Chương 6
Siegfried ép mình xuống quan sát đường viền tối sẫm của khu rừng cách đó ba trăm mét, nơi có những cọc mốc Đông Đức. McCready nằm bên. Đó là ba giờ sáng thứ bảy.
Năm năm trước, cũng trong bóng đêm này, Siegfried đã cắt đường từ gốc một cây thông cao nhất ở bờ Đông, dựa theo mốc là ghềnh đá trắng trên sườn núi bờ Tây, rất dễ nhận ra, song anh ta chẳng bao giờ tiên liệu mình có lúc phải đi theo hướng ngược lại. Lúc này, anh ta đang đứng ngay dưới ghềnh đá đó, bị cây cối che lấp. Muốn nhìn thấy nó phải ở khoảng cách thật xa. Anh ta cân nhắc rồi bò qua mười mét cuối cùng của đất Tây Đức và bắt đầu cắt rất êm hàng rào thép gai.
Thấy cánh tay Siegfried đưa lên làm hiệu, McCready bò ra khỏi chỗ nấp đến hàng rào và phải mất tới năm phút để quan sát các vọng gác của lính biên phòng Đông Đức cùng cách quét đèn pha của họ. Siegfried chọn lối đi rất tuyệt - đúng giữa hai vọng gác. May mắn nữa là mùa hè đã làm mấy cành thông vươn dài ra thêm trên bãi mìn, khiến đèn pha bị cản sáng một phần. Đến mùa thu, thợ rừng sẽ đến đốn bỏ chúng đi, nhưng bây giờ thì chưa.
Siegfried thu mình trườn qua lỗ cắt. McCready trườn theo, kéo lê chiéc bao tải. Siegfried quay lại lấp kín lỗ rào. Chỗ đó rất khó nhận ra nếu không đến thật gần và lính gác sẽ chẳng bao giờ vượt qua khoảng trống để đến kiểm tra, trừ khi có dấu vết thật rõ ràng. Chính họ cũng chẳng ưa đi qua bãi mìn.
Thật dễ cám dỗ người ta chạy qua cái khoảng cách một trăm mét của dải đất. trống giờ đây mọc lớp cỏ dầy với những cây chút chít mọc cao vống lên, rồi cúc dại, tầm ma xen giữa. Nhưng trên bãi cỏ lại đầy những dầu dò của thiết bị báo động bằng âm thanh. Chỉ có cách trườn qua mới an toàn. Đến giữa bãi, họ vẫn được những cành thông che thoát ngọn đèn pha bên trái, còn ngọn bên phải bây giờ đang quét đến. Họ mặc đồ ngụy trang, bôi đen mặt và hai bàn tay, Siegfried bôi bằng xi đánh giầy, McCready thì với bột than lie để dễ dàng rửa sạch khi sang đến bên kia.
Ánh đèn pha xanh lợt quét đến họ, dừng lại, quét trở về, rồi tắt lịm. Mười mét phía trước, Siegfried phát hiện một đầu dò của thiết bị báo động và ra hiệu cho McCready tránh nó. Ở đây, cỏ và các bụi cây cao lên đến ngực vì đã lâu không ai động đến. Nào ai muốn dây vào với bãi mìn.
Siegfried ngoái lại. Cao cao, McCready thấy ghềnh đá trắng giống như miếng vá màu sáng trên nền đen sẫm của rừng thông. Siegfried quay trở lại tìm cây thông cao đối diện ghềnh đá. Rồi lại thấy bò tiếp về bãi mìn. Khi dừng lại, chàng trai bắt đầu sờ lần trong đám cỏ cao. Hai phút sau, McCready nghe rõ tiếng thở nhẹ nhõm vang tới. Anh ta đang nhón sợi cước bằng hai ngón tay, kéo rất nhẹ. Nếu đầu dây kia bị đứt, mọi việc sẽ kết thúc ở đây. Nhưng không, dây rất chắc.
“Bò theo dây,” Siegfried thì thầm, "chú sẽ qua được bãi mìn, đến đường hầm dưới dây thép gai. Vệt đường chỉ rộng khoảng nửa mét. Khi nào chú trở lại?”
“Hai tư giờ nữa, hoặc bốn tám. Nếu không thấy hãy coi là xong, là không trở về. Chú sẽ dùng bút sáng làm hiệu, từ gốc cây to. Khi đó, mở sẵn hàng rào cho chú.”
Anh bò vào bãi mìn, không hoàn toàn ngập hẳn mình trong cỏ. Siegfried chờ cho ánh đèn pha quét qua người lần nữa rồi bò ngược về nơi xuất phát.
McCready bò qua bãi mìn theo sợi cước. Chốc chốc, anh lại kiểm tra xem sợi dây còn thẳng hướng hay không. Anh biết mình sẽ không thể nhìn thấy mìn, bởi đây không phải là loại mìn lớn hất tung cả xe tải lên trời. Chúng chỉ là mìn nhỏ bằng chất dẻo, không thể phát hiện bằng máy dò mà những kẻ đào thoát thường sử dụng. Những quả mìn này được chôn dưới đất, chỉ nổ khi bị đè lên. Cáo hay thỏ chạy qua không làm mìn nổ, nhưng chúng đủ nhạy với sức nặng con người. Thường chúng không làm chết người mà chỉ gây sát thương để lính gác đến bắt.
McCready đã thấy những vòng thép gai cuộn sóng lờ mờ phía trước, cuối bãi mìn. Sợi dây cước đã dẫn anh tới cái rãnh khoét dưới hàng rào. Anh lật người lại, lót bằng bao tải rồi đẩy những sợi thép gai, đạp gót, nhích lên từng tấc một, lọt vào dưới rào. Sát trên mặt mình, anh thấy những gai thép nhọn hoắt cắt da thịt sắc hơn dao cạo..
Khi vượt qua rào, sang đến bờ Đông, anh mới phát hiện một nhánh dây nilon căng rào sắp đứt. Chỉ một cú chạm nữa là nó sẽ rời hẳn ra, tố cáo toàn bộ cuộc vượt biên. Anh vội lấy đám lá thông phủ lên cái cọc buộc dây, ghi nhớ vị trí của nó, dùng la bàn định hướng rồi bò tiếp, cho đến một đường hẻm. Ở đó, anh cởi ngụy trang, bó lại với chiếc la bàn bên trong và giấu trong rừng, giữa đám lá thông dầy, cách đường mười mét. Bên rìa đường, anh bẻ gục một nhánh thông cao ngang đầu người và để treo lơ lửng ở đó. Không ai có thể nhận ra nó, nhưng anh có thể.
Anh tìm về hướng Đông, vừa bước đi vừa ghi nhận thêm những dấu vết - cây đổ, đống gỗ, chỗ đường vòng và đường gấp khúc. Đi một dặm, anh rẽ ra đường cái và nhìn thấy chóp nhọn của nhà thờ Luther trong làng Ellrich.
Anh đi vòng tránh nó, như được dặn trước, cắt qua đồng lúa mạch cho đến khi gặp đường đi Nordhausen. Lúc đó mới là năm giờ sáng. Anh đi sát lề đường, sẵn sàng nhảy xuống nấp dưới rãnh nếu có xe chạy qua. Đi quá nữa về phía Nam, anh hy vọng cái áo vét đã sờn, cái quần nhung kẻ, giầy ủng và mũ cát kết(casquette) của anh giống như bao người nông dân Đức khác sẽ giúp anh thoát khỏi sự ngờ vực. Nhưng vùng này dân chúng chẳng đông đúc gì, họ biết nhau cả, anh phải cố mà tránh chuyện bị lục vấn là đi đâu, hay tệ hơn, từ đâu tới, bởi đằng sau anh không còn nơi nào khác là làng Ellrich hay biên giới.
Ở ngoại ô Nordhausen, anh gặp may. Bên ngoài hàng rào gỗ của căn nhà tối om có chiếc xe đạp dựa vào thân cây. Nó đã han gỉ, nhưng vẫn dùng tốt. Anh cân nhắc lợi hại, có nên lấy nó để vượt qua một chặng đường, mà chắc chắn nhanh hơn đi bộ. Nếu việc nó mất không bị phát hiện trong vòng ba mươi phút thì rõ ràng là đáng lấy. Anh nhảy lên, đạp về ga xe lửa. Lúc đó là sáu giờ kém năm. Còn mười lăm phút nữa có chuyến tàu đầu tiên về Erturt.
Hàng mấy chục người đang đợi tàu về phía Nam để đi làm. Anh chìa tiền lấy vé, rồi con tàu tiến vào ga, một đầu máy hơi nước cổ lỗ, nhưng đúng giờ. Vốn quen với dịch vụ đường sắt Anh quốc, anh thấy dễ chịu về điều đó. Anh gửi xe đạp lên toa hành lý và tìm một chỗ ngồi trên ghế gỗ. Đoàn tàu lại dừng ở Sondenhausen, Grossen và Strassfurt trước khi vào Erfurt, lúc sáu giờ bốn mốt. Anh lấy xe và đạp qua phố phường tới ngoại ô phía đông thành phố, và là nơi bắt đầu của xa lộ số bảy tới Weimar.
Cách thành phố vài dặm, một chiếc máy kéo chạy sau anh, kéo theo rơmoóc (remorque), và người lái là một ông già, vừa chở củ cải đường đến Erfurt, giờ đang về trại.
“Steig mal rauf’(1) Ông ta gọi trong tiếng máy nổ điếc tai của động cơ xộc xệch. McCready vẫy tay cám ơn, ném xe đạp lên moóc rồi ngồi bên cạnh ông già. Tiếng máy ồn đến nỗi không thể nói chuyện được nhưng thế càng hay, vì McCready dù nói thạo tiếng Đức vẫn không thể nói được giọng vùng Hạ Thuringia.
Mười dặm bên ngoài Weimar, McCready thấy hàng rào lính. Chúng đứng cả trên đường, dàn ra hai bên cánh đồng, và anh có thể thấy cả những mũ sắt nhấp nhô giữa ruộng ngô. Có một vệt đường nhỏ ở ngay bên phải. Anh liếc nhìn con đường. Lính đứng thành hàng ở đó.
Chiếc máy kéo giảm tốc độ và dừng trước rào chắn. Một trung sĩ gào lên bảo ông già tắt máy đi.
Ông già cũng gào lại. “Tắt đi nó không khởi động lại được, các anh có đẩy giúp không?”
Viên trung sĩ ngắm nghía, nhún vai và ra hiệu trình giấy. Anh ta xem, trả lại, rồi hất hàm cho McCready.
“Papiere’’ anh ta nói. McCready chìa chứng minh ra.
Tên anh là Martin Hahm, làm thuê ở trang trại, và được cấp tại tòa thị chính Weimar. Viên trung sĩ, vốn quê ở mãi trên phía Bắc, ngửi ngửi. “Chở cái gì thế?” Hắn hỏi.
“Củ cải đường.” McCready đáp. Anh không tự khai mình là đi nhờ xe, và cũng không thấy ai hỏi.
Anh cũng chẳng việc gì phải nói rằng trước khi chở củ cải đường, cái mooc này đã chở các thùng trái cây. Viên trung sĩ nhăn mũi, trả giấy tờ, và ngoắc cho xe đi. Nếu nó đi ra từ Weimar thì đáng chú ý hơn nhiều, vả lại anh ta đã được lệnh phải chú ý đến người - hay đúng hơn là một người, tóc bạc, nói giọng vùng Rhineland - đang tìm cách thoát khỏi vòng vây, chứ không phải là một cái máy kéo nặng mùi đang đi vào. Cái máy kéo chạy đến một đoạn đường cách thành phố ba dặm thì dừng lại. McCready nhảy xuống, cám ơn ông lão và đạp xe đi.
Đến cửa ngõ thành phố, anh cứ phải đi sát vào lề đường để tránh những đoàn xe đổ ra ùn ùn những lính mặc đồ xanh xám của lực lượng NVA. Rải rác đây đó một vài bộ cảnh phục xanh nhạt của cảnh sát. Dân chúng Weimar tụ tập thành từng nhóm, tò mò nhìn ngó. Một số cho đó là tập trận; những người khác cũng đồng ý vậy. Chuyện thường, dù ít quân đội nào tập trận trong phố.
McCready rất muốn xem bản đồ thành phố nhưng không thể, vì sợ có ai thấy. Anh đâu phải người du lịch. Đành phải cố nhớ ra đường mà anh đã xem trên các bản đồ mượn của Ban Đông Đức hôm bay đến Hanover. Anh đạp xe thẳng vào khu thành cổ và thấy đường phố ở đây toàn lát đá. Anh rẽ trái sang Heinrich Heinestrasse và tiến thẳng tới Karl Marx Platz, ở đó, anh xuống dắt xe và cúi mặt bởi các cảnh sát lao đến từ cả hai phía.
Anh tìm phố Brennerstrasse và thấy nó ở đầu kia quảng trường. Số mười bốn là một ngôi nhà cổ lỗ, lẽ ra phải sửa chữa từ lâu, như tất cả mọi cái khác trong thiên đường của Herr Honecker. Biển sơn tróc lở và các tên người bên cạnh tám cái núm chuông cũng bị mờ hết. Nhưng anh vẫn lần ra được bên cạnh cái biển căn số 3 là tên người: Neuman. Anh đẩy xe đạp qua cửa vào rất rộng, để xe ở tầng trệt lát đá rồi lên gác. Mỗi tầng có hai căn hộ. Căn hộ số 3 ở lầu hai. Anh bỏ mũ, xốc lại áo rồi nhấn chuông cửa. Lúc đó là chín giờ kém mười.
Mãi mấy phút sau mới có tiếng chân lê ra, rồi cánh cửa chầm chậm mở. Fraulein Neuman đã quá già, vận đồ đen, tóc bạc trắng và chống đôi nạng. McCready nghĩ bà chắc phải gần chín mươi. Bà ngước nhìn anh và nói “Ja?”
Anh cười toác miệng như thể nhận ra người quen cũ.
“Đúng là cô, thưa cô. Cô thay đổi quá. Nhưng cũng không nhiều bằng em. Chắc cô không nhận ra em, Martin Kroll. Cô dạy em ở trường tiểu học bốn mươi năm trước.”
Bà già nhìn anh một cách bình tĩnh, đôi mắt xanh vẫn rất sáng sau cặp kính gọng vàng.
“Em tình cờ đến Weimar, hôm nay, từ Berlin, cô ạ. Em ở đó mà. Và nghĩ có thể cô vẫn còn ở đây. Trong danh bạ có tên cô. Thế là em đến liền. Em vào được chứ?”
Bà tránh sang bên để anh vào. Căn phòng tối tăm, già nua như chủ nó. Bà dẫn anh vào phòng khách có cửa sổ nhìn ra phố, lẩy bẩy trên đôi chân viêm khớp. Anh đợi bà ngồi xuống rồi mới ngồi.
“Vậy là tôi đã dạy anh trước kia, ở trường tiểu học trên phố Heinrich Heinestrasse. Hồi nào nhỉ?’
“À, chắc là vào năm 43, 44 gì đó. Chúng em bị ném bom, ở Berlin. Em sơ tán về đây với những người khác. Đúng là vào mùa hè 43 đó. Em học cùng lớp với anh... anh, quên hết tên rồi - à, em nhớ, Bruno Morenz. Bạn thân nhất của em đấy.”
Bà cụ nhìn anh chằm chằm, rồi đứng dậy. Anh cũng đứng lên theo. Cụ lẩy bẩy đến bên cửa sổ nhìn xuống. Một xe tải chở đầy cảnh sát lướt qua. Lính đứng sát nhau trên xe, súng lục kiểu AP9 của Hungary đeo trĩu bên thắt lưng.
Bà cụ bỗng quay lại. "Anh là người Anh, đúng không. Mời anh ngồi xuống đi.”
McCready rất vui lòng làm theo. Anh nhận thấy là dù tuổi tác, cụ vẫn rất tinh tường.
“Sao cô lại nói những lời lạ lùng vậy?” Anh hỏi, vẻ phẫn nộ. Bà cụ không hề lúng túng.
“Có ba lý do. Tôi nhớ rất rõ từng đứa học trò tôi dạy ở trường đó, thời chiến tranh và sau chiến tranh, không có ai tên Martin Kroll cả. Heine là người Do Thái, và bọn Nazi đã xóa tên ông khỏi mọi phố xá, tượng đài.”
McCready giật mình. Đáng lẽ anh phải biết tên tuổi Heine, một trong những nhà thơ vĩ đại nhất của nước Đức chỉ được phục hồi sau chiến tranh.
“Nếu cụ kêu lên hoặc báo động,” anh nói khẽ, “tôi cũng không làm hại cụ. Nhưng bọn chúng sẽ kéo đến bắt tôi và bắn cụ. Tùy cụ lựa chọn.”
Bà cụ run rẩy đi về ghế ngồi. Với cách của những người đã già, cụ bắt đầu hồi tưởng.
“Năm 1934. Tôi là giáo sư Đại học Humboldt ở Berlin. Người trẻ nhất và cũng là nữ duy nhất. Bọn Nazi lên cầm quyền.. Tôi nói thẳng ra là khinh bỉ chúng, và cho rằng mình vẫn còn may, bởi lẽ cho vào trại tập trung thì chúng đưa tôi đến đây dạy chữ cho con cái nông dân.
“Sau chiến tranh, tôi không về Humboldt nữa. Một phần bởi nghĩ bọn trẻ ở đây cần tôi dạy dỗ hơn là bọn thanh niên khôn ngoan ở Berlin. Vậy đó, thưa ông gián điệp, tôi sẽ không báo động đâu.”
“Nhưng nếu họ bắt được tôi và tôi khai ra cụ?”
Bà cụ lần đầu tiên mỉm cười.
“Anh bạn trẻ ạ, khi nào tám mươi tuổi anh sẽ thấy rõ câu trả lời. Nào, tại sao anh tìm đến tôi?”
“Bruno Morenz. Cụ nhớ anh ấy chứ ạ?”
“Có chứ, tôi nhớ anh ta. Có chuyện gì xảy ra sao?”
“Có, Fraulein, chuyện đó rất tồi tệ. Anh ấy ở đây, rất gần đây. Anh ấy đến làm một nhiệm vụ - cho tôi. Nhưng... anh ấy ốm, ốm nặng ở trong đầu. Hoàn toàn suy sụp. Và... bây giờ đang trốn ở đâu đó. Anh ấy cần được cứu giúp.”
“Cảnh sát, rồi các loại lính tráng - là vì Bruno à?”
“Vâng. Nếu tìm được sớm, tôi may ra có thể cứu được anh ấy. Đưa anh ấy đi kịp.”
“Thế tại sao anh lại tìm tôi?”
“Bà chị ở London nói rằng Bruno rất ít kể về hai năm anh ấy sống ở đây, trong chiến tranh. Rằng anh ấy rất bất hạnh và chỉ có một người bạn duy nhất, là cô giáo dạy tiểu học Fraulein Neuman.”
Bà cụ đu đưa trên ghế một lúc.
“Bruno tội nghiệp.” Cụ nói sau hồi yên lặng. “Khốn khổ, lúc nào cũng sợ hãi. Rất sợ. Sợ chửi mắng, sợ đau.”
“Tại sao anh ấy lại sợ, Fraulein Neuman?”
“Bruno xuất thân từ một gia đình xã hội dân chủ ở Hamburg. Ông bố bị bom chết, song khi còn sống chắc ông ấy phải có lắm nhận xét chua cay về Hitler. Bruno được nuôi ở một trang trại ngoại ô. Tay chủ trại đó là kẻ độc ác, nghiện ngập. Cũng là một tên Nazi cuồng tín. Một hôm, Bruno trót nói ra điều gì đó học được ở cha mình, và bị tên chủ trại rút thắt lưng ra đánh. Rất đau. Từ đó trở đi, nó đánh luôn. Bruno đã phải chạy trốn nhiều lần.’’
“Anh ấy trốn ở đâu, Fraulein? Xin cụ, ở đâu?”
“Trong một nhà kho, ở tận đâu bên kia của bãi phơi cỏ khô, cách xa nhà và xa cả những kho khác. Câu ấy đã bới một lỗ trong đống cỏ xếp cao đến tận trần. Rồi chui vào đó, đợi đến khi tên chủ trại ngủ quay ra vì say sưa.’’
“Chính xác thì trại đó ở đâu?”
“Ở một xóm tên là Mariohain. Chắc là vẫn còn đó. Cả xóm chỉ có bốn trang trại. Giờ thì tập thể hóa hết rồi. Nó nằm trên đường tới Erfurt. Đi bốn dậm rồi rẽ trái xuống mộtđường nhỏ. Có biển chỉ đường. Đó gọi là trại Muller, nhưng giờ có thể đã đổi tên, hoặc mang một con số. Nhưng nếu nó vẫn còn đó thi hãy tìm một nhà kho cách các nhà khác khoảng hai trăm mét. Anh sẽ giúp được cậu ấy chứ?’’
McCreadyđứng dậy.
“Nếu anh ấy ở chỗ đó, Fraulein, tôi sẽ cố. Tôi thề là sẽ gắng sức. Cảm ơn cụ đã giúp tôi.’’
Đến cửa, anh quay lại.
“Cu nói rằng cô ba lý do để cụ nghĩ tôi là người Anh nhưng mới nói ra có hai.”
“Đúng! Anh ăn mặc như người làm công ở trai, nhưng lại nói là đến từ Berlin, ở đô thị làm gì có trang trại. Vậy thì anh chỉ có là gián điệp hoặc là chỉ điểm cho bon nó,” cụ hất đầu về phía cửa sổ, “hoặc là người của phía bên kia.”
“Nhưng cũng có thể tôi là nhân viên SSD.”
Bà cụ lại mỉm cười. “Không, thưa ngài Ănglê. Tôi vẫn còn nhớ các sĩ quan Anh năm 1945, ngay trước khi người Nga đến. Anh hơi quá lịch sự để nếu là người của SSD.”
Con đường chánh mà bà cụ nói vẫn còn đó, ở bên trái, nằm giữa xa lộ số 7 và Autobahn E40. Một biển nhỏ đề Ober Grunstedt. Anh đạp xe một dặm thì đến ngã ba. Con đường rẽ đôi ở đây. Bên trái anh là Nieder Grunstedt. Anh có thể thấy một hàng rào binh phục xanh đang bao vây nó. Còn bên kia là những cánh đồng ngô chưa thu hoạch, cao gần cầu người. Đến rìa trại Ober Grunstedt, anh gặp một lối rẽ, còn nhỏ hơn nữa. Đi nửa dặm thì thấy trang trại và nhà kho, kiến trúc theo lối Thuringia với mái ngói rất dốc, có tháp nhọn và cửa ra vào vừa rộng vừa cao để dễ chuyển cỏ khô vào trong. Đó là MARIONHAIN.
Vì sợ dân trong trại có thể nhận ra ngay người lạ nên anh giấu xe vào ruộng ngô và trèo lên hàng rào để nhìn cho rõ. Phía bên phải, anh thấy một nhà kho cao, đứng chơ vơ, cách xa nhóm nhà kho khác, tường xây gạch và lợp ván quét hắc ín. Luồn trong ruộng ngô, anh đi vòng qua xóm, đến kho đó. Ở phía chân trời, làn sóng binh phục xanh bắt đầu rời khỏi Nieder Grunstedt.
Dr. Lothar Herrmann cũng đến cơ quan sáng thứ bảy đó. Kể từ khi gửi bức điện cho Fietzau ở sứ quán Đức tại London rồi nhận được câu trả lời không đưa cuộc điều tra tiến bộ thêm chút nào, việc Bruno Morenz đã trở nên nguội lạnh. Vốn không làm việc ngày thứ bảy nhưng cần phải tìm được cái gì đó có thể giúp ông thoát khỏi tình trạng khó chịu này. Tối qua, ông dùng bữa với Tổng giám đốc. Dĩ nhiên, đó không phải bữa ăn ngon lành gì.
Không ai bị bắt trong vụ giết Heimendorf. Cảnh sát thậm chí đã không phát lệnh truy nã kẻ mà họ rất muốn bắt. Dường như họ đụng phải một bức tường từ khi gom được những bộ dấu tay và hai đầu đạn.
Một số những vị có máu mặt, cả tư nhân lẫn quan chức, đã bị thẩm vấn một cách kín đáo và ra về cực kỳ bối rối. Nhưng việc đó cũng không đưa đến đâu. Lấy dấu tay, bắn thử súng, kiểm tra alibi (2). Kết quả vẫn là... số không.
Tổng giám đốc rất lấy làm tiếc nhưng cũng rất cứng rắn. Sự chểnh mảng của Sở thế này là quá lắm rồi. Sáng thứ hai, chính ông Tổng giám đốc sẽ phải đến dinh Thủ tướng để gặp Bộ trưởng Ngoại giao, người chịu trách nhiệm, về mặt chính trị, với BND. Đó là cuộc gặp cực kỳ khó chịu, và ông, Tổng giám đốc, rất không hài lòng.
Bây giờ, Dr. Herrmann mở tập hồ sơ lưu giữ những cuộc đàm thoại vô tuyến ở vùng biên giới từ thứ tư đến thứ sáu, và nhận thấy số lượng chúng tăng tới mức khủng khiếp. Có chuyện gì đó đã làm xôn xao cảnh sát Đông Đức ở Jena. Rồi ông bắt gặp một dòng trong cuộc điện đàm giữa một xe tuần tra và Trung tâm ở Jena “... to lớn, tóc bạc, giọng vùng Rhineland.." Nó gợi lên cái gì nhỉ...
Người trợ lý bước vào với một bức điện. Nếu Herr Doktor nhất định đến cơ quan vào ngày thứ bảy thì ông ta cũng sẽ nhận được thông tin ngay khi nó vừa đến. Bức điện là báo cáo gửi cho cơ quan an ninh nội tuyến BFV và được họ chuyển đến cho ông để tham khảo, rằng một nhân viên tinh mắt ở sân bay Hanover đã nhận ra một khuôn mặt quen, nhập cảnh vào Đức bằng chuyến bay từ London, dưới cái tên Maitland. Vốn là một người rất cảnh giác, nhân viên BFV đã tìm người này trong hồ sơ, rồi chuyển nhận dạng của anh ta cho cơ quan đầu não ở Cologne. Cologne lại chuyển cho Pullach. Cái người tên Maitland hóa ra là Mr. Samuel McCready.
Dr. Herrmann thấy mình bị lăng nhục. Thật vô cùng bất lịch sự khi một sĩ quan cao cấp của tình báo đồng minh NATO đường đột vào nước người ta không hề báo trước. Và lạ lùng nữa. Trừ khi... Ông nhìn bức điện thu trộm ở Jena, lại nhìn bức ở Hanover. Không, hắn chẳng dám đâu, ông nghĩ. Nhưng một tiếng nói khác trong ông lại nhắc nhở: có chứ, hắn dám lắm. Dr. Herrmann nhấc phôn và bắt đầu cuộc bày binh bố trận của mình.
McCready liếc quanh rồi vượt qua mấy mét bãi cỏ vào kho. Cánh cửa ken két trên những bản lề han gỉ. Ánh sáng xuyên qua những lỗ thủng trên mái gỗ thành những vệt mảnh bụi bặm, soi rõ đống lộn xộn những xe ngựa cũ, thùng gỗ, dây chạc, máng ăn gia súc. Anh ngước nhìn lên. Ngăn gác trên, có một chiếc thang bắc lên đó, xếp hàng đống cỏ khô. Anh leo lên thang và khẽ gọi, “Bruno.”
Không có tiếng trả lời. Anh bước qua đống cỏ khô, tìm dấu vết mới. Ở trong cùng, một mảnh áo mưa thò ra giữa hai bó cỏ. Anh nhẹ nhàng nhấc một bó sang bên.
Bruno Morenz nằm nghiêng, mắt vẫn mở nhưng nom cứng đờ. Khi thấy ánh sáng chiếu vào, ông co rúm lại.
“Bruno, bạn đây. Nhìn tôi này, Bruno.”
Morenz chuyển cái nhìn về McCready. Mặt ông xám ngắt và râu ria. Đã ba hôm nay ông không được ăn gì, chỉ uống nước đọng trong một cái thùng. Cặp mắt thất thần, vô định, cố gắng để tập trung khi nhìn thấy McCready.
“Sam?”
“Sam đây. Sam McCready.”
“Đừng nói với họ là tôi ở đây nhé, Sam. Nếu anh không nói, họ sẽ không tìm thấy tôi đâu.”
“Tôi sẽ không nói đâu, Bruno. Không đời nào.”
Qua khe ván, anh thấy tuyến binh phục màu xanh đang chuyển động qua cánh đồng ngô, tiến tới.
“Cố dậy đi, Bruno.”
Anh xốc Morenz dậy, cho dựa vào bó cỏ.
“Nhanh lên, Bruno. Tôi đang cố đưa bạn đi trốn đây.”
Morenz lắc đầu uể oải. “Ở lại đây, Sam. Ở đây kín lắm, không ai tìm thấy đâu.”
Đúng rồi, McCready nghĩ, một tên chủ trại say rượu thì không thể. Nhưng năm trăm binh lính thì có thể, và sẽ thấy ngay. Anh cố gắng xốc Morenz đứng lên nhưng vô vọng. Ông ta nặng quá. Và đôi chân không chịu đứng. Anh luồn tay ôm ngang ngực ông. Có cái gì cồm cộm ở nách bên trái. McCready đành để ông trượt xuống cỏ. Morenz lập tức nằm co ngay lại. McCready hiểu anh chẳng thể nào đưa ông ta ra khỏi biên giới cạnh làng Ellrich được, còn rào thép gai, còn bãi mìn nữa. Thế là hết.
Qua khe tường, có thể thấy những binh phục xanh đã quây kín khu trại Ober Grunstedt. Marionhain sẽ đến lượt ngay sau đó.
“Tôi đã gặp Fraulein Neumann. Bạn có nhớ Fraulein Neumann không? Bà ấy rất tốt.”
“Vâng, tốt lắm. Cô có thể biết tôi đang ở đây nhưng cô sẽ không nói với bọn họ đâu.”
“Không đời nào. Bà nói rằng bạn còn nợ bài tập về nhà. Bà muốn chấm điểm bài tập cho bạn.”
Morenz cởi cúc áo mưa và lôi ra quyển sách dầy, bìa đỏ. Cà vạt của ông đã tuột và sơ mi mở cổ để lộ một chiếc chìa khóa treo trên sợi dây đeo cổ. McCready cầm lấy quyển sách.
“Tôi khát, Sam.”
McCready chìa cho ông cái bình dẹt đựng rượu lấy ra ở túi sau. Morenz uống một cách khao khát. McCready liếc qua khe tường. Lính tráng đã làm xong việc với Ober Grunstedt. Một số bắt đầu rẽ xuống đường, số khác tản ra ruộng ngô.
“Tôi sẽ ở đây thôi, Sam.” Morenz nói.
“Vâng.” McCready đáp. “Anh ở đây vậy. Tạm biệt bạn già nhé. Hãy ngủ ngon. Giờ thì chẳng ai còn quấy rầy anh được nữa.”
“Chẳng ai nữa.” Morenz lẩm bẩm rồi thiếp đi.
McCready sắp sửa đi thì anh chợt thấy cái chìa khóa đeo nơi cổ Morenz ánh lên. Anh tháo nó ra, giấu quyển sách vào túi đồ, xuống thang, lẩn vào ruộng ngô. Hai phút sau, vòng vây đã khép lại ở đó. Đúng giữa trưa.
Phải mất mười hai tiếng, anh mới lần đến được cây thông lớn ở vùng biên giới gần làng Ellrich. Anh mặc đồ ngụy trang và nằm chờ dưới gốc cây đến ba giờ rưỡi sáng. Siegfried đang đợi anh bên hàng rào phía Tây.
Trên đường về lại Goslar, anh rút chiếc chìa khóa ra xem. Nó bằng thép, một mặt khắc dòng chữ Flughafen Köln - Sân bay Cologne. Sam tạm biệt bố con Kurzlinger sau khi bữa ăn sáng để lấy lại sức rồi lái xe về hướng Tây Nam thay vì về hướng Bắc, tới Cologne.
Một giờ chiều thứ bảy đó, đội lính càn liên lạc với đại tá Voss, vốn đã có mặt ở khu vực đó trên chiếc xe chỉ huy, cùng một phụ nữ vận thường phục. Họ đã xem xét cái xác nằm trong đống cỏ khô. Căn nhà kho hầu như bị phá bung ra nhưng không thấy dấu vết một tài liệu viết chữ nào, chưa nói đến một quyển sách. Nhưng lúc đó, nào họ có biết phải tìm cái gì đâu.
Một người lính tìm thấy cái bao nhỏ màu bạc nằm trong tay người chết và chuyển cho đại tá Voss. Ông ta ngửi và thì thầm “Cyanide.” Thiếu tá Ruth cầm nó và lật lên xem. Ở đằng sau có dòng chữ HARRODS LONDON. Nàng văng ra một câu chửi rất ít nữ tính. Đại tá Voss thì cho đó là một câu chửi vào loại tục tĩu nhất.
Trưa chủ nhật, McCready tới sân bay Cologne vừa kịp chuyến bay một giờ. Anh đổi vé Hanover-London sang vé Cologne-London, qua cửa kiểm tra, rồi rảo bước về phía dãy tủ sắt gửi hành lý trong phòng đợi. Anh rút chiếc chìa khóa bằng thép ra và nhét vào ổ số 47. Bên trong là một chiếc túi vải màu đen có khóa. Anh lấy nó ra.
“Tôi cho là tôi phải giữ túi này, cảm ơn ông, Herr McCready.”
Anh quay lại. Phó giám đốc Cục Hành động BND đang đứng sau anh, bên cạnh là hai tay cao lớn dềnh dàng. Một đang ngắm móng tay mình, còn tay kia đang ngắm trần nhà như cố tìm ra những vệt nứt trên đó.
“Tại sao, Dr. Herrmann. Tôi rất vui được gặp lại ông. Cái gì đưa ông đến Cologne vậy?”
“Cái túi... nếu ông không phiền, Mr. McCready.”
Anh trao túi. Herrmann chuyển nó cho người của mình. Bây giờ, ông ta coi bộ ôn hòa hơn.
“Đấy, Mr. McCready. Người Đức là một dân tộc mến khách. Cho phép tiễn lên máy bay. Ông không nên tiếc vì chuyện cái túi.”
Họ cùng đi ra phía trạm kiểm tra hộ chiếu.
“Một đồng nghiệp của tôi...” Herrmann gợi chuyện.
“Anh ta sẽ không trở lại nữa đâu, Dr. Herrmann.”
“A, thật đáng thương. Nhưng có lẽ như thế lại hơn.”
Dr. Herrmann hé cho các sĩ quan cửa khẩu một tấm card và họ được cho qua. Rồi McCready còn được đưa tới tận cửa máy bay.
“Chào McCready.”
Anh quay lại, Herrmann cuối cùng cũng mỉm cười.
“Chúng tôi cũng biết cách nghe ngóng các cuộc tán gẫu ở vùng biên giới. Chúc lên đường bình an. Xin chuyển lời chào của tôi đến London.”
Một tuần sau, Langley nhận được tin mới. Đại tá Otto đã bị chuyển công tác. Sắp tới, ông ta sẽ chỉ huy một khu trại giam quân sự nào đó.
Claudia Stuart biết tin đó qua người của cô nằm trong tòa đại sứ ở Berlin. Vào lúc đó, cô còn đang đắm mình trong trận mưa những lời ca ngợi trong khi các nhà phân tích quân sự đang nghiên cứu cuốn Điều lệnh chiến tranh. Cô trở nên hiền triết hơn khi nói về viên đại tá của cô. Như khi cô nhận xét với Chris Appleyard “Ông ta giữ được cái đầu và cả cấp bậc nữa. Còn tốt hơn đi đào mỏ chì ở đâu đó. Còn với chúng ta - dĩ nhiên như thế rẻ hơn dãy căn hộ ở Santa Barbara.”
Chú thích:
[1] Tiếng Đức trong nguyên bản: Đến đây. nhanh lên. (Papierre cũng có nghĩa là trình giấy tờ)
[2] Tình trạng ngoại phạm.