← Quay lại trang sách

PHẦN MỘT - I -

Gã không có linh cảm gì hơn những hành khách trên tàu, đang ăn uống trong toa ăn, đang đọc sách, chuyện gẫu hoặc ngắm cảnh đồng quê lướt qua, ít phút trước khi xảy ra thảm họa.

Gã mải bước, không để ý đến cảnh Paris mai kia thôi sẽ bước vào mùa nghỉ hè. Chẳng phải vẫn như thế hàng năm vẫn vào thời kỳ này với vẫn những ngày oi nóng, và cái khó chịu vì quần áo cứ bám dính vào da thịt sao?

Vào lúc sáu giờ chiều, gã vẫn còn đang sống thư thái hầu như do một sự trống rỗng trong lòng nào đó. Gã sẽ trả lời ra sao nếu bất ngờ có ai hỏi, trong khi bước những bước dài và xiêu vẹo, đầu vượt hẳn lên đầu của hầu hết khách đi đường, gã đang suy nghĩ gì? Gã đã nhìn thấy gì ở phố Francois đệ nhất, nơi gã đã ngồi hàng giờ trong những văn phòng để thảo luận công việc của gã, rồi ở ngoại ô Saint-Honoré, nơi gã đã nhận tấm ngân phiếu, rồi còn nữa, suốt dọc đường đến Nhà in Delabourse và cuối cùng từ đó đến đại lộ Saint-Denis?

Gã có lẽ khó trả lời. Có những chiếc xe hơi của khách du lịch, chắc chắn chạy tới Madeleine và nhà hát. Gã biết điều đó bởi đây là mùa du lịch, nhưng chẳng có chiếc xe nào đặc biệt đập vào mắt gã, và có lẽ gã cũng chẳng thể nói nó màu gì. Hẳn là những màu xanh, màu đỏ, màu vàng. Và cũng vậy, trên hè phố những người đàn ông không áo khoác, không cà vạt, áo sơ mi cộc tay, cổ phanh ra, rồi đây đó những người Mỹ mặc complê trắng hoặc mỡ gà.

Gã chẳng nhớ được điều gì rõ ràng. Nếu nhớ được thì hơn. Phố 4 Tháng Chín, gã dừng lại lần đầu tiên để lau mình, người gã đầm đìa mồ hôi và người gã vẫn đánh thứ bộ đồ ấy mùa đông cũng như mùa hè. Do thận trọng, do ngượng ngùng, gã vờ ngắm một tủ kính, tình cờ lại là cửa hàng mũ, và trong số mũ ấy, mắt gã gắn chặt vào một mũ lính thủy, một chiếc duy nhất được trưng bày, tương tự như chiếc mũ cha gã đội ở Roubaix vào thời kỳ cứ sáng Chủ Nhật, cha gã lại dắt tay các con đi dạo. Trong giây lát, gã tự hỏi một cách vu vơ, nếu thời trang lính thủy quay trở lại, liệu gã có chịu theo không và trong trường hợp ấy, nếu đội như thế, trông gã sẽ thế nào.

Lần thứ hai, gã dừng lại trước đèn đỏ, cùng với dòng xe từ từ lăn bánh, gã để mắt đến một người đẩy xe ba gác chở một chiếc hòm khá lớn đủ để chứa một chiếc dương cầm. Ý nghĩ về đàn dương cầm làm gã bận tâm trong giây lát, rồi gã lắc đầu vừa nhìn một thiếu nữ ăn mặc rất hở hang, ngồi một mình trong một chiếc xe hơi rộng mui trần.

Gã không hề gắn nối những hình ảnh ấy giữa chúng với nhau, cũng chẳng rút ra kết luận gì. Gã chắc chắn đã nhìn thấy những hè phố, mỗi lần gã đi qua, sặc sụa mùi bia. Gã còn thấy lại thêm gì nữa, dù cho sục sạo kỹ trong đầu? Cứ như gã chưa từng sống vậy. Và trong khu phố của gã, nơi cảnh vật đối với gã còn thân thiết hơn, nơi gã đã nắm bắt theo sở đắc những gì vây quanh gã, thật ra gã cũng chẳng thấy gì.

Để lên tới chỗ ở của gã ở tầng hai một khu nhà ở đại lộ Saint-Denis, giữa một cửa hàng giải khát và một cửa hàng mỹ nghệ chuyên về đồng hồ treo tường, gã phải chọn giữa hai lối. Lối phía đại lộ, một mái vòm thấp, một đường hầm tối và ẩm, mà những người đi qua không nhận ra, nó sát ngay cửa hàng giải khát, dẫn tới một sân lát, rộng dài vài ba mét, phía sau những tấm kính bẩn thỉu, người gác cổng để đèn sáng quanh năm.

Gã cũng có thể đi qua lối phố Sainte-Apolline và tiếp đến là xưởng đóng gói, đi nhờ một hành lang giống với lối vào một ngôi nhà đích thực.

Mấy tháng sau ví dụ bị thẩm vấn ở tòa Đại hình, ở đó, việc ấy sẽ trở thành một vấn đề sống còn, có nhẽ gã sẽ do dự khẳng định trước lời thề rằng gã đã đi theo lối này chứ không phải lối kia.

Việc ấy sẽ không xảy ra. Nó không thành vấn đề. Đi lối nào không quan trọng, mà sự việc người đàn bà gác cổng có mặt hay không có mặt ở vị trí của mình cũng không quan trọng.

Cầu thang tối om. Những bậc thang kêu răng rắc, càng lên càng kêu to. Gã biết tất cả, gã cũng đã luôn biết những bức tường vẫn màu vàng ảm đạm và hai chiếc cửa màu nâu ở tầng một. Cửa bên phải treo tấm biển men sứ: Thầy Gambier. Nhân viên thi hành án. Đằng sau cửa bên phải, người ta nghe thấy tiếng cười, mấy câu ca vu vơ không đầu, không đuôi. Gã biết, do đôi khi cửa để ngỏ, khoảng một chục cô gái mười lăm, mười sáu tuổi đang làm hoa nhân tạo.

Gã bước vào, vẫn với bước chân đều và chậm. Những người tưởng gã cố làm ra vẻ trịnh trọng như thế là nhầm. Không phải vì vóc người to béo, nặng cân mà gã có dáng đi như thế. Gã đã quen tập đi như thế từ lúc mười hai tuổi, vì bạn bè cứ bảo gã bị thọt.

“Tại sao bà không cho nó đi học làm thợ khâu giày?” Gã đã có lần nghe thấy bà láng giềng nói với mẹ gã như vậy. Hầu hết những thằng thọt đều trở thành thợ khâu giày.

Thật ra gã không bị thọt. Gã sinh ra với một chiếc chân kém khỏe, ngắn hơn đôi chút chân kia, và từ lúc còn rất nhỏ, bố mẹ gã đã mua cho gã những đôi giày chỉnh hình trong đó một bên có đệm bằng kim loại. Tự mình, chẳng nói năng gì, gã đã tập đi như thế và vài năm sau, gã đã có thể đi những đôi giày giống như giày bình thường. Gã không thọt nữa.

Gã không nghĩ tới cái ngày đó, cũng chẳng nghĩ đến cái gì đặc biệt khác. Gã không mệt mỏi, không khát, dù không dừng chân ở bất cứ quán cà phê nào.

Không phải tại Tạp chí Nghệ thuật và Đời sống ở phố Francois đệ nhất, nơi người ta đã chấp nhận những market của gã, cũng chẳng phải tại nhà Anh Em Blumstein ở ngoại ô Saint-Honoré, nơi gã đã nhận tấm ngân phiếu, có điều chi đáng phàn nàn. Đúng hơn là tại Nhà in Delabourse, trong những xưởng in hầu như trống vắng ở đấy gã đã hoàn tất việc lên bông cho một ấn phẩm.

Trên cầu thang, gã lơ đãng cầm lấy chiếc chìa khóa đầu chùm ở trong túi. Jeanne chắc phải ở đó. Gã quay nắm đấm. Một luồng gió lạnh ào ra chứng tỏ ít nhất một cửa sổ để ngỏ, và cả điều đó cũng chẳng làm gã ngạc nhiên. Tiếng nhốn nháo của đại lộ Saint-Denis tràn ngập trong căn phòng, trần thấp, tạo thành chiếc hộp cộng hưởng, và bởi lẽ gã đã quen với điều đó, nên nó cũng chẳng làm phiền gã, gã đã quen với tiếng ồn. Với các luồng gió cũng vậy. Rồi tối và đêm, gã cũng chẳng chú ý đến tấm biển đèn huỳnh quang màu tím của gã lái buôn đồng hồ, nhấp nháy đều đều như một ngọn hải đăng.

Như thường lệ, đặt mũ và túi da xuống bàn vẽ, gã nói:

— Anh đây.

Không nghi ngờ gì nữa phải chăng mọi sự bắt đầu từ lúc đó, dẫu sao cũng là đối với gã. Lẽ ra gã phải nghe thấy tiếng ghế xê dịch trong phòng ăn mà cửa phòng vẫn mở, tiếng những bước chân, tiếng Jeanne reo lên đáp lại. Gã đứng im, chờ đợi, ngạc nhiên, không chút lo lắng.

— Em ở đấy chứ?

Ngay cả nàng có đang ở trong bếp, những âm thanh hỗn tạp cũng xóa đi sự có mặt của nàng bởi lẽ phía ngoài căn phòng chính, nơi gã gọi là xưởng vẽ ấy, chỗ đó quá chật hẹp. Sau đó, gã cũng chẳng tìm thấy gì điều gã đã nghĩ tới. Cuối cùng, gã tiến về phía cửa. Cảnh tượng trong phòng làm gã rất bực bội.

Nếu như xưởng vẽ của gã, nơi gã vẫn dùng làm phòng ngủ, không thực sự là một xưởng vẽ, thì phòng ăn cũng không thực sự đáng gọi là một phòng ăn. Tất nhiên họ vẫn ăn tại đây, nhưng chiếc giường gấp của Jeanne bằng sắt, đã dựng vào tường, và được che đi vụng về bằng tấm khăn trải bàn cũ bằng nhung đỏ. Ở một góc, gần chiếc máy thu thành, có một chiếc máy khâu, có ngày phải tháo bàn ra để sửa lại.

Lẽ ra ít nhất gã cũng phải nhận thấy có một sự xáo trộn nào đó so với những gì Jeanne đã xếp dọn buổi chiều: hoặc nắp máy khâu đã bị nhấc đi, để lộ những đầu vải và chỉ may hoặc trên mặt bàn một tác phẩm nào đó, một mẫu áo dài bằng giấy nâu, mấy cuốn tạp chí, những quả đậu nhỏ chưa bóc vỏ.

Cái bếp, nhỏ xíu, có một cửa tròn nhỏ thay cho cửa sổ, trống rỗng, không xoong chảo trên bếp ga, không có gì trong bồn rửa, không có cả một con dao cắt gọt rau trên tấm vải sơn kẻ ô phủ bàn.

Nàng không hề nói gì với gã. Nàng không có trong phòng tắm mà gã đã khổ sở cải tạo từ cái buồng tối sáu năm trước đây.

Gã quay về chỗ gã, nghĩa là xưởng vẽ của gã, treo mũ lên sau cánh cửa, đè lên chiếc áo mưa đã ba tuần lễ không dùng tới. Trước khi ngồi gã lau người cẩn thận, đưa mắt nhìn nóc những chiếc xe buýt, nối đuôi nhau, thành một khối gần như được nén lại, rồi nhìn chùm người nơi góc đại lộ đang bất ngờ tản ra lao hết về phía ngã tư.

Nói cho đúng, gã không biết làm gì đây. Ngồi trong chiếc ghế bành bọc da, đôi chân duỗi dài, gã gắn mắt vào chiếc đồng hồ bằng đồng, trước mặt gã đang chỉ sáu giờ rưỡi. Lơ đãng, bàn tay gã tìm trên mặt bàn tờ báo buổi chiều lẽ ra đã phải ở đấy, vì Jeanne theo thói quen, vào lúc năm giờ vẫn đi xuống phố mua đồng thời với việc mua thức ăn cho bữa tối.

Cứ như bị lạc lối, không bi lụy, cũng chẳng lo âu, chỉ là cảm giác khó chịu. Gã không có thói quen bị thất vọng và không thích sự bình yên của gã phụ thuộc bất cứ điều gì, kể cả Jeanne. Gã đốt một điếu thuốc lá. Gã thường hút mười điếu một ngày. Họng gã dễ viêm, và không hay bừa bãi, gã cẩn thận giữ gìn sức khỏe. Thỉnh thoảng gã lại giật mình: những tiếng ồn lọt vào phòng ở không âm vang như mọi ngày. Gã nhẽ ra đã phải đắm chìm vào việc đọc tờ nhật báo, trong khi vẫn vừa đọc vừa hút vẫn điếu thuốc lá ấy, điếu thứ tám, hai điếu thuốc cuối cùng là dành cho sau bữa tối.

Gã hụt hẫng bước chân, đi đi lại lại trong bếp, bóng hình Jeanne trong khung cửa đôi khi hiện tới lặng lẽ nhìn gã. Nếu như họ nói với nhau ít, mỗi người, bất cứ lúc nào, đều biết vị trí chính xác của người kia trong nhà, và điều gì mình đang làm.

“Có lẽ nàng lên phòng bà Couvert!” Gã tự nhủ, người nhẹ nhõm.

Thật là ngu, sao không nghĩ đến điều này sớm hơn. Cô Couvert đã sáu nhăm tuổi và vì mắt mũi kém, ít khi ra khỏi nhà, ở ngay đúng phía trên phòng họ, từ bốn năm nay, một đứa trẻ, có lẽ là có họ, một đứa trẻ mồ côi, nếu gã hiểu không sai, đến sống với cô. Nếu như gã không biết rõ hơn gì về đứa trẻ, đó là vì gã chỉ nghe qua một cách lơ đễnh, những lời mọi người giải thích cho gã, không phải vì gã thờ ơ với người khác mà vì tính thận trọng và nhút nhát.

Đứa trẻ tên là Pierre, mười tuổi, luôn xin phép xuống dưới ngồi với Jeanne và làm bài tập. Những lần khác, Jeanne lại lên giúp cô gái già một tay, và nếu Jeanne còn khâu, cô gái già không dám cắt ngang.

Thật đơn giản, gã chỉ việc nhìn lên bàn phòng ăn. Nàng phải ghi lại một vài chữ cho gã, như thường lệ trong những trường hợp như thế này: Em ở trên nhà cô Couvert. Em sẽ xuống ngay.

Gã tin chắc như thế, nên gã đợi hút xong điếu thuốc rồi mới sang xem phòng bên. Chẳng có tờ giấy nào, gã nhìn lên mắc áo. Vợ gã không có nhiều quần áo đến nỗi khó biết hôm ấy nàng mặc bộ nào. Ngoài ra, nàng tự may lấy áo dài và áo măng tô, gã tận mắt nhìn thấy vải áo, hình thành từng tí, từng tí một như thế nào, trong nhiều ngày, đôi khi nhiều tuần nữa.

Dẫu sao, nàng cũng không mặc cho đúng mốt ra ngoài, đúng với điều nàng gọi đi trong thành phố, vì hai chiếc áo dài tốt của nàng vẫn đây, với kiểu may mùa hè màu vàng rơm của nó. Nàng hẳn mặc chiếc áo dài nhỏ màu đen vẫn dùng mặc trong nhà, đi đôi giày cũ vốn là giày đi trong nhà của gã. Vậy thì nàng có thể đi đây đó trong khu phố. Hoặc vẫn đang ở bên trên và đã quên ghi giấy cho gã. Gã có thể đi lên, gõ cửa nhà cô Couvert. Nhưng vì điều đó chưa bao giờ đến với gã, bước đi của gã trở nên rụt rè.

Gã cũng có thể đi xuống, hỏi bà gác cổng. Đúng là bà ta và Jeanne không bao giờ nói với nhau và đi ra phố Sainte-Apolline, người ta không đi qua trước mặt trạm gác. Đó không phải là ngôi nhà như những ngôi nhà khác. Bà gác cổng cũng không hoàn toàn là bà gác cổng. Phần lớn thời gian bà ta giúp chồng độn rơm lại ghế trong chiếc sân ẩm ướt và ngôi nhà chỉ họa hoằn dùng để nhận thư cho các hộ thuê.

Nhân tiện đang đứng, gã vào bếp uống một cốc nước, và cứ để vòi nước chảy thật lâu cho nước mát.

Gã chẳng muốn làm việc cũng chẳng muốn đọc. Gã lưỡng lự ngồi xuống. Xưởng vẽ của gã hình như cũng kém hấp dẫn hơn mọi ngày. Tuy nhiên có trời mới biết liệu gã có nhận ra những cảnh tượng tối thiểu không! Gã đã xếp đặt mọi vật, cho tới vật tầm thường nhất, sao cho đạt sự thỏa mãn tối đa, và gã đã đạt được. Với bốn bức tường, hoặc đúng hơn là sáu, vì ở phía phố Sainte-Apolline, có một chỗ thụt vào, một thứ hốc nhà, ở đó kê một chiếc đi-văng làm giường ngủ cho gã, gã đã biết tạo ra một tiểu vũ trụ riêng cho gã, hợp với gã, giống với hình ảnh gã.

Những bức tường màu trắng bợt, như trong căn phòng kín của thầy tu, và hai chiếc bàn vẽ, một to, một nhỏ, gợi cảnh một loại công việc thủ công, chậm chạp, yên bình và hài hòa. Nếu như gã không vẽ những cô gái đồng trinh, theo kiểu Fra Angelico, gã lại không thiếu nhiệt tình kẻ vẽ những mẫu chữ, những tiêu đề cho những tạp chí loại sang như Nghệ thuật và Đời sống, những chữ nhỏ và những bầu đèn cho những tác phẩm với số lượng xuất bản hạn chế. Ngoài ra, từ nhiều năm nay, gã đã gắn bó với một công trình dài hơi, là sáng tạo một mẫu chữ mới, một khi ra đời, sau hai mươi năm hoặc năm mươi năm, sẽ mang tên gã.

Trong các nhà in, các tờ nhật báo, người ta sẽ quen miệng nói: “Một Jeantet cũng như một Elzevier, một Auriol, một Naudin.”

Một số chữ, phóng to, có bóng chữ, một màu đen đẹp của mực Tàu, bắt đầu phủ lên các bức tường. Gã không nhìn những chữ đó, cũng chẳng buồn nhìn cái nóc sáng loáng của những chiếc xe buýt, từ trên nhìn xuống như những con cá voi, kể cả đại lộ Saint-Denis mà mặt trời nhuộm vàng như làm bằng đất nung.

Gã miễn cưỡng ngồi xuống. Chiếc ghế bành “của gã” mà sau hàng mấy tháng trời khám phá, cuối cùng gã mới lôi ra được ở Hội chợ đồ có rệp, có một tiểu sử của nó. Mỗi đồ vật đều có tiểu sử của nó, kể cả chiếc đồng hồ treo tường có mặt màu xanh lục hơi lơ, có chữ số La Mã thời kỳ vua Louis-Philippe, lúc này đây, đang chỉ bảy giờ.

Mọi người thường cho gã là người yếu đuối, gã biết điều đó, và đúng là cái thân hình to lớn của gã hình như không được bền chắc. Nếu như gã không to xác, kém béo hơn, gã tựa như người thiếu cứng chắc của bộ xương. Tất cả mọi đường trên cơ thể đều cong, đều lặn mất, và đã như thế từ khi còn là thằng nhóc, đi học, giờ ra chơi, thường thở dốc nhanh hơn các bạn.

Mọi người không thể đoán được gã cũng dễ căng thẳng thần kinh như họ, có lẽ còn hơn, chỉ với một xúc động nhỏ gã đã cảm thấy hoang mang trong lòng rồi. Máu gã hình như không chảy theo con đường bình thường, những điều mơ hồ, bí ẩn quẫy cựa trong tim gã, có những lúc, một ngón tay gã run run, đau đớn như bị chứng kinh giật, rồi bất chợt một bên vai ê đi, và cuối cùng luôn kết thúc bằng việc đầu nhức nóng rất khó chịu.

Gã không hề sợ hãi điều đó, cũng chẳng nói với ai, cả với thầy thuốc, hơn nữa với Jeanne. Gã âm thầm chịu đựng, vả lại, đã lâu rồi, điều đó không xảy ra với gã nữa, hoặc chỉ thoáng qua theo sau một sự mâu thuẫn, nhất là một sự hổ thẹn. Cũng không hoàn toàn đơn giản như thế. Khủng hoảng xảy ra rõ ràng hơn khi gã có cảm tưởng người ta hiểu lầm gã, khiêu khích gã một cách bất công, hăng hái làm hại gã.

Chỉ cần gã nói được một câu là đủ. Gã tìm câu nói đó, cố gắng có can đảm để thốt ra câu nói đó, và đó chính là cái cảm giác bất lực của gã, sự bất lực bất ngờ gây ra sự sụp đổ. Nhưng không phải trường hợp đó lúc này. Chuyện đó không hề xảy ra, Jeanne sẽ trở về. Gã nghe ngóng đợi bước chân nàng trên cầu thang. Gã tưởng tượng ra nàng đi lên, dừng lại ở ngưỡng cửa, mở túi xách ra...

Một tình tiết chợt đến với gã; Gã không cần chìa khóa để vào nhà. Mà gã chẳng nhớ ra chỉ có một lần Jeanne ra khỏi nhà không xoay khóa cửa hai vòng. “Trong một khu phố như thế này...” Nàng nói. Riêng gã, gã chưa bao giờ sợ lũ trộm cắp.

Gã đã chờ đợi hơn một tiếng đồng hồ, vậy mà nàng vẫn chưa về. Một hiện tượng đã xảy ra, không nghiêm trọng lắm, nhưng bất ngờ. Gã không thể cứ ở đây, trong chiếc ghế bành của gã nữa. Để đỡ khô họng, gã lại vào bếp, uống một cốc nước thứ hai, rồi gã đi ra, không lấy mũ, không khóa cửa.

Vẫn chưa dám lên nhà cô Couvert, gã xuống tầng dưới cùng, đi về phía chiếc sân nhỏ, nơi chiếc đèn chòi canh như một chấm sáng vàng nhạt sau một tấm kính bẩn thỉu. Gã không nhìn vào trong, gõ cửa, vì vừa thoáng nhìn đã thấy người chồng ngồi trên một chiếc ghế, đang ngâm chân cạnh một chiếc bàn trên đó là những thứ chuẩn bị cho bữa tối.

— Mélanie! - Người đàn ông vẫn ngồi yên gọi to.

Và một giọng đằng sau tấm rèm dùng làm vách ngăn:

— Gì đấy?

— Một người thuê nhà.

— Họ cần gì?

— Tôi không biết.

Gã ngạc nhiên và có cảm giác như một sự phát hiện. Đúng là hiếm khi gã tới gõ cửa chòi canh. Bất ngờ gã thấy hai con người sống trong cái xó tối cách xa hai mươi mét đám người rong chơi trên đại lộ và bọn người đang uống trên những quán giải khát vỉa hè, nơi, cứ tối thứ bảy và chủ nhật lại có ban nhạc sống chừng bốn năm nhạc công.

Người vợ ra khỏi bóng tối, bé nhỏ, tàn tật, mắt đanh như của một con vật đang nghi ngờ. Bà ta không mở cửa mà chỉ hé tấm kính dùng làm bàn giao dịch.

— Nếu tôi có thư của ông, tôi đã mang lên rồi.

— Tôi muốn hỏi bà...

— Ồ, nói đi. Ông muốn gì?

Gã không còn can đảm như trước nữa.

— Chỉ là nếu bà có thấy vợ tôi đi ra...

— Tôi không quan tâm đến việc ra vào của những người thuê nhà, với các bà lại càng ít hơn.

— Tôi cho rằng cô ta đã không nói gì với bà.

— Nếu cô ấy đã nói với tôi chuyện gì, tôi đã sẵn lòng giúp cô ấy!

— Xin cảm ơn bà.

Gã không nói câu ấy với vẻ châm biếm, nhưng đó là do thói quen, vì đó là tính cách của gã. Bà ta đã làm gã tổn thương vô cớ. Gã không giận bà ta. Nếu như ai đó nhầm, người đó chính là gã. Gã đi theo lối đi ra tới ngõ sáng ở đại lộ, và để dịu bớt cơn nóng ruột, gã vòng theo đại lộ Saint-Denis và phố Sainte-Apolline.

Hơi giống việc dạo qua mặt trái của cảnh phồn hoa. Vẫn những ngôi nhà hai bên. Đại lộ Saint-Denis, những tủ hàng sáng loáng, những nhà hàng với những chữ mạ vàng, và buổi tối, hội hoa đăng những tấm biển lấp lánh đủ màu.

Phố Sainte-Apolline, những thợ thủ công, người đóng gói hàng, xa hơn, một cửa hiệu nhỏ khâu vá giày cạnh một hiệu giặt là, nơi phụ nữ qua lại suốt ngày, trong khi đó, trên hè phố, vài ba cô gái với đôi giày cao gót quá khổ đi đi lại lại trước một ngôi nhà chứa và những người đàn ông thì đang chơi bài nơi tranh tối tranh sáng của một quán bar nhỏ. Không ai biết gã. Còn gã, gã biết từng bóng dáng người, từng khuôn mặt, vì đã từng quan sát họ từ trên cửa sổ, chiếc cửa sổ ngay trên đi-văng của gã.

Jeanne hẳn chưa kịp về trong khi gã đi dạo một vòng như thế. Để gặp may hơn về phía mình, gã quyết định làm lại một vòng, rồi hai vòng nữa. Tới vòng thứ ba, gã dừng lại trước cửa nhà bán bơ sữa mà Jeanne vẫn mua, và cửa vẫn mở. Ở đây, người ta không chỉ bán bơ, trứng, pho mát mà còn cả rau nấu chín cho những người không có thì giờ bếp núc, và cho những người không được phép nấu nướng trong những phòng trọ khách sạn.

— Bà không thấy vợ tôi đấy chứ, bà Dorin?

— Từ sáng nay, lúc cô ấy đi chợ qua, thì không.

— Cảm ơn bà.

— Ông nói xem, ông không lo đấy chứ?

— Không, chắc chắn là không.

Khi nói ra điều ấy, hắn muốn khóc vì căng thẳng cân não. Đây là một trường hợp của thứ bất lực ấy, nó ảnh hưởng quá mạnh đến gã. Jeanne chỉ là một phần. Thật ra chuyện đó chẳng có gì trầm trọng: một sự chậm chễ, một sự lãng quên, một sự hiểu nhầm, một trường hợp ngẫu nhiên thôi.

Điều gì đã ngăn gã trong khi đợi nàng, hãy lên ăn tối, những gì gã tìm thấy trong chạn thức ăn? Hoăc vào một tiêm ăn đầu tiên chợt đến? Hoặc hơn nữa, nếu không đói, cứ ngồi trong ghế bành mà đọc báo?

Gã quên mua tờ báo buổi chiều, bước lên nhà mình, trong nhà vẫn không có ai, và một trong những cửa sổ đã nhuộm đỏ sắc trời tà. Ngày hình như dài hơn những ngày khác. Đã gần tám giờ mà mặt trời còn chưa lặn hết, đám người, trên những quán hè đường, vẫn cứ uống bia, ăn các món khai vị, một số người vẫn tiếp tục dạo chơi, không áo khoác ngoài.

Jeanne không thể gặp chuyện rủi ro. Không thể xảy ra chuyện nàng bị ngất trên đường phố, và ngay cả trường hợp ấy, nàng cũng có thẻ căn cước mang theo cơ mà. Nhà họ cũng đã lắp điện thoại từ hai năm nay. Gã chăm chú nhìn máy điện thoại trên bàn, nheo mày lại. Nếu nàng bị giữ, nếu nàng gặp trở ngại gì, tại sao không gọi cho gã? Gã đi tới kết luận, phải lên hỏi cô Couvert, xem nàng có nhắn lại gì không.

Gã cũng không ngờ rằng, chưa lên hết cái cầu thang mà gã không quen ấy, lại thấy tấm biển tôn mang tên cô gái già và chữ thợ khâu. Trong lúc gã còn đang do dự trên tấm thảm chùi chân chưa gõ cửa, gã nghe thấy tiếng bát đĩa, giọng nói của đứa bé Pierre đang khăng khăng hỏi:

— Bà tưởng cháu có thể đi khỏi đây ư?

— Ta cũng chẳng biết nữa, có thể đấy.

— Thế bà có nghĩ có lẽ sẽ tốt hơn không?

— Có thể. Mà ta thích nói với mày ngay lập tức là có.

— Tại sao bà không nói đi?

Gã gõ cửa, vì phiền lòng phải nghe điều không muốn nghe.

— Tôi ra đây! - Đứa bé nói.

Bất chợt, cánh cửa mở toang, những trang trong cuốn tạp chí tranh ảnh trên chiếc bàn tròn rung lên cùng với những sợi tóc bạc của cô gái già đang ngừng ăn.

— Là ông Bernard! - Đứa bé thông báo.

— Tôi xin lỗi... Tôi cứ tự hỏi, may ra vợ tôi có nhắn bà điều gì cho tôi không?

Đứa bé nhìn gã với đôi mắt sắc nhọn không hợp với tuổi nó, rồi nhìn cô Couvert, lưỡng lự chưa khép cửa lại.

— Cô ấy chưa về ư? - Cô gái khâu già ngạc nhiên.

— Không, tôi lạ quá...

Giải thích để làm gì? Jeanne và gã có những thói quen không được lôgích lắm, là có thể sẵn sàng mỉm cười. Thứ Tư là ngày của gã, lượt gã, ngày mà gã đi hết các nhà thuê gã, như gã đã làm việc đó chiều nay.

Cũng không có bất cứ lý do gì, nếu như nàng đi dạo xa, vì Jeanne không bao giờ ra khỏi nhà vào ngày ấy, tóm lại, sau tám năm theo gã biết, điều ấy chưa bao giờ xảy ra. Vả lại, hiếm khi nàng đi ra khỏi khu phố, và trong những trường hợp ấy, nếu như có những việc mua bán ít nhiều quan trọng trong những cửa hàng lớn ở phố La Fayette hay phố khác, nàng thường nói từ nhiều ngày trước. Nàng không thể bỏ đi, chỉ mặc mỗi chiếc áo dài cũ kỹ màu đen.

— Ông không vào nhà một lúc ư?

— Không, cảm ơn. Trong khi tôi lên đây có khi cô ấy đã về rồi.

Nàng vẫn chưa về và ánh sáng trong phòng đã thay đổi cùng với những chiếc kim đen của chiếc đồng hồ treo tường cứ nhích tới. Trên bầu trời, bên trên các nóc nhà, một màu xanh lạnh thay dần cho màu hồng của chiều tà, và chỉ còn mấy đám mây mỏng là vẫn còn hồng.

Điều đó làm cho gã sợ, một sự sợ hãi hầu như thể chất, và không chịu được nữa, gã vớ chiếc mũ đi xuống, rảo bước nhanh hơn thường lệ, tập tễnh lao vào đám đông.

Với những người khác, điều đó có nhẽ sẽ dễ dàng: họ chỉ việc đến hỏi bố mẹ, hỏi chị hay chị dâu, hỏi bạn bè, đồng nghiệp. Với họ thì không. Chẳng có một ai, ngoài cô Couvert và đứa bé đã nhìn thấy gã đi ra, dáng vẻ đăm chiêu.

Những người khách qua đường, từng đôi, từng gia đình tràn ngập hè đường tiến bước thong thả như một dòng sông, chậm lại ở những địa điểm có quán vỉa hè làm vướng chân người đi lại, làm thành những nút tắc nghẽn. Ôtô trở nên ít hơn. Mặc dù trời còn chưa tối hẳn, những rạp chiếu phim đã sáng đèn và một số ít người đã xếp hàng trước cửa bán vé.

Rời khỏi đại lộ, gã đi sâu vào những dãy phố yên tĩnh hơn, chỗ này, chỗ khác, chỉ có những người già mang ghế ra vỉa hè hóng mát. Những cửa hiệu nhỏ vẫn còn mở cửa, tỏa mùi ra đường phố, và đâu đâu cũng nghe thấy tiếng nói, những câu nửa vời.

Gã đã tới phố Thorel, nhận ra màu xám của Sở Cảnh sát, lá cờ rủ trên cán, những xe máy của các nhân viên, hai viên trung sĩ vừa thắt lại dây lưng vừa đi ra. Một trong hai người nhìn gã như thể khuôn mặt gã gợi nhớ đến điều gì, cuối cùng nổ máy, không tìm câu trả lời.

Gã vào Sở, ở đó, giống như chỗ bà gác cổng, những ngọn đèn đã bật sáng, khói thuốc điếu và thuốc tẩu lượn lờ. Một người đàn ông không rõ tuổi đang cố giải thích trên chỗ gần như là quầy kế toán bằng gỗ đen, chiếc mũ kêpi nhô lên ở đầu.

— Ông có hay không giấy phép lao động?

— Thưa ngài cảnh sát...

Đó gần như là tất cả những gì người đó nói được bằng tiếng Pháp. Phần còn lại, anh ta dùng những từ không tài nào hiểu được, anh ta ra hiệu, chìa bàn tay run rẩy như đang sốt, đưa những giấy tờ hằn vết ngón tay bẩn thỉu và đút lẫn lộn trong túi.

—... nói với tôi.

— Ai nói với anh?

Anh ta ra hiệu, tỏ ý muốn nói đến một người nào đó rất to lớn hoặc rất quan trọng.

—... ngài...

— Người đó cũng chẳng bảo cho anh biết đây là một giấy phép lao động ư?

Không có thứ giấy tờ nào hợp lệ. Có đủ loại trắng, hồng, xanh, bằng tiếng Pháp và bằng có mà trời mới biết thứ tiếng nước ngoài nào.

— Anh có bao nhiêu tiền?

Anh ta cũng không hiểu nổi cả tiếng tiền, và phía sau hắn, một thiếu phụ nóng ruột, vừa giậm chân vừa ra hiệu cho viên cảnh sát.

Người ta giở những giấy bạc ra. Người này hiểu, đến lượt mình lôi ra một tập nhàu nát, nhầy nhụa, và vài đồng tiền đồng, xếp cả lên quầy.

— Như thế đủ để anh không bị kết tội là sống lang thang, nhưng điều đó không cho phép anh đi xa hơn và người ta bắt buộc phải đưa anh trở lại biên giới. Anh có số tiền này ở đâu?

— Ông hạ sĩ, nói cho tôi biết đi - Người thiếu phụ nói xen vào - Tôi phải có mặt ở nhà hát vào lúc chín giờ kém mười lăm, và...

Cô ta mặc một chiếc áo dài gần như trong suốt.

— Anh hãy tới ngồi ở kia - Viên cảnh sát chỉ chiếc ghế dài dọc tường bảo con người kia.

Anh ta đến đó, nhẫn nhục, không hiểu gì, đang tự hỏi người ta sẽ làm gì với mình. Anh ta đến từ đâu đó, anh ta cũng vậy, vì một lý do mà chỉ riêng anh ta biết...

Jeantet cắn môi. Người đàn bà biết mình đang muốn gì.

— Chỉ là xác nhận chữ ký thôi mà.

— Bà ở khu phố này à? Bà có giấy tạm trú không?

— Giấy đây, người gác ký.

Người đàn bà mở túi và một làn hương thơm tỏa ra.

— Tôi đi du lịch và tôi cần một giấy thông hành.

— Du lịch à! Được thôi!... Sáng mai bà lại nhé. Vào giờ này ông cảnh sát trưởng không có đây.

Hai viên cảnh sát ngồi nguyên không nhúc nhích, mỗi người trước một giá gỗ, không làm cái gì.

— Còn ông? Có chuyện gì vậy?

— Ông có thể cho tôi biết liệu có một tai nạn nào chiều nay không?

— Loại tai nạn nào?

— Tôi không biết... có thể là tai nạn giao thông.

Một người đàn ông bước vào, không phải từ lối đi công cộng mà từ lối khác, to lớn, mặt bóng nhẫy mồ hôi, đầu đội mũ. Ông ta bắt tay mọi người, rồi quan sát Jeantet qua làn khói tẩu thuốc.

— Về những loại tai nạn ấy, ngày nào chả có... Nhưng tại sao ông muốn biết?

— Vợ tôi không về nhà.

— Từ khi nào?

— Tôi rời cô ấy lúc hai giờ.

— Bà ta làm việc gì, vợ ông ấy?

— Chẳng làm gì... nội trợ thôi.

— Cho các ông chủ à?

— Tại nhà chúng tôi thôi.

— Khoảng năm hai tuổi?

— Không, hai tám tuổi.

— Vậy thì không phải rồi. Người bị xe buýt cán phải ở phố Aboukir lúc bốn giờ, những năm hai tuổi tên là Posetti kia.

Vẫn là những cảm giác bất lực! Gã không tìm nổi ra câu gì để hỏi nữa. Người ta không giúp gã. Chẳng có biểu hiện gì trên các bộ mặt này.

— Vợ ông có hay đùa dai không?

— Không.

— Vậy tại sao ông lại lo lắng đến thế?

Trong khi gã còn đang cố hiểu, người ta nhắc gã về người mới tới phía sau gã, người có bộ mặt bóng nhẫy hơi thở và tẩu thuốc rất nặng mùi.

— Vậy ông nói xem, chẳng phải ông cư trú ở đại lộ Saint-Denis sao?

— Vâng, tôi sống ở đại lộ Saint-Denis.

— Ở tầng hai, phía trên nhà buôn đồng hồ?

— Vâng.

— Ông không nhận ra tôi à?

Jeantet cố nhớ xem ai, nhưng chỉ được một lúc, tất cả đều trở nên hư ảo đối với gã, gã đã từng thấy khuôn mặt ấy, với những nét rất thông thường, vừa hữu hảo vừa trịch thượng.

— Thanh tra Gordes, điều đó không có nghĩa gì với ông ư?

Gã đỏ ửng mặt lên.

— Có chứ.

— Tôi đã giúp ông một lần, dù ông không chịu nghe lời khuyên của tôi. Vậy hôm nay, đúng ra đã xảy ra chuyện gì?

— Cô ấy bị tai nạn.

— Vẫn chuyện đó ư?

— Vâng.

— Khi nào?

— Buổi chiều nay.

— Ở đâu?

— Tôi không biết, vì vậy tôi mới phải đến đây.

— Ông muốn nói cô ấy không về nhà?

Gã cúi đầu. Gã không thể tiếp tục nữa. Gã nhìn thấy những nụ cười trên tất cả các khuôn mặt, trừ trên mặt người nước ngoài, ngồi chiếc ghế dài không có tựa lưng, đang tìm trong mớ giấy trắng, xanh, hồng của mình, xem cái gì mắc tội.