Vụ Án Thứ 11 Kiếp Phong Trần-Phần 1
Vụ án thứ năm trong chuyên án ‘Kẻ dọn rác’ xảy ra một tuần trước khác với những vụ đã xảy ra trước đây, có một nhân chứng đã tận mắt chứng kiến cả quá trình hung thủ sát hại nạn nhân.
“Thời tiết nóng bức, mọi người đều không sống nổi ở đây. Mọi người sống ở đây chủ yếu vì đây từng là trạm điện nhỏ, có rất nhiều nhà giúp tránh mưa tránh gió. Nhưng, chú Hắc mặc kệ thời tiết nóng bức thế nào chăng nữa, muỗi dĩn nhiều thế nào chăng nữa, bãi rác kế bên hôi thối thế nào chăng nữa, chú ấy cũng không chịu rời đi, bởi vì chú coi nơi đây là nhà của mình.” Cậu bé trai ôm đầu gối ngồi trên nền đất, cơ thể không ngừng run rẩy: “Muỗi ở khu vực này nhiều lắm, vì vậy mọi người đều ‘chuyển nhà’ đến gầm cầu đi bộ cách đó hai cây số.”
“Em mấy tuổi rồi?” Trần Thi Vũ dịu dàng hỏi.
“Mười ba.”
“Em không đi học sao?”
“Bố mẹ em chết hết rồi, nhà chẳng còn ai, em đành theo chú vào thành phố nhặt phế liệu.” Đứa bé thấy Trần Thi Vũ mặc cảnh phục thì có vẻ sợ sệt.
“Em nói em đã nhìn thấy tất cả, vậy em nhìn thấy những gì?” Trần Thi Vũ hỏi tiếp.
“Đừng hỏi nữa!” Tôi ngắt lời Trần Thi Vũ, rồi bảo: “Cậu bé đã bị cảnh sát hỏi quá nhiều lần rồi. Mà mỗi một lần hỏi là một lần làm cậu bé sợ hãi. Tôi thấy cậu bé cần được tổ chức chính phủ giúp đỡ.”
Trần Thi Vũ nhìn tôi, đành nuốt những lời muốn truy hỏi vào bụng.
“Cô đừng sốt ruột, càng sốt ruột càng chẳng làm được gì.” Lâm Đào an ủi: “Vụ án này đã kéo dài lâu như vậy, vẫn chưa phá nổi, nguyên nhân chủ yếu là vì hung thủ đã vạch kế hoạch quá chu toàn và tỉ mỉ. Trong khi chúng ta vẫn chưa hoàn toàn nắm được động cơ của hung thủ.”
“Ai sốt ruột? Tôi đâu sốt ruột?” Trần Thi Vũ phản bác: “Đây là vụ án đầu tiên tôi tiếp xúc sau khi tham gia công việc, tôi làm vậy chẳng phải vì muốn vụ án nhanh chóng được phá giải sao? Để bạn bè biết thì tôi còn mặt mũi nào nữa!”
Tôi cười, vẫy tay gọi mọi người ra khỏi phòng.
“Cậu bé tên là Cẩu Đản. Cẩu Đản, ‘chú Hắc’ và hơn chục người cùng thôn đều kiếm sống bằng nghề nhặt phế liệu trong thành phố.” Tôi vừa xem vừa ghi chép của tổ điều tra vừa nói với mọi người: “Thường ngày họ sống trong dãy nhà lụp xụp ở đây, nhưng đến mùa hè thì vì bãi rác lân cận bốc mùi hôi thối nên họ chuyển đến chân cầu đi bộ gần đó sinh sống. Chỉ có nạn nhân ‘chú Hắc’ vẫn sống trong dãy nhà nhỏ đó. Tối ngày 15 tháng 7, Cẩu Đản nghe lời ‘chú Hắc’ đến căn phòng nhỏ nơi họ sống trước đây, để lấy đồ. Vì trời đã tối nên Cẩu Đản hơi sợ. Khi sờ soạng đến gần dãy nhà, Cẩu Đản muốn gọi to để ‘chú Hắc’ châm đèn lên cho sáng. Nhưng, lúc tới phòng ‘chú Hắc’, dường như cậu bé nghe thấy giọng phụ nữ.”
“Giọng phụ nữ sao?” Mọi người đều yên lặng lắng nghe, chỉ có Đại Bảo thỉnh thoảng lại bật thốt lên kinh ngạc.
“Có gì lạ đâu?” Lâm Đào nói: “Chẳng lẽ hôm nay là lần đầu tiên anh biết nghi phạm trong chuỗi huyết án ‘Kẻ dọn rác’ là nữ giới sao?”
“Cẩu Đản nói cậu bé chỉ cảm giác đó là giọng nói phụ nữ, nhưng cụ thể họ nói những gì thì cậu bé không nghe rõ.” Tôi nói tiếp: “Cẩu Đản thường xuyên tiếp xúc với nhóm người nhặt phế liệu, những lúc rảnh rỗi họ thường tếu táo bàn tán về chuyện trai gái. Bởi vậy, Cẩu Đản rất tò mò về những chuyện này. Thế là Cẩu Đản mò đến chỗ cửa sổ nhà ‘chú Hắc’ định bụng nhìn trộm qua rèm cửa sổ rách nát.”
Tôi lật sang trang khác, nói tiếp: “Cảnh tượng mà Cẩu Đản nhìn thấy là ‘chú Hắc’ mình trần như nhộng nằm trên sàn nhà, một người phụ nữ áo trắng ngồi lên người ‘chú Hắc’. Nhìn tiếp thì thấy ‘chú Hắc’ muốn cởi váy của người phụ nữ. Quá trình ‘chú Hắc’ vén áo lên giúp Cẩu Đản nhìn thấy người phụ nữ áo trắng đó đi đôi giày màu xanh da trời rất kỳ lạ.”
“Giày màu xanh da trời sao?” Lâm Đào sờ cằm nói: “Có lẽ là đôi giày đã được bọc một lớp bọc giày. Nếu ánh sáng trong phòng không đủ thì dễ nhìn nhầm thành đôi giày màu xanh da trời.”
Tôi gật đầu tán đồng ý kiến của Lâm Đào: “Đột nhiên, ‘chú Hắc’ kêu 'Hự!' một tiếng, hai chân không ngừng đá lên. Người phụ nữ áo trắng ngồi trên người ‘chú Hắc’ cũng không động đậy gì. Một lát sau, chắc chắn ‘chú Hắc’ thôi giãy giụa, người phụ nữ áo trắng đứng lên, quay người lại.”
Tôi ngẩng đầu nhìn xung quanh một lượt. Hai mắt Đại Bảo mở to nhìn tôi chờ nghe phần tiếp theo của câu chuyện, Lâm Đào lộ vẻ mặt khiếp đảm, Lông Vũ hạ hàng mi dài, cố tỏ ra lạnh lùng như thường ngày.
“Nghe Cẩu Đản nói, người phụ nữ đó không phải người, mà là ma.” Tôi nói tiếp.
“Tôi đã bảo rồi mà, nếu là do người làm thì sớm đã bị chúng ta tóm cổ rồi.” Môi Lâm Đào run rẩy: “Chỉ có ma làm, chúng ta mới không thể bắt được, bằng không làm sao cô ta có thể phạm tội mà không để lại một chút dấu vết nào?”
“Này! Cậu là cảnh sát chứ không phải thầy mo đâu nhé!” Đại Bảo vỗ vai Lâm Đào: “Không để lại dấu vết là bởi hung thủ cố tình xóa dấu vết chứ không phải vì cô ta có năng lực siêu nhiên, rõ chưa? Làm ơn duy vật một tí cho tôi nhờ!”
“Tôi cảm thấy khi đó, Cẩu Đản hoảng sợ đến cực độ nên mới thổi phồng những gì mình nhìn thấy một cách cảm tính.” Tôi nói: “Cậu bé bảo người phụ nữ áo trắng đó không có mặt, chỉ có mái tóc đen rủ xuống.”
“Chuyện này thì dễ giải thích, tóc dài mà xõa về phía trước thì cơ bản sẽ che hết khuôn mặt.” Đại Bảo thấy Lâm Đào run rẩy thì tỏ vẻ coi thường: “Nếu quả thật cô ta không có mặt thì ‘chú Hắc’ còn dám làm chuyện kia với cô ta sao?”
Tôi gật đầu đồng ý: “Cẩu Đản nói ngực áo người phụ nữ dính toàn máu. Sau khi giết người, không rõ cô ta làm gì cạnh thi thể mà ngồi đó rất lâu. Cẩu Đản không thể lom khom nấp ngoài cửa sổ nổi nữa nên định bụng sẽ lặng lẽ chạy trốn, rồi báo cảnh sát. Chẳng ngờ cậu bé bất cẩn đá phải viên ngói dưới chân. Người phụ nữ đột ngột quay phắt người lại, thân thủ vô cùng nhanh nhẹn, phóng vút ra ngoài. Cẩu Đản co giò bỏ chạy đến khu vực bãi rác mới cắt đuôi được người phụ nữ áo trắng. Cậu bé trốn trong đống rác không dám thò mặt ra, mãi sau khi trời sáng mới lò dò bước ra, chạy vội đến chỗ nhóm đồng hương nhặt phế liệu, rồi báo cảnh sát.”
“Mọi người đoán xem, theo Cẩu Đản nói thì người phụ nữ ngồi cạnh thi thể làm gì đó rất lâu, vậy cô ta đã làm gì nhỉ?” Lâm Đào trốn sau lưng Trần Thi Vũ hỏi: “Liệu có phải cô ta đang… ăn xác không?”
“Cậu có nhầm lẫn gì không đấy?” Đại Bảo cười lớn: “Cô ta dùng mật ong để viết ba chữ ‘Kẻ dọn rác’, đã hiểu chưa?”
“Năm xưa Hàn Tín dùng mật ong viết trên bờ sông hàng chữ ‘Bá Vương tự vẫn Ô Giang’ để lừa Hạng Vũ tuân theo ‘mệnh trời’ mà tự vẫn trên dòng Ô Giang.” Tôi nói: “Giờ đây, ả đàn bà này lại dùng phương thức tương tự để hoàn thành mục tiêu giết người. Tuy sau đó, vì nghe thấy tiếng động ngoài cửa sổ nên cô ta chưa kịp hoàn thành chữ cuối cùng, nhưng ba chữ viết trên hiện trường này rõ ràng vẫn do một người viết.”
“Hung thủ sử dụng phương thức này để hoàn thành hành vi lưu lại ký hiệu cá nhân, vậy mục đích của cô ta là gì?” Lâm Đào hỏi.
“Có hai khả năng xảy ra. Khả năng thứ nhất, cô ta muốn khiêu chiến với giới cảnh sát. Khả năng thứ hai, cô ta phát hiện mình viết sai chữ, vì không muốn để lộ nhiều thông tin hơn, nên mới lưu lại cụm từ do kiến tạo thành. Khi dùng mật ong viết chữ, kiến không thể nào lấp đầy cụm từ đó một cách hoàn hảo. Nếu nhìn thoáng qua thì ta vẫn nhận ra ba chữ ‘Kẻ dọn rác’, nhưng nếu nhìn kỹ chi tiết từng chữ thì lại không thấy rõ. Ngay cả chữ viết sai mà trước đây, chúng ta từng nhận ra thì ở đây cũng không được thể hiện một cách hoàn toàn. Có lẽ, khả năng hung thủ nghĩ đến điểm này nên mới dùng kiến tạo ra hình hài nét chữ.”
“Vậy sao trong bốn vụ án trước đây, cô ta lại để lại bút tích?” Đại Bảo hỏi.
Tôi lắc đầu: “Có khả năng xuất phát từ tâm lý cầu may, cũng có khả năng cô ta phát hiện ra chữ mình viết sai nhưng vẫn muốn tiếp tục để lại bút tích riêng trong các vụ án tiếp theo nên đã sử dụng phương thức làm mờ này để đề phòng chúng ta phát hiện ra dấu vết qua các vụ án xảy ra sau này.”
“Chính xác!” Lâm Đào nói: “E rằng đó là manh mối duy nhất có thể giúp ta nhận diện hung thủ.”
“Mặc dù, chúng ta đã tìm ra manh mối này nhưng vẫn chưa thể tìm rahung thủ.” Đại Bảo ủ rũ.
“Chú ơi, cháu về nhà được chưa ạ?” Chúng tôi bàn luận quá tập trung nên chẳng hề để ý Cẩu Đản đã đứng sau lưng từ lúc nào.
“Chú hỏi cháu một câu cuối thôi.” Tôi nói: “Cháu hãy nhớ kỹ xem tướng mạo của người phụ nữ đó trông thế nào?”
“Bà ta không có mặt!” Nét sợ sệt lại hiện rõ trên khuôn mặt Cẩu Đản.
“Thế dáng người cô ta thì sao? Béo hay gầy? Cháu có thể tả lại cho các chú biết được không?” Tôi hỏi.
Cẩu Đản ngẩng đầu nhìn chúng tôi, rồi chỉ vào Trần Thi Vũ: “Dáng người bà ta hao hao giống chị này.”
Chúng tôi cùng đổ dồn con mắt về phía Trần Thi Vũ.
Trần Thi Vũ hơi cuống nói: “Hả? Chị sao? Đúng là ‘đã nằm yên một chỗ rồi mà vẫn bị trúng đạn’.”
* * *
Vụ án mới xảy ra khiến các cảnh sát thuộc tổ chuyên án đều phải nhíu mày lo lắng. Chuyên án ‘Kẻ dọn rác’ do lãnh đạo các Đội Cảnh sát trong tỉnh hợp thành, cảnh sát hình sự phụ trách vụ án này của Phòng Cảnh sát thành phố Vân Thái và thành phố Sâm Nguyên cũng vội vàng lên tỉnh tham gia cuộc họp khẩn cấp.
“Chuỗi huyết án này đã xảy ra vụ thứ năm rồi.” Trưởng phòng Cảnh sát Long Phiên, đồng chí Triệu Kỳ Quốc nói: “Tuy nạn nhân là những người nhặt phế liệu hoặc những người gặp phải trở ngại về mặt tâm thần, nhưng họ vẫn là một sinh mạng đang sống sờ sờ. Nếu không phá án thì chúng ta biết ăn nói thế nào với nhân dân? Nhưng, chúng ta thì sao? Bốn tháng! Đã bốn tháng rồi! Chúng ta vẫn chưa tìm ra bất kỳ manh mối nào có giá trị. Làm sao còn dám mở miệng nói chúng ta là một tập thể ưu tú? Là tập thể chiến thắng mọi kẻ địch mạnh nhất?”
Mọi người đều cúi đầu không nói.
“Tôi không muốn nói nhiều nữa, chỉ hy vọng các đồng chí vực dậy tinh thần.” Trưởng phòng Triệu nói: “Mấy chục anh em đang ngồi đây, kể từ ngày hôm nay, hãy tạm gác mọi công việc, lùi lại ngày nghỉ phép để dốc toàn lực phá vụ án này. Kể từ ngày hôm nay, không có ngày nghỉ phép, lễ tết, cũng không có ngày cuối tuần cho đến khi phá được án mới thôi! Trước hết bộ phận kỹ thuật hình sự hãy báo cáo tình hình cụ thể về vụ án mới xảy ra ngày hôm nay.”
Cả hội trường im phăng phắc, đồng chí Tạ Minh, trưởng khoa Giám định dấu vết của Sở Cảnh sát nói: “Sau khi hoàn thành công tác kiểm tra và giám định hiện trường, ngoại trừ ba chữ ‘Kẻ dọn rác’ viết nghiêng ngả bằng mật ong xuất hiện trên mặt đất gần thi thể ra thì không còn manh mối có giá trị nào khác.”
Trưởng khoa Hồ nói tiếp: “Các bác sĩ pháp y đã tiến hành khám nghiệm thi thể nạn nhân nhưng cũng không phát hiện ra bất kỳ manh mối nào có giá trị. Thủ đoạn gây án của hung thủ hoàn toàn đồng nhất với bốn vụ án xảy ra trước đây, đều sử dụng hung khí tương đối nhẹ và mỏng tương tự dao phẫu thuật, một nhát dao cắm thẳng vào tim dẫn đến mất máu cấp tính, hôn mê, rồi tử vong. Thời gian tử vong là khoảng một rưỡi đêm hôm qua, thời gian hoàn toàn đồng nhất với lời khai của nhân chứng.”
“Hung thủ vẫn đeo găng tay và bọc giày sao?” Tôi hỏi.
Trưởng khoa Tạ Minh gât đầu nói: “Chúng tôi phát hiện vết bọc giày thường thấy tại hiện trường, nhưng không có dấu hoa văn của đế giày. Vì thời gian hung thủ lưu lại hiện trường không lâu nên không có chứng cứ chứng minh cô ta đeo găng tay, nhưng đúng là cô ta không hề để lại dấu vân tay tại hiện trường.”
“Bộ phận điều tra báo cáo tiến triển.” Trưởng phòng Triệu nói.
“Thông qua việc điều tra bốn phía xung quanh hiện trường, chúng tôi phát hiện xung quanh hiện trường không có camera giám sát.” Viên cảnh sát điều tra nói: “Cũng không có nhân chứng thứ hai nhìn thấy người phụ nữ mặc áo trắng đó.”
“Các đồng chí đã mở rộng phạm vi điều tra ra khu vực xung quanh hiện trường chưa?” Tôi hỏi: “Hung thủ mặc nguyên bộ quần áo nhuốm máu và đeo bọc giày rời khỏi hiện trường, chắc chắn cô ta phải tìm cách vứt chúng đi chứ?”
“Có thể rửa sạch, rồi đốt thành tro mà!” Viên cảnh sát hình sự nói: “Tóm lại, chúng tôi không phát hiện thấy vật khả nghi rõ rệt ở khu vực xung quanh. Anh biết rồi đấy, quanh đây là bãi rác lớn, muốn lục soát kỹ cũng đành bó tay.”
“Điều đó cũng có nghĩa là dù chuỗi huyết án đã xảy ra vụ thứ năm rồi, nhưng chúng ta vẫn không hề nắm được manh mối gì sao?” Trưởng phòng Triệu trừng mắt hỏi.
Mọi người lại cúi đầu không nói.
“Công tác điều tra loại trừ khi trước không hề có tiến triển gì sao?” Tôi hỏi.
Trưởng khoa Hồ gật đầu: “Khi đó, chúng tôi đã tiến hành phân tích thông tin lưu trú ở cả ba thành phố Long Phiên, Vân Thái và Sâm Nguyên vào thời điểm xảy ra án mạng. Chúng tôi tìm thấy khá nhiều người phù hợp với điều kiện nêu trên. Chúng tôi lần lượt tiến hành điều tra loại trừ các đối tượng nữ giới làm nghề liên quan đến pháp y, y học và những đối tượng có tiền án tiền sự, nhưng đều cảm thấy không giống lắm. Vì không có căn cứ phân biệt, nên cũng không thể khẳng định hay loại trừ họ.”
“Bây giờ có ý kiến hay phán đoán gì, các đồng chí cứ thoải mái nêu ra, tôi cần biết suy nghĩ của các đồng chí về công tác tiếp theo.”
Tôi hắng giọng: “Tôi cảm thấy công việc tiếp theo là cần tiến hành xung quanh ba phương diện. Thứ nhất, tiếp tục tiến hành điều tra loại trừ những đối tượng trong phạm vi mà trưởng khoa Hồ vừa nói đến, cần phải lần lượt thẩm vấn, điều tra và loại trừ những nhà nghỉ chui không đăng ký giấy phép kinh doanh ở cả ba thành phố, đề phòng trường hợp bỏ sót nghi phạm. Nếu hung thủ cố tình đến các thành phố khác gây án, thì chắc chắn cô ta sẽ không dùng chứng minh thư thật để đăng ký nghỉ trọ tại các nhà nghỉ hoặc khách sạn chính quy. Ngoại trừ những người không có thời gian gây án, còn những đối tượng khác bắt buộc phải tiến hành giám định nét chữ. Tuy hiện giờ, có khả năng hung thủ đã phát hiện ra thói quen viết chữ sai của mình, hoặc có thể cô ta ngụy trang khi chấp nhận điều tra, nhưng chúng ta không thể từ bỏ bất kỳ con đường nào. Thứ hai, chúng ta phải tiến hành kiểm tra theo hình thức cuốn chiếu với từng băng ghi hình trong máy camera, tất cả những đối tượng là phụ nữ mặc áo trắng, tóc dài xuất hiện trong camera đều phải tiến hành kiểm tra, phân biệt, cố gắng xác định rõ trong khoảng thời gian nhất định những người phụ nữ xuất hiện xung quanh khu vực đó là những ai. Thứ ba, tôi cảm thấy có thể điều tra loại trừ một loạt những đối tượng gái mại dâm mới hành nghề.”
“Anh nghi ngờ hung thủ là gái mại dâm sao?” Trưởng phòng Triệu hỏi.
Tôi nói: “Dùng nhan sắc khiến những đối thủ mạnh hơn mình lơi lỏng cảnh giác, đối tượng làm tôi nghĩ đến nhiều nhất chính là những cô gái mại dâm. Giờ chúng ta đã không nắm được chút manh mối nào thì chi bằng cứ còn nước còn tát mà thử vận may xem sao.”
“Vậy có nghĩa bây giờ anh bắt đầu hoài nghi về điều kiện xác định đối tượng tình nghi ban đầu là ‘liên quan đến pháp y’ hoặc ‘liên quan đến y học rồi sao?” Trưởng phòng Triệu hỏi.
Tôi gật đầu: “Đã điều tra loại trừ không có hiệu quả thì nên nghĩ đến việc phạm vi khoanh vùng của chúng ta chưa chính xác.”
“Vậy bây giờ chúng ta nên bắt đầu từ phạm vi nào?” Trưởng phòng Triệu hỏi.
Tôi lắc đầu: “Tôi cũng không biết, những phụ nữ có mái tóc dài và dáng người giống đồng chí Trần Thi Vũ. Chỉ vậy thôi!”
“Không giới hạn tuổi tác.” Trưởng phòng Triệu nói: “Những phụ nữ phù hợp với điều kiện anh vừa nêu của cả ba thành phố dễ đến mấy triệu người, tìm thế khác nào mò kim đáy biển?!”
“Ngoài ra, tôi cần bản photo hồ sơ của cả năm vụ án đã xảy ra.” Tôi nói: “Lúc nào về phòng, chúng tôi sẽ nghiên cứu cẩn thận xem có tìm ra phát hiện mới nào không.”
Kiếp Phong TrầnPhần 2
Tuần đó trôi qua rất nhanh. Ngày nào tôi, Đại Bảo, Lâm Đào, Trần Thi Vũ và thậm chí cả Hàn Lượng cũng ngồi đọc hồ sơ của năm vụ án ở văn phòng rất kỹ, chúng tôi muốn tìm ra chỗ mà có khả năng mình từng bỏ sót.
Hồ sơ ghi rất tường tận nhưng chẳng có điểm nào đáng chú ý, thủ đoạn của hung thủ quá tinh vi, thậm chí đến mức chúng tôi không biết phải châm kim vào lỗ thủng nào.
“Lẽ nào đây là vụ án phạm tội một cách hoàn hảo sao?” Dần dà Đại Bảo bắt đầu nghi ngờ chính điều mà mình luôn vững tin.
Cùng lúc đó, công tác điều tra mà tổ chuyên án đang triển khai cũng được tiến hành một cách khẩn trương và rầm rộ, nhưng không hề thu hoạch được kết quả gì.
Sáng sớm ngày 24 tháng 7, khi chúng tôi vẫn đang miệt mài xem hồ sơ thì thầy gọi điện thoại đến: “Phòng Cảnh sát thành phố Lệ Kiều vừa gửi thư yêu cầu chúng ta mau chóng cử chuyên gia giám định và bác sĩ pháp y đến Lệ Kiều trợ giúp.”
“Lệ Kiều sao?” Tôi nói: “Ở đó ít xảy ra án mạng nhưng lại rất thường xuyên có đơn thư khiếu nại, liệu có phải lần này cũng là vụ khiếu nại không ạ?”
Chúng tôi đang rất hăm hở với chuyên án ‘Kẻ dọn rác’ nên ngay cả người rất thích đi hiện trường như tôi lúc này, cũng cảm thấy lười nhác.
“Không, lần này là án mạng.” Thầy nói: “Một cô gái trẻ bị sát hại ngay tại nhà. Kết quả kiểm tra bước đầu cho thấy hung thủ đã tiến hành quét dọn và làm sạch hiện trường.”
Tôi lặng lẽ gật đầu, tuy cần gấp rút thanh lý hết những vụ án tồn đọng nhưng đồng thời vẫn phải đảm bảo nhanh chóng xử lý những vụ án mới xảy ra, tuyệt đối không để án mới biến thành án tồn.
Tôi gác điện thoại, nhìn các đồng nghiệp trong văn phòng một lượt, rồi nói: “Có án mạng ở Lệ Kiều, chúng ta mau xuất phát thôi!”
Mọi người đều đứng dậy chuẩn bị vật dụng cần thiết, chỉ mình Đại Bảo vẫn ngồi tại chỗ, cậu ta vừa giở hồ sơ, vừa bấm đốt ngón tay như thể đang tính toán điều gì.
“Ê! Đi hiện trường án mạng thôi, không đi là mắc trĩ đấy!” Hàn Lượng trêu chọc.
Tôi giơ tay, nói với Đại Bảo bằng giọng trưng cầu ý kiến: “Hay thế này, mấy người bọn tôi đến hiện trường ở Lệ Kiều, còn Đại Bảo ở lại xem tiếp hồ sơ, nếu cần thiết, chúng ta sẽ tổ chức các bác sĩ pháp y của thành phố khám nghiệm lại thi thể, như thế được không?”
Đại Bảo gật đầu. Mấy người chúng tôi vô cùng kinh ngạc, vì Đại Bảo là kiểu bác sĩ pháp y không đi hiện trường thì chắc chắn không thể ngủ nổi, sao lần này cậu ta lại không muốn đến hiện trường vụ án mà tình nguyện cố thủ ở nhà gặm nốt đống xương khó nhằn kia nhỉ?
“Tôi thấy Đại Bảo và chị Bảo đã ổn định trở lại nên muốn giảm bớt mật độ đi công tác đây!” Lâm Đào nói vậy khi đã ngồi trong xe ô tô.
Tôi lắc đầu: “Với tính cách của chị Bảo, thì trước đây, cô ấy đòi chia tay với Đại Bảo không phải vì không ủng hộ công việc của cậu ấy mà vì cảm thấy Đại Bảo không quan tâm đến cảm xúc của cô ấy. Chị Bảo là người phụ nữ hiền đảm[*], không bao giờ có chuyện ngăn cản Đại Bảo đi công tác đâu.”
“Nếu Đại Bảo không đi công tác, thì câu nói kinh điển 'Khám nghiệm hiện trường coi thường bệnh trĩ' của anh ấy không còn tồn tại nữa rồi!” Hàn Lượng tếu táo.
Tôi cúi đầu ngẫm nghĩ, rồi nói: “Tôi cảm thấy dường như Đại Bảo phát hiện ra điều gì đó, chỉ có điều cậu ấy chưa chuẩn bị xong đâu vào đấy để nói cho chúng ta biết mà thôi.”
“Bất kể thế nào, chúng ta phải mau chóng 'thanh toán' vụ án mạng vừa xảy ra mới được!” Trần Thi Vũ ngồi ở ghế phụ lái buông một câu nhàn nhạt.
Thể theo yêu cầu của Phòng Cảnh sát Lệ Kiều, xe cảnh sát chúng tôi lái vào khu phố cổ, ở đây vẫn bảo tồn được nguyên vẹn những kiến trúc cổ. Bên trong có nhiều ngõ nhỏ rẽ ngách ngoằn ngoèo. Xe cảnh sát dừng lại ở đầu một con ngõ vì bác sĩ pháp y Ngô Hưởng của Phòng Cảnh sát thành phố Lệ Kiều đang đứng đợi chúng tôi ở đó.
“Tôi ghét nhất loại ngõ nhỏ thế này.” Lâm Đào nhảy xuống xe lẩm bẩm: “Trông sặc mùi kinh dị.”
Trần Thi Vũ che miệng cười: “Tôi chưa thấy ai làm cảnh sát mà nhát gan như anh.”
Lâm Đào gân cổ lên nói: “Tôi mà nhát gan á? Thi thể kiểu gì tôi cũng gặp rồi đấy nhé! Trừ bác sĩ pháp y ra thì ai còn dám vỗ ngực tuyên bố gan dạ hơn tôi? Chỉ có điều tôi hơi sợ ma chút thôi.”
Bác sĩ Ngô Hưởng dẫn đường cho chúng tôi đi xuyên qua những con ngõ rối rắm như mê cung cho đến đầu một con ngõ nhỏ khác.
Đầu ngõ bị chặn lại bởi hai hàng dây cảnh báo song song, mười mấy viên cảnh sát đứng chen chúc ở hai bên sợi dây, yêu cầu người dân sống quanh đó hoặc cần đi qua ngõ đó phải đi vòng sang đường khác.
“Tôi ghét những con ngõ kiểu này còn vì một nguyên nhân khác.” Lâm Đào như muốn cố vớt vát thể diện nên bổ sung thêm: “Với những con ngõ hẹp thế này thì mọi dấu vết phạm tội ở trước ngõ gần như không còn tồn tại.”
“Đây chính là hiện trường.” Bác sĩ Ngô Hưởng nói: “Đúng như trưởng khoa Lâm nói, khi vừa đến nơi, chúng tôi lập tức tiến hành kiểm tra mặt đất, nhưng đáng tiếc có quá nhiều dấu vết mới chèn lên khiến chúng tôi không thể phân biệt nổi đâu mới là dấu vết liên quan đến tội ác.”
Tôi ngoảnh đầu nhìn tứ phía, rồi nói: “Đã không tìm thấy dấu vết ở trước ngõ thì chi bằng kéo dây cảnh báo đến trước cổng. Chúng ta căng dây cảnh báo rộng thế này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc đi lại và sinh hoạt của người dân sống quanh đây.”
“Không làm thế được!” Bác sĩ Ngô Hưởng lắc đầu giải thích: “Bốn phía quanh đây đều là kiến trúc cổ, thường có kết cấu nhà ở và sân vườn. Nhưng, hiện trường chúng ta cần xem xét lại không phải vậy, chỉ cần mở cánh cửa này vào bên trong sẽ là một căn hộ khép kín, ngay tại cửa có thể trông thấy ngay tình hình trong hiện trường. Trước đây, nơi này là phòng xử phạt của những hộ nhà giàu thời xưa, đó là một căn phòng nhỏ được xây biệt lập phía sau vườn của những hộ nhà giàu, gia nhân trong nhà phạm lỗi phải vào trong đó hối lỗi. Sau giải phóng, những ngôi nhà như thế này, được chia ra thành những khu vườn nhỏ phân cho dân chúng. Căn phòng này và khoảnh sân vườn bên cạnh thuộc về một chủ hộ. Chủ nhà sống ở thành phố Long Phiên, mỗi năm về đây một lần để thu tiền cho thuê phòng.”
“Hai gian phòng này có những ai thuê?” Tôi ngoảnh đầu nhìn cặp vợ chồng trng niên ở sát vách đang trả lời thẩm vấn của cảnh sát.
“Nhà kế bên có một cặp vợ chồng bán hàng ăn đêm đang thuê.” Bác sĩ Ngô Hưởng đáp: “Nhà họ có bốn người, hai vợ chồng và hai đứa con. Nghe nói mười một giờ đêm qua, cả nhà họ vào thành phố bày hàng ăn ở phố đi bộ, mãi đến hơn sáu giờ sáng mới về nhà ngủ. Khi chúng tôi gõ cửa thì đúng là họ vẫn đang ngủ.”
“Chuyện này tôi nghe kể rồi, phố ăn đêm ở Lệ Kiều nổi tiếng khắp toàn tỉnh mà!” Lâm Đào vô thức liếm môi.
“Thế còn nạn nhân thì sao? Thuê căn phòng nhỏ thế này thì chắc điều kiện cũng không dư dả gì.” Tôi thấy hiện trường vẫn đóng chặt cửa nên hỏi.
Bác sĩ Ngô Hưởng lắc đầu: “Căn cứ vào việc đối chiếu lai lịch nạn nhân, chúng tôi xác định nạn nhân là cô gái nông thông sống ở vùng ven thành phố Lệ Kiều. Hai năm trước, cô ta đến Lệ Kiều và thuê căn phòng này từ đó đến nya. Cô gái đó tên là Dương yến, hai mươi tư tuổi, chưa kết hôn. Nghe hai vợ chồng họ Lữ sống sát vách nói, cô gái này có tính cách hướng nội, làm hàng xóm với nhau suốt hai năm mà chẳng thấy cô ta nói mấy câu. Buổi sáng cô ta ra khỏi nhà, chiều mới về, chẳng rõ làm nghề gì. Thỉnh thoảng họ lại thấy có đàn ông đến nhà chơi.”
“Đàn ông ư? Cô ta là gái bán hoa sao?” Lâm Đào hỏi.
Bác sĩ Ngô Hưởng lắc đầu: “Chuyện này thì không dám khẳng định. Hai vợ chồng họ Lữ cũng không chắc chắn mấy lần họ nhìn thấy đó là cùng một người đàn ông hay nhiều người đàn ông khác nhau, vì họ không để ý. Nhưng, căn cứ vào cách cư xử và ăn mặc của Dương Yến thì có vẻ không phải gái bán hoa, cô ta trông rất thuần khiết.”
“Trước mắt chúng tôi đang tổ chức lực lượng tiến hành điều tra cách kiếm sống của Dương Yến.” Một cảnh sát nói.
Tôi mặc đồng phục khám nghiệm, đẩy cửa bước vào phòng. Bên trong phòng hoàn toàn khác biệt so với những gì chúng tôi nhìn thấy ở bên ngoài, căn phòng được trang hoàng rất ấm cúng và thoáng khí.
Tôi ngẩng đầu nhìn máy điều hòa lắp trên tường đang ở chế độ bật, liền nói: “Không nên tự tiện bật điều hòa tại hiện trường!”
Bác sĩ Ngô Hưởng gật đầu, giọng nói qua khẩu trang nghe hơi yếu ớt: “Đèn điện, điều hòa và ti vi đều đã bật từ trước khi chúng tôi đến, màn hình máy vi tính đang ở trạng thái screen saver.”
Căn phòng có kết cấu khép kín. Từ cửa lớn đi vào là một hành lang rất hẹp, một bên hành lang là nhà vệ sinh, trước nhà vệ sinh là một bệ bếp đơn giản, bên trên bệ bếp đặt một vài đồ dùng nhà bếp như nồi niêu xoong chảo. Tận cùng dãy hành lang chật chội đó là một căn phòng, trong phòng kê một chiếc giường lớn, một tủ đầu giường, một máy vi tính và một chiếc ti vi. Căn phòng tuy nhỏ nhưng khá tiện nghi và đầy đủ. Khắp phòng đều treo thú nhồi bông hoạt hình, ga giường màu hồng phấn khiến người ta cảm thấy rất ấm áp và ngọt ngào.
Trên bức tường đối diện với hành lang và cửa lớn treo tấm rèm cửa màu hồng, phía trên rèm cửa treo một khung ảnh, trong khung ảnh là cô gái mặc đồng phục, nhìn thẳng vào ống kính máy ảnh và cười rất ngố. Tuy cô gái trong bức ảnh chỉ trang điểm qua loa nhưng vẫn không che giấu được gương mặt thanh tú và nụ cười hút hồn.
Cô gái có vẻ đẹp trong sáng trong bức ảnh giờ đây đang lõa thể nằm sõng soài bên cạnh tủ ti vi.
“Trên sàn nhà có rất nhiều vết lau chùi.” Bác sĩ Ngô Hưởng nói: “Xét nghiệm máu tiềm ẩn đều cho ra kết quả dương tính. Chúng tôi theo hướng vết lau chùi trên sàn nhà thì tìm thấy cây lau nhà trong phòng vệ sinh, cây lau nhà dính toàn máu.”
“Nạn nhân có xuất huyết không?” Tôi nhìn thi thể nữ lõa thể nằm bẹp cạnh chân tủ ti vi.
“Có!” Bác sĩ Ngô Hưởng nói: “Tôi vừa tiến hành kiểm tra bước đầu, có lẽ là rách động mạch cổ.”
“Hiện trường được dọn dẹp rất sạch sẽ.” Tôi ngồi xổm quan sát sàn nhà. Nếu không quan sát kỹ thì không thể nhìn thấy sàn nhà từng dính rất nhiều máu. Mà ngay cả máu cũng đã được lau chùi sạch sẽ thì càng không thể tìm thấy vết chân hay dấu vết gì đó tương tự trên sàn nhà tại hiện trường.
“Vậy có dấu vết vật lộn không?” Lâm Đào hỏi.
Bác sĩ Ngô Hưởng lắc đầu, rồi nêu nhận định: “Rõ ràng đây là hiện trường vụ án cưỡng bức, rồi giết người, chúng tôi không tìm thấy dấu vết cướp đoạt tài sản.”
“Cưỡng bức, rồi giết người sao?” Tôi nhíu mày hỏi: “Các anh đã phán đoán ra thời gian tử vong chưa?”
“Trong phòng bật điều hòa, nhiệt độ để ở mức 29°C.” Bác sĩ Ngô Hưởng nói: “Xét đến việc nhiệt điều hòa không ổn định, mà thi thể được đặt ngay phía dưới cửa gió của điều hòa nên tôi cho rằng thi thể sẽ hạ nhiet độ nhanh hơn so với điều kiện bình thường. Kết hợp với tình hình co cứng của thi thể và mức độ hóa đục của giác mạc, chúng tôi bước đầu phân tích nạn nhân tử vong vào lúc sau mười hai giờ đêm hôm qua.”
“Điều đó có nghĩa là vào lúc sau nửa đêm sao?” Tôi nói.
Bác sĩ Ngô Hưởng gật đầu đáp: “Vào khoảng thời gian này, hai vợ chồng họ Lữ kế bên không ở nhà. Gia đình hàng xóm gần nhất cũng cách đây mười mấy mét. Bởi vậy, cư dân sống lân cận đều không nghe thấy tiếng vật lộn hay kêu cứu.”
“Vậy hung thủ đột nhập hiện trường bằng cách nào?” Tôi đứng ở cạnh cửa sổ đối diện với cửa chính, vén rèm cửa màu hồng rất dày lên, cánh cửa sổ đóng chặt, khung kim loại bảo vệ phía ngoài cửa sổ lành lặn nguyên vẹn.
“Điều tra cho thấy nạn nhân là người có tính cách hướng nội, không giao tiếp với người khác.” Bác sĩ Ngô Hưởng nói: “Cạnh cửa sổ cũng không có vết nạy bẩy hoặc phá hoại. Bởi vậy, hung thủ chỉ có thể ra vào bằng lối cửa chính.”
“Tôi quan sát rồi, mặt bên ngoài của cửa lớn là cửa gỗ bình thường nhưng mặt bên trong lại là cửa chống trộm rất dày.” Lâm Đào nhòm vào lỗ khóa chống trộm nhìn thật kỹ, rồi nói: “Cửa lớn không có vết nạy ép, phá hoại. Cửa gỗ phía ngoài cũng trong tình trạng bình thường.”
“Vậy ai đã báo cảnh sát? Khi các anh vừa tới hiện trường thì tình hình hiện trường như thế nào?” Tôi hỏi.
Ngô Hưởng nói: “Một người đàn ông trung niên tên là Bao Lâm Ngạo sống cách đây chừng một trăm mét đã gọi điện báo án. Anh ta nói rằng bảy giờ sáng hôm nay, khi đi ngang qua ngõ này, anh ta phát hiện cửa phòng mở lớn, ngay từ cửa anh ta đã nhìn thấy tử thi nữ nằm cạnh chân tủ ti vi ở trong phòng. Bởi vậy, anh ta gọi điện báo cảnh sát. Khi cảnh sát đến nơi thì chỉ thấy một mình người báo án đứng thò đầu vào trong.”
“Hơn bảy giờ sáng mà ở đây vẫn chưa có người đi ngang qua sao?” Tôi vừa nhìn cửa lớn vừa hỏi.
“Nhịp sống của người dân miền Nam tương đối chậm rãi.” Bác sĩ Ngô Hưởng cười cười: “Chín giờ họ mới đi làm, trên phố lúc tám giờ ở chỗ chúng tôi vẫn chưa tắc đường. Vì vậy, bảy giờ sáng được coi là rất sớm. Hơn nữa, vùng này tương đối vắng vẻ, thông thường chỉ có những người sống xung quanh mới đi ngang qua. Ngõ ngách rối rắm, phức tạp nên dẫu sống ở gần cũng chưa chắc đi ngang qua ngõ này.”
“Vậy hung thủ đột nhập vào hiện trường bằng cách nào?” Tôi nhắc lại câu hỏi khi nãy.
“Không còn nghi ngờ gì nữa, chắc chắn hung thủ ung dung bước vào nhà sau khi được sự cho phép của gia chủ.” Bác sĩ Ngô Hưởng khẳng định.
“Một cô gái có tính cách hướng nội lại tùy tiện mở cửa cho người khác vào nhà lúc nửa đêm sao?” Tôi hỏi.
“Hơn nữa, người đó còn là đàn ông.” Bác sĩ Ngô Hưởng không những không trả lời câu hỏi của tôi, ngược lại anh còn nói đế thêm: “Xét nghiệm tinh dịch trong âm đạo của nạn nhân cho kết quả dương tính.”
“Anh đoán xem, liệu đó có phải người đàn ông mà hai vợ chồng họ Lữ trông thấy không?” Tôi hỏi.
“Ý anh là người quen sao?” Bác sĩ Ngô Hưởng hỏi: “Anh nói vậy thì tôi yên tâm rồi, ban đầu chúng tôi cũng cho rằng đây là vụ án mạng người quen gây án rất điển hình. Nói gì thì nói, thông thường đàn bà con gái sống một mình sẽ không mở cửa cho người lạ vào nhà mình lúc nửa đêm, dẫu lừa thế nào họ cũng không mở.”
Tôi đi một vòng quanh căn phòng, hiện trường rất nhỏ hẹp, cũng không có gì cần đặc biệt kiểm tra hay giám định. Tôi bước đến trước tấm ga trải giường màu hồng thì thấy ga giường khá ngay ngắn, phẳng phiu, trên giường trải tấm chăn mỏng, vỏ chăn cũng màu hồng.
“Thanh niên bây giờ đều thích bật điều hòa đắp chăn phải không?” Bác sĩ Ngô Hưởng hỏi với giọng của lớp người già.
Tôi kéo chăn sang một góc, thấy ga giường rất sạch sẽ, đương nhiên cũng rất ngay ngắn.
“Chẳng lẽ hung thủ không cưỡng bức nạn nhân trên giường sao?” Tôi hỏi.
Bác sĩ Ngô Hưởng lắc đầu: “Chúng tôi đã kiểm tra đệm và ga trải giường rất kỹ, đúng là tất cả đều được trải phẳng một cách rất tỉ mẩn. Theo phân tích của chúng tôi, có lẽ nạn nhân bị cưỡng bức ngay gần tủ ti vi, quần áo ngủ của cô ta rơi vung vãi gần khu vực đó, trên áo ngủ còn dính máu. Vết máu không nhiều nhưng là vết dạng phun bắn, có lẽ áo ngủ nạn nhân bị cởi ra trước và vứt gần đó, sau đó nạn nhân mới bị đâm một nhát vào cổ. Đáng tiếc, vùng gần thi thể đã được lau dọn sạch sẽ nên không còn bất kỳ dấu vết nào.”
“Điều đó cũng có nghĩa là bất kể cưỡng bức hay giết người thì những hành động đó đều được thực hiện ở vị trí cách xa ga giường phải không?” Tôi hỏi.
Bác sĩ Ngô Hưởng gật đầu.
“Vậy sao ở đây lại có máu?” Tôi cầm tấm chăn mỏng lên, nhìn mép chăn nhuốm đỏ máu.
“Ô! Chúng tôi không chú ý đến chỗ này.” Bác sĩ Ngô Hưởng vội vàng nói: “Vị trí nguyên bản của tấm chăn này là ở trên giường, mà trên giường lại hoàn toàn sạch sẽ nên chúng tôi đã không kiểm tra kỹ. Nào, lấy mẫu máu trên chăn đi!”
“Không sao đâu! Người quen gây án lại còn để lại ADN, tôi nghĩ vụ án này có lẽ, không khó phá giải lắm đâu.” Tôi mỉm cười: “Các cảnh sát điều tra đã bắt đầu tiến hành điều tra rồi, việc xét nghiệm ADN chắc cũng mất chừng ba tiếng mới có kết quả. Chúng ta tranh thủ thời gian tiến hành giải phẫu tử thi, cố gắng hoàn thành công việc trước khi bên xét nghiệm hoàn thành công việc của họ.”
Kiếp Phong TrầnPhần 3
Tôi và Ngô Hưởng hợp lực khiêng thi thể lên bàn giải phẫu. Khi lật thi thể lại mới thấy khắp người nạn nhân đều có vết thương.
“Ô, khi ở hiện trường chỉ thấy phần lưng hoàn toàn lành lặn.” Bác sĩ Ngô Hưởng nói: “Nhưng, giờ lật lại mới thấy vết thương phủ khắp mình mẩy tử thi.”
Vết thương phân bố ở nhiều chỗ trên thân thể nạn nhân, chủ yếu là các vết xuất huyết dưới da và vết trầy xước. Từ đây có thể thấy lúc còn sống nạn nhân đã trải qua quá trình giằng co, vật lộn kịch liệt với hung thủ. Chúng tôi tiến hành đo đạc, chụp ảnh, ghi chép từng vết thương, riêng công việc khám nghiệm sơ bộ bề mặt tử thi đã mất hơn một tiếng đồng hồ.
“Vết thương trầy xước trên người nạn nhân chủ yếu được hình thành trong quá trình vật lộn với hung thủ và cọ xát vào các đồ gia dụng trong phòng. Còn vết xuất huyết dưới da, chúng ta có thể thấy ngoại trừ một vài vết tím do va chạm với đồ đạc thì những vết còn lại đều tập trung ở chân tay, đây là vết thương do bị khống chế rất điển hình.” Tôi nói.
“Tôi từng nghe bài giảng của anh, anh cho rằng khi trên cơ thể nạn nhân xuất hiện nhiều vết thương do khống chế, hơn nữa những vết thương đó rất rõ ràng thì có khả năng sức khống chế của hung thủ không đủ mạnh, thể lực chỉ ngang ngửa với nạn nhân, phải vậy không?” Bác sĩ Ngô Hưởng nói.
Tôi lặng lẽ gật đầu, lấy bông lau sạch cổ nạn nhân. Sau khi vết máu bám dọc theo cổ nạn nhân được làm sạch, da cổ dần dần hiện ra. Ngoại trừ vết thương mở miệng rộng hoác nằm bên sườn cổ phải thì phần cổ nạn nhân còn có khá nhiều vết trầy da.
Tôi lật mí mắt nạn nhân lên, thấy không ít điểm xuất huyết, liền nói: “Tồn tại hiện tượng ngạt thở, mọi người xem này, chấm xuất huyết rất rõ rệt. Điều này chứng tỏ hai vấn đề. Thứ nhất, kết hợp với vết thương ở cổ cho thấy hung thủ đã thực hiện động tác bóp siết cổ nạn nhân dẫn đến hiện tượng ngạt thở cơ học và có nguy cơ tử vong.”
“Hả? Không phải tử vong do mất máu quá nhiều sao?” Lâm Đào ngạc nhiên hỏi.
“Vết hoen tử thi rất nhạt, con ngươi và móng tay trắng bợt, đây là đặc trưng của những tử thi tử vong do mất máu.” Tôi nói: “Chứng tỏ trước khi bị cắt đứt huyết quản thì nạn nhân vẫn là một thực thể sống. Động tác bóp cổ này chỉ khiến nạn nhân rơi vào tình trạng ngạt thở và cùng lắm là hôn mê.”
“Còn vấn đề thứ hai là gì?” Bác sĩ Ngô Hưởng hỏi.
Tôi nói: “Vấn đề thứ hai, việc hung thủ bóp cổ nạn nhân không làm nạn nhân tử vong chứng tỏ thể lực của hung thủ không tốt lắm, sức khống chế có hạn.”
“Những vết trầy xước ở cổ cũng nói lên điều này.” Bác sĩ Ngô Hưởng bổ sung.
Vết trầy xước ở cổ nạn nhân phân bố lộn xộn, những vết trầy xước rõ rệt chủ yếu nằm ở mé cổ trái. Vết trầy xước ở mé cổ trái có dạng vệt dài, trong khi mé cổ phải có thêm vết thương hình bán nguyệt, rõ ràng đó là dấu móng tay.
“Các anh xem kìa, sao da bụng nạn nhân lại sáng ánh lên thế kia?” Lâm Đào hỏi.
Tôi nhìn lại phần da bụng của nạn nhân, nhưng không hề thấy hiện tượng gì khác thường. Thế là tôi đến gần góc mà Lâm Đào đang quan sát, quả nhiên có thể nhìn thấy một khoảng nhỏ trên da bụng ánh lên lấp lánh. Vị trí Lâm Đào đang đứng lùi về sau hơn. Bởi vậy, khi nhìn về phía thi thể thì chẳng khác nào đó là vị trí lấy được ánh sáng xiên, có thể thấy được chút phản xạ ánh sáng và vài chỗ da có khác biệt rất nhỏ.
Tôi lấy tăm bông thấm vùng da bụng ánh nhũ, rồi lấy que thử tinh dịch làm xét nghiệm nhanh, sau khi kiểm tra quả nhiên cho thấy chất ánh nhũ trên bụng nạn nhân là tinh thể của tinh trùng.
“Nhưng, đã lấy được tinh dịch trong âm đạo của nạn nhân rồi, giờ lấy thêm ở bụng nữa cũng đâu có ý nghĩa gì?” Bác sĩ Ngô Hưởng thắc mắc.
Tôi nói: “Dẫu sao đó cũng là tinh dịch ở hai chỗ tương đối độc lập. Bởi vậy, tôi nghĩ cứ lấy đi xét nghiệm cho chắc chắn. Lỡ đâu xảy ra trường hợp bất thường thì sao?”
Vùng kín của nạn nhân không có vết thương rõ rệt, vết rách ở màng trinh là vết rách cũ.
Tôi bắt đầu tiến hành phẫu thuật phần cổ thi thể. Cơ cổ xuất huyết thành vạt rộng, cơ ức đòn chũm ở mé cổ bên phải đã đứt lìa, kết hợp với việc da cổ không có vết thử dao, cũng không có vết trầy xước, thì có lẽ, nạn nhân bị đâm trong trạng thái cơ thể đã được cố định tại một chỗ, hung thủ lấy hung khí là vật sắc lưỡi đơn đâm rách huyết quản.
“Nạn nhân và hung thủ trải qua quá trình vật lộn trong phạm vi rộng, nhưng nhát dao này lại tồn tại cô lập, vả lại được tạo ra trong trạng thái đã cố định vị trí của cơ thể. Điểm này cho phép chúng ta tái hiện lại động tác của hung thủ.” Tôi nói: “Đầu tiên, hắn bóp cổ nạn nhân, làm nạn nhân hôn mê, sau đó dùng dao đâm rách động mạch cổ của nạn nhân.”
“Hành vi gia cố sao?” Bác sĩ Ngô Hưởng hỏi.
Tôi gật đầu.
Bác sĩ Ngô Hưởng lắc đầu: “Xem ra tên hung thủ này khá ‘giàu kinh nghiệm’ đấy nhỉ!”
“Đúng vậy! Hành vi gia cố cho nạn nhân chết hẳn và hành vi quét dọn hiện trường…” tôi nói: “Một mặt chứng tỏ có khả năng hung thủ và nạn nhân quen biết nhau. Mặt khác, chứng tỏ hung thủ có ý thức xóa dấu vết rất tốt, có khả năng hắn là kẻ từng phạm tội, có tiền án tiền sự.”
Qua khám nghiệm tử thi cho thấy khắp cơ thể và cơ quan nội tạng của nạn nhân xuất hiện triệu chứng thiếu máu, trong huyết quản gần như trống rỗng, đây đều là những đặc điểm điển hình của trường hợp tử vong do mất máu. Thông qua việc kiểm tra thức ăn trong dạ dày có thể chứng thực nạn nhân tử vong vào giữa đêm ngày 23.
“Giờ tôi lại có một nghi vấn.” Tôi nói: “Chi bằng chúng ta đến hiện trường kiểm tra lại, sau đó đi gặp tổ chuyên án sau.”
Lâm Đào thấy lạ hỏi: “Hiện trường đã được lau dọn sạch sẽ, phần lớn máu trên sàn nhà cũng được lau sạch, đã không còn dấu vết có giá trị giám định thì chúng ta quay lại đó làm gì?”
“Từ lượng máu bị mất trong cơ thể nạn nhân có thể thấy đúng là lẽ ra tại hiện trường phải có lượng máu lớn.” Bác sĩ Ngô Hưởng nói: “Trong cơ thể người có 4.000ml máu, tôi thấy chí ít trên hiện trường phải có 1.000ml máu. Nhưng, giờ trên hiện trường lại không có vết máu rõ rệt, mặc dù thông qua xét nghiệm máu tiềm ẩn đã tìm thấy vết máu, nhưng chỉ là lượng rất nhỏ. Điều đó chứng tỏ hung thủ đã quét dọn hiện trường rất cẩn thận, lau sàn nhà nhiều lần mới có thể khiến một lượng máu lớn như thế, biến mất sạch trơn.”
“Đúng là một kẻ phạm tội thận trọng và tỉ mỉ.” Trần Thi Vũ nói.
Tôi lắc đầu: “Có thể hắn là kẻ thận trọng, nhưng cũng có thể chỉ là hành động bảo sao làm vậy.”
“Thế nào gọi là ‘bảo sao làm vậy’?” Trần Thi Vũ hỏi.
Tôi lắc đầu: “Còn chưa dám chắc. Chúng ta mau trở lại hiện trường thì hơn.”
Khi trở lại hiện trường chúng tôi thấy cảnh sát đã thu nhỏ phạm vi quây rào cảnh báo đến tận cửa phòng hiện trường để giúp người dân xung quanh đi lại được thuận tiện hơn vì dẫu sao thi thể cũng đã được chuyển sang nhà xác. Sợi dây cảnh báo buông thõng vây quanh cửa lớn, hai cảnh sát dân sự mang hai chiếc ghế ra ngồi ngoài cửa.
Tôi bước đến gần trình thẻ công tác, rồi vén dây cảnh báo bước vào hiện trường.
“Hiện trường không còn vết máu nào đúng không?” Tôi hỏi bác sĩ Ngô Hưởng.
Bác sĩ Ngô Hưởng gật đầu.
Tôi nói: “Cổ nạn nhân có vết rách lớn, vậy thì nhất định sẽ có lượng máu lớn đọng xung quanh cổ tạo thành vũng. Hơn nữa, tủ ti vi chỗ gần cổ nạn nhân phải có rất nhiều vết máu dạng tia. Nhưng, chúng ta đến hiện trường lại không hề nhìn thấy vũng máu hay tia máu nào, điều đó nói lên vấn đề gì?”
Bác sĩ Ngô Hưởng nói: “Thứ nhất, hung thủ có lẽ, đã di chuyển thi thể, như vậy hắn mới có thể lau sạch được cả những góc chết trên sàn nhà. Thứ hai, hung thủ không chỉ lau sàn nhà mà còn lau sạch cả những vết máu bắn lên tủ ti vi.”
“Rất đúng!” Tôi giơ ngón tay cái lên khen, rồi hỏi tiếp: “Vậy hai hành vi đó nói lên vấn đề nào khác?”
Bác sĩ Ngô Hưởng chưa hiểu rõ ý tôi, lơ mơ lắc đầu.
Tôi nói: “Thứ nhất là vấn đề về thi thể. Nếu thi thể bị di chuyển thì vị trí ban đầu của vết tinh dịch mà bụng nạn nhân đè lên thực ra vô cùng có ý nghĩa. Rất có khả năng hung thủ đã xuất tinh trên bụng nạn nhân, sau đó vì muốn lau nhà nên hắn đã lật ngược thi thể lại.”
“Đúng rồi!” Bác sĩ Ngô Hưởng nói: “Ban đầu tôi cho rằng thi thể nằm sấp thì vết tinh dịch trên bụng không có ý nghĩa gì.”
Tôi nói tiếp: “Thứ hai, chúng ta đều biết lau dọn hiện trường chủ yếu là xóa sạch dấu vết hung thủ để lại, chứ không phải xóa sạch vết máu. Hành vi hung thủ lau sàn nhà là để xóa hết dấu vết, nhưng hành vi lau tủ ti vi thì tôi không thể nào lý giải được. Trong tủ ti vi không hề có vật gì, theo lý mà nói hung thủ sẽ không động chạm vào đó, càng không cần thiết phải lau sạch những vết máu bắn lên đó.”
Bác sĩ Ngô Hưởng nghiêng đầu suy nghĩ.
Tôi nói tiếp: “Vết tinh dịch lưu lại là vật chứng dấu vết còn có ý nghĩa chứng minh hơn cả vân tay hay dấu chân, thế mà hung thủ lại ngang nhiên lưu nó lại hiện trường, không hề làm bất cứ động tác gì để che giấu. Tôi cảm giác sai lầm sơ đẳng này của hung thủ vô cùng không đồng nhất với hành vi hắn tỉ mỉ quét dọn hiện trường.”
“Anh muốn nói gì?” Trần Thi Vũ sốt ruột xen ngang lời tôi.
Tôi mỉm cười không đáp, đi thẳng đến cạnh giường, giở tấm chăn mỏng ra, quan sát thật kỹ vết máu nhuốm đỏ mép chăn, lấy tay sờ nhẹ thì phát hiện vết máu đã khô từ bao giờ.
Tôi thay găng tay khác, đặt tấm chăn giường mỏng đó lên bàn, rồi quan sát tỉ mỉ tấm ga giường màu hồng. Ga giường rất sạch sẽ, không hề có bụi bẩn, lông tóc hay vết máu.
Tôi đứng dậy, nhìn tứ phía, cuối cùng ánh mắt dừng lại trên chiếc máy vi tính đặt trên bàn làm việc.
“Các anh đã động vào máy vi tính chưa?” Tôi hỏi.
Bác sĩ Ngô Hưởng lắc đầu đáp: “Một điều tra viên của chúng tôi xem qua một lát, chỉ là màn hình nền đơn giản, không mở bất kỳ chương trình nào.”
“Vậy trước khi xem máy vi tính, các anh có tiến hành giám định dấu vết với chuột và bàn phím máy vi tính không?” Tôi hỏi.
Bác sĩ Ngô Hưởng lắc đầu đáp: “Hình như không!”
Trong lúc chúng tôi nói chuyện, Lâm Đào đã giơ đèn chiếu sáng đa tần bắt đầu tiến hành giám định bàn phím và chuột máy vi tính. Tôi đứng bên cạnh yên lặng chờ đợi.
Bác sĩ Ngô Hưởng nói: “Làm việc này liệu có ý nghĩa gì không? Anh xem, hung thủ vào cửa là cưỡng bức nạn nhân, giết người, sau đó còn bỏ công sức lau sạch hiện trường, hắn làm gì còn thời gian lên mạng?”
Tôi không đáp. Một lát sau, Lâm Đào ngẩng đầu lên, vẻ mặt ủ rũ: “Có thể nhìn thấy dấu vân tay còn mới, nhưng đã bị găng tay gạc làm mờ hết đặc điểm đặc trưng nên không còn giá trị giám định.”
“Đó là dấu vân tay của nạn nhân phải không?” Bác sĩ Ngô Hưởng hỏi: “Dấu găng tay gạc sao? Phải dấu găng tay của cảnh sát điều tra chúng tôi không?”
“Đúng vậy!” Lâm Đào trả lời: “Có khả năng chính điều tra viên đã xóa mất dấu vân tay trên chuột máy vi tính, nhưng dấu vân tay đó là của nạn nhân hay của hung thủ thì giờ không cách nào xác định được nữa.”
Tôi nhíu mày suy nghĩ một lát, rồi mắt chợt bừng sáng, tôi nói: “Nhanh lên! Mau giám định dấu vân tay lưu lại trên nút nguồn của máy vi tính!”
“Không phải chứ? Tôi có một thắc mắc.” Bác sĩ Ngô Hưởng nói: “Sao anh cứ gấp gáp muốn lấy dấu vân tay trên máy vi tính thế? Liệu nó có ý nghĩa đặc biệt gì không?”
“Chẳng có ý nghĩa đặc biệt gì cả, tôi chỉ muốn cố gắng tìm kiếm tất cả chứng cứ có thể có mặt tại hiện trường thôi!” Tôi nói.
Bác sĩ Ngô Hưởng nói: “Hiện trường đã có vết tinh dịch rồi còn gì? Còn vật chứng nào đầy sức chứng minh hơn cả tinh dịch của hung thủ sao?”
“Nhiều lúc cũng rất khó nói lắm.” Tôi thủng thẳng đáp: “Ví như nạn nhân là gái bán hoa thì vết tinh dịch kia phỏng còn giá trị gì.”
“Nhưng, vì sao anh lại có hứng thú với chiếc máy vi tính đó thế?” Bác sĩ Ngô Hưởng vẫn chưa thỏa mãn hỏi dồn.
Tôi đáp: “Ngay từ đầu tôi đã thấy rất lạ, vì sao máy vi tính và ti vi ở hiện trường lại đều trong trạng thái mở?”
“Thanh niên thời nay vừa xem ti vi vừa nghịch máy vi tính có gì không bình thường sao?” Bác sĩ Ngô Hưởng phản vấn.
Tôi nói: “Nếu quả thật là vậy thì nạn nhân phải xoay hướng bàn làm việc lại mới phải, như thế sẽ thuận tiện hơn. Nhưng, với cách bày biện đồ đạc tại hiện trường, nếu ngồi ở bàn làm việc xem máy vi tính thì sẽ quay lưng lại ti vi, muốn xem ti vi phải xoay người lại, vậy không mệt sao? Mà lúc nửa đêm nửa hôm nếu bảo rằng xem ti vi, rồi ngủ quên không tắt thì còn giải thích được, nhưng cả máy vi tính và ti vi đều không tắt, đều đang sử dụng, vậy thì không thể nào giải thích được. Đặc biệt là như anh nói khi nãy máy vi tính không mở bất kỳ chương trình nào, vậy thì vì sao nạn nhân không tắt máy mà để ở trạng thái màn hình chờ? Điều này rất không bình thường, nó chính là một điểm đáng nghi vấn.”
“Theo ý anh, thực ra hung thủ mới là người bật máy vi tính sao?” Bác sĩ Ngô Hưởng nói: “Sử dụng máy vi tính xong, hung thủ tắt hết các chương trình mà mình vừa mở sao? Lại có một kẻ phạm tội sau khi giết người còn rảnh rang ngồi xem máy vi tính mà dương dương tự đắc ư?”
“Lấy được một dấu vân tay của ngón trỏ.” Lâm Đào đứng dậy và nói: “Tôi đã kiểm tra cẩn thận dấu vân tay của người chết rồi, hiện tại thấy dấu vân tay ngón trỏ đó không phải của nạn nhân.”
“Hay lắm!” Tôi cười đắc ý, rồi quay sang nói với bác sĩ Ngô Hưởng: “Thực ra hung thủ không hề rảnh rang hay dương dương tự đắc đâu! Thế này vậy, hai chúng ta cá cược với nhau một ván xem sao.”
“Cá cược chuyện gì?” Trần Thi Vũ tò mò nói xen ngang.
Tôi nói: “Tôi cá rằng lịch sử tìm kiếm trên công cụ tìm kiếm của máy vi tính vẫn chưa bị xóa đi, mà trang web gần nhất bị đóng lại có lẽ là tìm ‘Cách xóa dấu vết sau khi giết người’.”
Bác sĩ Ngô Hưởng lắc chuột với vẻ mặt hoài nghi, rồi mở lịch sử tìm kiếm trên công cụ tìm kiếm ra.
“‘Làm cách nào để rửa sạch vết máu?’, ‘Giết người xong cần làm gì?’… thần kỳ quá!” Bác sĩ Ngô Hưởng thốt lên kinh ngạc: “Sao anh biết? Lẽ nào chỉ dựa vào việc máy vi tính và ti vi cùng bật mà đoán ra sao?”
“Đương nhiên, không chỉ dựa vào điều này.” Tôi đáp: “Điểm đáng nghi quan trọng nhất phải kể đến là từ việc khám nghiệm tử thi.”
Kiếp Phong TrầnPhần 4
“Nghi vấn đầu tiên nảy sinh từ bản thân thi thể.” Tôi ngồi gần bàn họp rộng lớn ở tổ chuyên án và nói: “Vết thương trên thi thể nạn nhân phân bố rất rộng, chứng tỏ lực khống chế của hung thủ rất yếu. Điều đó khiến chúng tôi nghĩ đến ba đối tượng là người già, trẻ vị thành niên và phụ nữ. Từ động cơ gây án là cưỡng bức nạn nhân thì có thể loại trừ khả năng hung thủ là phụ nữ. Vậy rốt cuộc hung thủ là người già hay trẻ vị thành niên? Nửa đêm khuya khoắt, liệu một cô gái có thể cho phép một ông già vào nhà mình không?”
“Không thể loại trừ khả năng đó.” Trưởng phòng cảnh sát thành phố Lệ Kiều họ Cường đáp: “Qua điều