: “Loại cặn bã như anh ta chết là tốt nhất.”

Tôi phản cảm xua tay nói: “Nghĩa tử là nghĩa tận, đừng độc ác như thế, dẫu anh ta đã làm đủ điều bại hoại đạo đức nhưng chí ít anh ta vẫn có quyền được sống.”

“Thế các anh cần hỏi tiếp nữa không?” Hồ Lê Miêu hỏi.

“Nhà anh trai cậu chỉ cách hiện trường ba trăm mét, nửa đêm thanh vắng như vậy, mà các cậu không nghe thấy tiếng kêu la, vật lộn hay cầu cứu gì sao? Bởi tôi thấy không phải anh ta tử vong tại chỗ mà còn đi hơn chục bước nữa mới chết.” Đại Bảo hỏi.

Đúng là câu hỏi này vô cùng quan trọng.

Hồ Lê Miêu lắc đầu: “Chắc chắn, chúng tôi không nghe thấy gì hết cả!”

“Súng của anh ta cướp cò, thêm vào đó lại uống quá nhiều rượu nên chưa chắc anh ta đã kêu la.” Đồn trưởng giải thích.

Tôi thấy đồn trưởng nói cũng có lý nên không thêm vào câu gì, chỉ lẳng lặng đeo găng tay tiến hành khám nghiệm bước đầu ở phía ngoài tử thi.

Nạn nhân mặc áo phông dài tay và quần thể thao, ống quần phải gần như thấm đẫm máu trong khi áo lại không dính vết máu nào. Đại Bảo vươn tay sờ quần của nạn nhân nhưng bị tôi ngăn lại: “Đừng chạm vào! Cậu nhìn kìa, trên ống quần có dấu vết của họng súng.”

Dấu vết họng súng là đặc trưng của kiểu bắn cự ly gí sát. Kiểu bắn cự ly gí sát là một dạng thể hiện khoảng cách giữa họng súng và mục tiêu.

Ai có hứng thú với khí tài quân sự đều biết rằng súng ống chủ yếu được chia thành hai loại, đó là súng có nòng xẻ rãnh xoắn và súng nòng trơn.

Súng có nòng xẻ rãnh xoắn là loại súng mà nòng súng được xẻ rãnh theo đường xoắn ốc, như vậy khi bắn đi, đạn sẽ bay ra theo đường xoắn ốc, nhờ đó giúp gia tăng cự ly bắn đi xa của đường đạn, không những vậy còn tăng độ chính xác và lực sát thương. Nếu loại súng ống này bắn gí sát thì trên da sẽ để lại dấu vết họng súng, nếu cự ly bắn dưới một mét[*], do đầu đạn xóay vào da thịt với tốc độ cao nên trên da sẽ lưu lại vết bầm giập, vết trầy xước, vết bỏng với các chấm thuốc nổ li ti và vết ám khói cùng vệt thuốc nổ trầm lắng quanh bờ vết thương. Còn nếu cự ly ngắm bắn ngoài một mét[*] thì trên da sẽ để lại lỗ đạn kèm theo vòng trầy xước và vòng vết bẩn quanh vết thương mà hoàn toàn không nhìn thấy vết bỏng và vết ám khói.

Nhưng, súng có nòng xẻ rãnh đòi hỏi công nghệ chế tác khá cao. Bởi vậy, trong các loại súng tự chế, người dân chủ yếu chọn loại súng nòng trơn. Súng nòng trơn còn gọi là súng bắn đạn ghém. Loại súng này chỉ dùng được những loại đạn với đường kính tuân theo một quy cách nhất định, trong viên đạn đổ đầy thuốc nổ và các viên đạn nhỏ. Khi bóp cò, những viên đạn nhỏ bắn ra theo hình chóp. Bởi vậy, phán đoán cự ly bắn của loại súng nòng trơn này chủ yếu phải căn cứ vào diện tích của đạn phân bố trên bề mặt da, nếu chỉ có một lỗ thủng lớn, điều đó chứng tỏ cự ly bắn tương đối gần, nếu vết đạn găm vào cơ thể là một dải lỗ nhỏ thì cự ly bắn lại khá xa. Cự ly bắn của loại gần thì lực sát thương mới lớn. Đương nhiên, giống như súng có nòng xẻ rãnh xoắn, súng nòng trơn cũng sẽ để lại dấu vết của họng súng trên da khi bắn gí sát.

“Dấu vết của họng súng này có điểm gì đó khá kỳ quái, Lâm Đào, cậu nhớ chụp ảnh đấy!” Đại Bảo liếc sang tôi: “Thông thường bắn gí sát chỉ xảy ra trong hai trường hợp là súng cướp cò hoặc tự sát. Bởi vậy, rất có thể súng anh ta bị cướp cò giống như lời đồn trưởng nói.”

Lâm Đào đứng bên cạnh cầm gói vật liệu mà cảnh sát dân sự lấy được trong nhà của nạn nhân, đối chiếu với khẩu súng được bảo quản trong túi nilon đựng vật chứng mà cảnh sát thấy ở hiện trường, cậu ta nhận định hai vật này có cùng chất liệu, điều đó cũng có nghĩa là khẩu súng này đúng là súng tự chế của nạn nhân.

Lâm Đào bước đến và nói cho chúng tôi biết kết quả đối chiếu, nhưng kết quả này dựa trên phán đoán về vật liệu lấy trên công cụ. Nếu muốn xác định chắc chắn theo phương pháp chỉnh thể phân tách thì phải thực hiện thí nghiệm trong phòng thí nghiệm chuyên ngành có liên quan.

Lâm Đào chụp ảnh xong, liền quan sát dấu vết họng súng trên da nạn nhân và họng súng lấy được từ hiện trường. Dưới góc nhìn chuyên môn của chuyên gia giám định dấu vết, cậu ta hơi mỉm cười: “Có điều, từ dấu vết họng súng trên vết thương có thể thấy khẩu súng gây sát thương chính là khẩu súng mà ta tìm thấy tại hiện trường.”

Tiếng Súng Lúc Nửa Đêm

Phần 3

Quả thực không cần nhân viên chuyên nghiệp cũng có thể phán đoán điều đó. Vì là súng tự chế nên đầu họng súng trông rất thô sơ, hẹp thành hình bầu dục, mà dấu vết họng súng trên quần nạn nhân cũng xuất hiện hình bầu dục, đường kính vết họng súng trên quần và đường kính họng khẩu súng tại hiện trường hoàn toàn đồng nhất.

Sau khi xem xét kỹ dấu vết họng súng, tôi và Đại Bảo hợp lực nhẹ nhàng cởi bỏ quần nạn nhân, rồi cho vào túi nilon đựng vật chứng bảo quản cẩn thận. Vừa tháo ống quần ra khỏi chân, chúng tôi liền nhìn thấy một vết thương đen ngòm hình bầu dục trên đầu gối, bờ vết thương cháy đen, đó là vết bỏng do thuốc súng. Thi thể xảy ra vài thay đổi nhỏ, máu tươi từ hố đen ngòm của vết thương bắt đầu chảy ra.

“Bắn trúng chân rồi!” Tôi nói, rồi chau mày suy nghĩ.

“Ồ! Tôi biết trong pháp y học có một nguyên lý gọi là 'hiệu ứng cộng hưởng hốc' sau khi bị đạn bắn.” Trần Thi Vũ nói: “Nhưng, vẫn không thể ngờ hiệu ứng này lại gây ra hậu quả ghê gớm như vậy, bắn trúng chân thôi mà mất mạng.”

Đại Bảo được dịp khoe khoang kiến thức: “Cô biết cơ chế hình thành 'hiệu ứng cộng hưởng hốc' không? “Hiệu ứng cộng hưởng hốc” chỉ xảy ra khi viên đạn xoáy sâu vào các mô trong cơ thể. Duy loại súng nòng xẻ rãnh xoắn mới có thể tạo ra hiệu ứng như vậy. Nhưng, khẩu súng tự chế này là súng nòng trơn, vậy nó xoáy kiểu gì? Tạo ra hốc kiểu gì?”

Đại Bảo nói không sai: “hiệu ứng cộng hưởng hốc” là cơ chế chủ yếu gây ra lực sát thương của viên đạn, nhưng hiệu ứng này chỉ xảy ra với súng có nòng xẻ rãnh xoắn, đây cũng là nguyên nhân súng nòng xẻ rãnh xoắn có lực sát thương lớn hơn súng nòng trơn. Áp dụng kỹ thuật chụp phim tốc độ bằng tia X có thể quan sát thấy mô hình bị đạn bắn trúng sẽ hình thành một hốc rỗng sau khi đầu đạn đi qua mô. Cái hốc này xuất hiện nhanh mà biến mất cũng nhanh. Bởi vì, khi đầu đạn đi xuyên qua cơ thể, nó không chỉ khiến các mô mềm bị tách ra, mà quan trọng hơn là động năng xoáy tròn của đầu đạn đã giải phóng cho các mô ở xung quanh, khiến các mô mềm lấy đầu đạn làm trung tâm dịch chuyển vị trí ra bốn phía theo hình tỏa tia, từ đó hình thành hốc thịt lớn gấp nhiều lần so với thể tích của đầu đạn. Vào khoảnh khắc bị đạn bắn trúng, tuy hốc chỉ duy trì trong thời gian ngắn ngủi nhưng có thể khiến các mô mềm xung quanh bờ vết thương lan rộng, rách giập và vỡ mạch máu. Các mô sẽ bị giập nát vì phải di chuyển với biên độ vượt quá mức đàn hồi của nó, dẫn đến thay đổi giống như phát nổ và để lại vết thương mang tính phức hợp rất nghiêm trọng và phức tạp trên cơ thể. Sau khi trải qua quá trình thay đổi khuếch tán, thu nhỏ, rồi lại khuếch tán, thu nhỏ lặp đi lặp lại nhiều lần, cái hốc dần dần biến mất, cuối cùng để lại vết thương với thể tích nhỏ hơn nhiều so với thể tích hốc, đây chính là đường vết thương do súng bắn để lại trên da thịt mà bác sĩ pháp y nhìn thấy.

Cơ chế chủ yếu mà súng nòng trơn tạo ra vết thương chính là lực sát thương của đầu đạn. Đầu đạn làm vỡ mạch máu dẫn đến mất máu quá nhiều và tử vong. Đầu đạn làm vỡ các cơ quan, khiến các cơ quan trong cơ thể mất máu, kiệt sức dần, rồi chết. Khi gí sát nòng của súng nòng trơn vào mục tiêu, thì các viên đạn nhỏ vẫn đang trong giai đoạn tập trung dày đặc nên vết thương được tạo ra có hình một đường thẳng, đường vết thương đó được hình thành do tác dụng cùng lúc của các viên đạn nhỏ.

“Để tôi giải thích cho cô hiểu.” Đại Bảo nói với Trần Thi Vũ: “Thực ra một phát súng không thể gây ra lực sát thương lớn lắm, nhìn chân của nạn nhân không hề biến dạng là biết vùng đùi của anh ta không bị gãy. Sở dĩ chảy nhiều máu như vậy, là bởi má đùi trong của anh ta có một động mạch rất lớn, rất quan trọng - động mạch đùi. Nếu các viên đạn nhỏ bắn vào má trong của đùi, làm vỡ động mạch thì rất nguy hiểm. Loại động mạch to như thế này, không thể nào tự đông máu được, nếu không được cầm máu kịp thời thì máu sẽ tuôn ra như suối chảy, chẳng bao lâu sau, nạn nhân sẽ rơi vào trạng thái hôn mê và ngất xỉu. Nếu còn không được cấp cứu ngay lập tức, nạn nhân nhất định sẽ tử vong. Nạn nhân của vụ án này đã chết như vậy đấy!”

“Chất cồn trong cơ thể quá nhiều, mạch máu phình to, tuần hoàn máu tăng tốc cũng có thể đẩy nhanh quá trình tử vong.” Bác sĩ pháp y Dương đứng bên cạnh bổ sung.

Trong khi họ đang bàn luận thì tôi lấy cây kim thăm dò đầu tròn trong hòm đựng dụng cụ khám nghiệm ra.

Tác dụng chủ yếu của kim thăm dò là thăm dò, đo độ dài và hướng đi của vết thương. Vết thương chí mạng của nạn nhân là một đường dài rất rõ ràng, vết thương này làm đứt động mạch đùi. Nhưng, hướng của vết thương thì không thể phát hiện bằng mắt thường được mà phải dùng một cây kim thăm dò rất nhỏ.

Tôi thận trọng cắm đầu kim vào vết thương, sau đó tiến hành dò tìm theo các hướng, chẳng bao lâu sau, tôi đã tìm ra đường đi của nó. Vết thương xuất phát từ gối, chạy ngược lên trên, cuối cùng dừng lại trên má đùi cách bộ phận sinh dục chừng 5 centimet. Tôi cắm kim vào đùi của nạn nhân men theo đường vết thương, chỉ chừa phần cán kim ở bên ngoài, rồi gọi Trần Thi Vũ đến chụp ảnh.

Như vậy, thông qua ảnh là có thể nhìn rõ hướng đi của vết thương.

“Mọi người có nhìn ra vấn đề gì không?” Tôi hỏi Đại Bảo và Lâm Đào.

Hai người họ lơ mơ chưa hiểu.

Tôi liền quay sang nói với đồn trưởng: “Phiền anh liên lạc với đồng chí làm việc ở nhà xác mang thi thể này đến phòng giải phẫu để chúng tôi giải phẫu ngay bây giờ.”

Thông qua điều tra, khám nghiệm tử thi đã xác định được nạn nhân tử vong do súng cướp cò, đây là cái chết ngoài ý muốn và xếp vào hạng mục các vụ án tử vong do nguyên nhân bất thường. Có điều muốn giải phẫu tử thi thì phải được sự đồng ý của người nhà nạn nhân, trừ trường hợp xác định rõ ràng đây là án mạng, các cơ quan công an mới được phép cưỡng chế giải phẫu tử thi.

“Nhưng, gia đình nạn nhân không đồng ý giải phẫu đâu!” Đồn trưởng khó xử.

“Thì cứ việc viết một thông báo yêu cầu cưỡng chế giải phẫu.” Tôi nói: “Vì đây là một vụ án mạng.”

“Án mạng ư?” Đồn trưởng bật thốt lên với vẻ vô cùng bất ngờ, tóc trên đầu anh ta cơ hồ dựng đứng cả lên.

Tôi mỉm cười nói: “Các anh xem, hướng vết thương đi từ dưới ngược lên trên. Các anh lại quan sát kỹ khẩu súng này, nó dài những một mét hai mươi, thêm vào đó được bắn ở cự ly gí sát. Bây giờ chúng ta tái hiện hiện trường gây án một chút nhé!”

Nói xong, tôi cầm khẩu súng đựng trong túi nilon trong suốt, lấy khẩu súng gí vào đầu gối của nạn nhân và nói: “Đạn đi ngược lên trên, vậy thì báng súng phải ở phía dưới đầu gối. Các cậu thử nói xem, như vậy làm sao mà cướp cò được?”

Nếu là cướp cò thì với khẩu súng dài thế này nạn nhân phải bị bắn vào phần trên eo hoặc đường đạn phải đi xuống phía dưới mới đúng. Nếu bắn trúng gối mà đường đạn lại đi ngược lên trên, thì cách đặt súng như vậy, là rất vô lý, vả lại nạn nhân cũng không thể với tới cò súng. Dẫu nạn nhân ngồi xuống và gí súng vào đầu gối, thì vị trí của cò súng còn vượt qua cả ngón chân anh ta, dù anh ta rướn tốt đến đâu, cũng không thể với tới cò súng.”

Tôi nói xong, mọi người tại hiện trường đều đồng thanh kêu lên: “Có lý!”

“Bởi vậy, chỉ còn khả năng có người khác cầm khẩu súng của anh ta, gí vào đầu gối và bắn một phát.” Tôi nói: “Hiện giờ, chúng ta cần tiến hành giải phẫu tử thi.”

Trong phòng giải phẫu tử thi của Viện Pháp y thành phố Trình Thành, Trần Thi Vũ vẫn im lặng đứng bên cạnh. Đây là hiện trường thứ ba và là vụ giải phẫu tử thi thứ bảy mà cô ấy chứng kiến trong vòng chỉ vỏn vẹn hai ngày. Đào tạo kiểu này chẳng khác nào 'nhồi vịt', bây giờ cô ấy không chỉ hoàn toàn thích ứng với công việc khám nghiệm tử thi, mà còn có thể nói rõ ràng vị trí giải phẫu của thi thể, điều đó khiến chúng tôi không khỏi thán phục về khả năng thích ứng, khả năng tiếp thu quá nhanh của cô ấy. Tôi cũng cố gắng tiến hành các thao tác một cách quy phạm nhất để cho cô đồng nghiệp nữ như trang giấy trắng này có được nhận thức quy phạm về công tác pháp y.

Chúng tôi tiến hành khám nghiệm bên ngoài của thi thể một cách toàn diện. Ngoại trừ vết thương ở đầu gối trái nạn nhân, chúng tôi còn tìm thấy một vết tụ máu khá lớn ở sau gáy anh ta, bề mặt xung quanh vết tụ máu còn có vài vết trầy xước nông. Da đầu không có vết thương, chỉ tụ máu và trầy xước. Dưới con mắt của bác sĩ pháp y thì đây là vết thương được tạo thành do vật tày có bề mặt thô ráp, diện tích bề mặt khá rộng và cũng tương đối nặng. Có khả năng anh ta ngã ngửa trên mặt đất, cũng có khả năng bị vật gì đó đánh vào.

“Các cậu xem này! Quả nhiên, anh ta còn có những vết ngoại thương khác.” Tôi hứng khởi nói.

Đại Bảo cầm dao phẫu thuật, chuẩn bị cạo tóc của nạn nhân, thì tôi nói: “Đợi chút đã!”

Chúng tôi lật xác nạn nhân lại, để lộ phần gáy, sau đó nhẹ nhàng rẽ tóc ra, tôi nhanh chóng tìm thấy một vài vụn nhỏ màu vàng gạch.

Tôi lấy kẹp gắp những vụn nhỏ đó bỏ vào túi nilon, nói: “Công cụ sát thương đã lộ diện, đó là gạch.”

Đại Bảo tán thưởng gật đầu: “Mở hộp sọ xem sao, để đề phòng anh ta bị ngã ngửa đập đầu vào gạch sau khi trúng đạn.”

Nếu nạn nhân ngã sẽ tạo nên các vết thương đối trọng[*] ở trong hộp sọ, còn vết thương do bị đánh trực tiếp vào gáy sẽ không đối trọng.

Mở hộp sọ của nạn nhân, quả nhiên gáy của anh ta có một vết thương nhỏ, trong khi ở phần trán đối diện với gáy không hề phát hiện vết thương tương tự như vậy.

“Không có vết thương đối trọng! Chắc chắn, anh ta bị kẻ nào đó đập gạch vào gáy, mà vết thương này có phản ứng sống, điều đó chứng tỏ anh ta bị đánh trước khi bị bắn.” Tôi nói: “Vết thương nhỏ như thế này, không đủ khiến anh ta tử vong, thậm chí còn không đủ để hôn mê, nhưng lại cung cấp cho chúng ta một phương hướng, phương hướng tìm kiếm vật chứng có thể tồn tại.”

Mở hộp sọ xong, Đại Bảo và bác sĩ Dương tiến hành giải phẫu toàn diện theo quy tắc thông thường, khám nghiệm giải phẫu có hệ thống. Khi Đại Bảo hạ dao, có thể vì lao lực quá nên cậu ta lỡ tay dùng dao phẫu thuật cứa phải khoang não của nạn nhân.

“Ôi trời! Cẩn thận chứ!” Bác sĩ Dương kêu lên: “Quá trình khám nghiệm tử thi được quay lại đấy, đừng để người nhà nạn nhân nhìn thấy. Nếu buộc phải nói vết thương này do hung thủ tạo ra là xong đời.”

Đại Bảo lấy tay quệt quệt vết thương nhỏ do cậu ta cắm dao vào, nói: “Không sao! Vết cắm này vừa nhỏ lại vừa mỏng, không ai nhận ra đâu mà sợ. Hơn nữa, lại không có phản ứng sống, trước khi khám nghiệm chúng ta cũng chụp ảnh tử thi rồi. Không ảnh hưởng gì cả!”

Tôi cười nói: “Anh Dương, bây giờ anh bị báo chí làm cho thần hồn nát tính thế cơ à? Trong quá trình khám nghiệm tử thi, bác sĩ pháp y không cẩn thận lỡ tay gây ra vết thương cho thi thể là chuyện rất thường tình, không có gì đáng phải làm lớn chuyện cả.”

Bác sĩ Dương cười ngượng nghịu, tiếp tục tiến hành giải phẫu theo hệ thống cùng Đại Bảo. Ngoại trừ khi mở dạ dày của nạn nhân, mùi rượu nồng nặc xộc thẳng vào mũi ra thì không có hiện tượng gì khác thường.

Trong lúc họ đang tiến hành giải phẫu thì tôi nắm lấy hai tay của nạn nhân, quan sát tỉ mỉ nhưng không nói gì.

Khám nghiệm tử thi xong, tôi rủ mọi người đi ăn mì bò ở một quán gần hiện trường trong thôn. Ngoại trừ mục đích giải quyết cơn đói ra, tôi rủ mọi người đi ăn còn có mục đích khác. Trên đường đi ngang qua hiện trường, tôi thấy vành đai phong tỏa đã được tháo dỡ, chỉ để lại những vết máu hình thành từng dải trên mặt đường. Tôi bảo Hàn Lượng dừng lại, rồi xuống xe đi vòng quanh hiện trường một lượt. Lát sau, tôi nhặt một viên gạch cho vào túi nilon đựng vật chứng và lên xe.

“Lâm Đào, lát nữa cậu xem hộ tôi viên gạch này.” Tôi nói: “Nó là hung khí đấy!”

Đại Bảo hiếu kỳ hướng đầu ra ngoài cửa sổ xe nhìn ngó loanh quanh, nói: “Anh xem, ven đường có bao nhiêu gạch đá thế này, sao anh dám chắc viên gạch anh vừa nhặt là hung khí?”

Tôi cười lớn: “Vì trên viên gạch đó dính vết máu và tóc.”

Thức đêm cộng nỗi mệt nhọc do cuộc hành trình này mang lại đột ngột ập đến, sau khi ăn trưa xong, chúng tôi vội vàng tìm một nhà trọ ngủ li bì và chờ đợi các kết quả khám nghiệm khác ở phòng thí nghiệm ra lò.

Bốn giờ chiều, chúng tôi cùng tới tổ chuyên án báo cáo công việc, đồng thời cùng nghe kết quả khám nghiệm kỹ thuật hình sự chuyên nghiệp.

“Nạn nhân bị đạn hoa cải bắn vào đùi, dẫn đến vỡ động mạch đùi. Vì không được cấp cứu kịp thời nên mất máu quá nhiều và tử vong.” Tôi nói: “Ngoài ra, phần gáy nạn nhân có vết thương do bị vật tày đánh vào, hung thủ gây ra vết thương này cho nạn nhân trước khi hắn nổ súng. Đây là một vụ án mạng!”

“Thế thì hơi lạ đấy!” Viên cảnh sát điều tra nói: “Thông qua điều tra, chúng tôi được biết tối qua nạn nhân và mấy người bạn uống rượu đến tận hơn chín giờ tối, có người lái xe máy chở anh ta đến gần hiện trường thì anh ta xuống xe. Khoảng chín rưỡi tối, nạn nhân trở về nhà đòi vợ đưa thêm tiền, vợ anh ta không cho nên anh ta đạp vợ mấy cú, sau đó cố tình giật lấy mấy trăm tệ và rời khỏi nhà. Khoảng hai mươi phút sau, nạn nhân lại trở về nhà trong tình trạng say ngất ngưởng, luôn miệng lải nhải mắng chửi, anh ta xuống tầng hầm lấy súng và rời khỏi nhà. Sau mười phút thì xảy ra chuyện.”

“Ồ thế à? Trách gì trong túi quần anh ta có bốn trăm sáu mươi sáu tệ. Có điều như anh kể thì chẳng phải anh ta muốn đi đánh nhau với ai đó sao? Thế thì có gì kỳ quái chứ?” Đại Bảo nói: “Chắc chắn, anh ta cãi nhau với ai đó, sau đó diễn tiến