Chương 5
Thiếu tá Ruth không ngủ được. Trong bóng tối nàng cứ băn khoăn tại sao Đông Đức đã kiểm soát trật tự, an ninh thành công đến thế lại không thể tìm ra một người trong phạm vi hai chục dặm mỗi bề. Hắn đi nhờ được xe? Hay đã trộm được một xe đạp? Hay vẫn nấp trong cái mương nào đó? Cảnh sát đang làm quái quỷ gì ở chỗ ấy?
Ba giờ sáng, nàng tin chắc rằng còn thiếu đâu đó một chi tiết trong cái câu đố. Làm sao một người gần như phát điên vì sợ hãi trong cuộc trốn chạy ở một vùng nhỏ bé lại có thể thoát được sự truy lùng?
Bốn giờ, nàng đến trụ sở làm náo loạn ca trực đêm với yêu cầu phải liên lạc ngay bằng đường dây bảo mật với trụ sở SSD, đại tá Voss. Ông ta ở đấy cả đêm.
“Cái bức ảnh Morenz đó,” nàng hỏi, “là ảnh mới sao?”
“Khoảng một năm trước.” Voss trả lời, hơi bối rối.
“Đồng chí nhận được từ nguồn nào?”
“Từ HVA.” Voss đáp. Ruth cám ơn và buông máy.
Dĩ nhiên rồi, HVA - Haupt Verwaltung Aufklärung, cơ quan tình báo ngoại tuyến Đông Đức, vì những lý do thuần túy về ngôn ngữ, chủ yếu điều hành mạng lưới của mình ở Tây Đức. Thủ lĩnh HVA là viên đại tướng huyền thoại Marcus Wolf. Ngay cả KGB cũng phải kiêng nể ông ta. Marcus “Mischa” Wolf đã đánh được những điệp viên sáng giá sang Tây Đức, đáng kể nhất là vụ “điều hành” được thư ký riêng của Thủ tưởng Tây Đức Brandt.
Ruth gọi điện đánh thức thủ trưởng Cục 3 địa phương và đặt yêu cầu, nhân danh tướng Josef Steiner. Mưu mẹo đó thế mà thành công. Ông gọi lại sau nửa giờ. Có lẽ tướng Wolf cũng là loại chim kiếm mồi lúc ban mai. Nàng có thể gặp Tướng quân tại phòng làm việc của ông ta lúc sáu giờ.
Năm giờ sáng hôm đó, ban mật mã ở Cheltenham đã hoàn thành việc giải mã bức cuối cùng trong đống giấy tờ chất lên thành núi suốt hai tư giờ qua. Dưới dạng tường minh, chúng sẽ được truyền đi theo những đường dây bảo mật tuyệt đối, đến một loạt những nơi nhận tin - một số ở Nhà Thế Kỷ, số khác ở MI-5 trên phố Curzon, một số lại ở Bộ quốc phòng đóng trong Whitehall. Đa số đều có hai đến ba bản sao tùy mức độ cần thiết.
Giữa đông tư liệu bộn bề của tối thứ tư đó là bức điện gửi từ Pullach cho một nhân viên BND làm việc tại sứ quán Tây Đức ở London. Đức, dĩ nhiên là một đồng minh đáng kính và đầy giá trị Anh quốc, nhưng việc thu và giải mã bức mật điện của đồng minh gửi cho sứ quán mình thì lại là chuyện khác. Khóa mã đã được phá trước đó ít lâu. Tất nhiên đây không phải chuyện xúc phạm gì nhau, mà chỉ thuần túy công việc. Bức điện đã giải mã, sau đó lại được gửi tới MI-5 và tới ban NATO của Nhà Thế Kỷ, nơi thực hiện mọi liên lạc tình báo với tất cả các đồng minh của Anh quốc, trừ CIA, vì nó có một ban riêng lo việc đó.
Trưởng ban NATO chính là người đầu tiên lưu ý Edwards về những rắc rối của việc McCready điều hành một sĩ quan của đồng minh BND như thể đó là nhân viên riêng của mình. Song ông cũng lại là chỗ bạn bè, nên thấy bức điện Đức lúc mười giờ sáng đó, ông quyết định sẽ đưa nó cho ông bạn Sam. Chỉ trong trường hợp này thôi... Nhưng ông lại bận việc mãi cho đến tận trưa.
Sáu giờ sáng Ruth đã có mặt trong phòng làm việc của Marcus Wolf, trên phòng đại tá Voss hai tầng. Tổ sư của nghề gián điệp Đông Đức vốn không thích mặc binh phục, và bây giờ đang vận bộ đồ màu sẫm, cắt rất khéo. Ông cũng thích uống trà hơn cà phê và chỉ dùng loại trà riêng, rất ngon được gửi từ hãng Fortnum and Mason ở London. Ông mời nữ thiếu tá một tách.
“Thưa đại tướng, đây là ảnh mới nhất của Morenz. Nó được lấy từ chỗ đồng chí?”
Marcus Wolf ngắm nàng qua thành tách trà. Nếu có nguồn tin, có cơ sở ở trong lòng địch thủ Tây Đức thì ông cũng chẳng bao giờ thừa nhận điều đó với người lạ này.
“Đồng chí có thể cho tôi một bản sao lý lịch cá nhân của Morenz không?’
Marcus Wolf cân nhắc. “Tại sao đồng chí cần cái đó?”
Nàng trình bày chi tiết. Bỏ qua một số nguyên tắc.
“Không có gì cụ thể. Nhưng có cảm giác là có một cái gì đó bị bỏ sót. Có thể một cái gì trong quá khứ của hắn.”
Wolf đồng ý. Ông thích những suy nghĩ kiểu ấy. Ông đã từng có những thành công bắt đầu từ một cảm giác mờ nhạt, một thoáng nghi ngờ rằng kẻ địch có gót chân Achilles ở đâu đó, giá mình tìm được... Ông đến tủ hồ sơ, im lặng rút ra một tập. Đó là chi tiết cuộc đời Bruno Morenz, ở Pullach, chiều thứ tư, Lothar Herrmann cũng đã nghiên cứu một tập hồ sơ giống hệt như tập này.
Nếu Marcus Wolf có một nghề riêng nào đó trong thế giới tình báo thì đó lại không phải là mua chuộc hay vu khống giới chức cấp cao Tây Đức, mặc dù đôi khi vẫn phải làm, chẳng hạn như bố trí những thư ký kiểu bà cô không chồng, đạo đức hoàn hảo. ông biết, một thư ký tin cậy sẽ biết tất cả những gì ông chủ biết và đôi khi còn hơn nữa.
Nhiều năm nay, Tây Đức chao đảo bởi hàng loạt scandal nữ thư ký riêng của các bộ trưởng, quan chức cao cấp, các nhà thầu quân sự bị BFV tóm cổ hoặc lặng lẽ chuồn về phía Đông. Một ngày nào đó, ông biết ông sẽ phải rút Fraulein Erdmutte Keppel khỏi BND Cologne và đưa trở về Cộng hòa dân chủ Đức yêu quý của cô. Cho đến lúc đó, cô ta vẫn phải tiếp tục đến nhiệm sở một giờ sớm hơn giám đốc Dieter Aust và sao chép bất kỳ thứ gì đáng quan tâm, bao gồm cả lý lịch cá nhân của tất cả các nhân viên. Cô ta phải tiếp tục, nếu là mùa hè, đi ăn trưa ở một công viên yên tĩnh với món salat sănwuých, ném những mẩu bánh vụn còn lại cho chim câu và cuối cùng là bỏ túi đựng bánh vào thùng rác. Túi đó sẽ được lấy ra bởi một ông sang trọng dắt chó đi dạo qua, chỉ vài giây sau đó. Còn nếu là mùa đông, cô sẽ ăn trưa ở một quán cà phê ấm áp và vức tờ báo vào thùng rác gần cửa, một người quét đường sẽ đến dọn đi ngay.
Khi về Đông Đức, Fraulein Keppel sẽ được dự một buổi đón tiếp cấp nhà nước, được Bộ trưởng An ninh Erich Mielke hay đôi khi đích thân Chủ tịch Erich Honecker
chúc mừng, một mề đay, một khoản hưu bổng, một nhà nghỉ ấm áp ở bờ hồ Fürstenwalde.
Dĩ nhiên, Marcus Wolf đâu phải tiên tri nên làm sao biết năm 1990 Đông Đức sẽ chấm dứt tồn tại, rằng chính ông sẽ phải nghỉ hưu và viết hồi ký, còn Erdmutte Keppel sẽ sống những ngày còn lại trong chốn ẩn dật ở Tây Đức, thua xa cái nhà ở Fürstenwalde đáng lẽ được nhận.
Thiếu tá Ruth ngước lên.
“Hắn có một bà chị gái.” Nàng nói.
“Phải.” Wolf nói. “Đồng chí nghĩ bà ta biết gì chăng?”
“Đó là phòng hờ thôi. Giá tôi có thể đi gặp bà ta...”
“Nếu được phép của cấp trên, bởi đồng chí đâu làm việc cho tôi.”
“Nhưng nếu xin được phép, tôi còn cần một vỏ bọc. Không phải người Đông Đức.”
Wolf nhún vai vẻ coi thường.
Có chuyến bay mang số hiệu LOT 104 của hãng hàng không Ba Lan đi London ghé qua Berlin lúc mười giờ. Nó được giữ lại mười phút để Ruth đủ lên máy bay. Như Wolf đã chỉ cho nàng thấy, những người mà nàng gặp ở London sẽ không có mấy ai nói tiếng Ba Lan. Nàng mang giấy tờ của một giáo viên Ba Lan đi thăm họ hàng. Điều này là dễ dàng chấp nhận vì Ba Lan khá tự do.
Điện thoại trên bàn Sam McCready đổ chuông đúng giữa trưa, khi anh vừa đặt ống nghe xuống sau cuộc gọi cho Cheltenham. Câu trả lời vẫn là chưa có gì. Bốn mươi tám giờ, và Morenz vẫn đang đâu đó. Còn cú gọi này là từ ban NATO tầng dưới.
“Có bức điện ngắn trong túi thư sáng nay.” Người gọi thông báo. “Chẳng biết có ích gì không? Tớ gửi lên nhé.”
Năm phút sau, bức điện đến tay anh. Đọc thời gian ghi trên đó, anh rên lên.
Thường thì những quy tắc sống còn của thế giới bí mật phải được tôn trọng nghiêm ngặt. Ai đó không cần phải biết một điều gì mới làm được việc của mình thì sẽ không bao giờ được biết. Do vậy, nếu có rò rỉ tin tức, dù cố ý hay vô tình, thì thiệt hại cũng không quá lớn. Nhưng đôi khi quy tắc đó cũng phản tác dụng. Một cái tin có thể giúp người ta lật ngược ván cờ lại không được chuyển đến đúng người cần nó vì không ai nghĩ nó lại cần đến vậy.
Archimedes và nhóm chuyên nghe chuyện bên Đông Đức ở Cheltenham đã được lệnh chuyển ngay tức khắc cho McCready những gì họ bắt được. Các từ Grauber hay Morenz là những mã ưu tiên đặc biệt để chuyển tiếp. Nhưng nào có ai nghĩ đến chuyện báo động cho các tuyến liên lạc quân sự và ngoại giao đồng minh để chuyển những thứ nhận được cho McCready.
Bức điện trong tay anh ghi
4:22 chiều thứ tư. Nó viết.
Gửi - Herrmann
Nhận - Fietzau
Tối khẩn. Tìm gặp ngay Bà A. Farquarson chị ruột Morenz tin chắc sống ở London Stop Hỏi bà ta xem có tin tức gì của em trai trong bốn ngày gần đây. Hết.
Anh ta chưa bao giờ cho mình biết có một bà chị ở London. Thậm chí chưa bao giờ cho mình biết là có một bà chị ruột, McCready nghĩ. Anh bắt đầu ngờ vực liệu ông bạn Bruno còn chưa cho anh biết những gì nữa trong quá khứ của mình. Anh lôi cuốn danh bạ điện thoại ra và dò tìm tên Farquarson.
May thay, đó không phải cái tên quá phổ biến ở Anh. Là Smith thì phải biết. Ở đây chỉ có mười bốn Farquarson, nhưng không thấy có “Bà A”. Anh đànhphải gọi lần lượt. Bảy người đầu tiên thì nói là họ không hề biết Bà A. Farquarson nào hết, hai bỏ ống nghe ngay. Với người thứ tám, anh gặp may; đó là người tên là Fobert Farquarson trong danh bạ. Một giọng phụ nữ trả lời.
“Vâng, bà Farquarson nghe đây.”
Có dấu vết của giọng Đức?
“Có phải bà A. Farquarson?”
“Phải.” Bà ta có vẻ dè chừng.
“Xin lỗi đã làm phiền, thưa bà. Tôi là người của cơ quan nhập cảnh sân bay Heathrow. Tôi muốn được biết bà có người em nào tên Bruno Morenz không?”
Im lặng kéo dài.
“Nó ở đó à? ở Heathrow?”
“Tôi không được quyền nói, thưa là. Trừ khi bà đúng là chị ruột của ông ta.”
“Đúng! Tôi là Adelheid Farquarson. Bruno Morenz là em trai tôi. Tôi có thể nói chuyện với cậu ấy được không?”
“Tôi e rằng bây giờ thì chưa được. Bà có thể ở đấy mười lăm phút nữa không. Có chuyện rất quan trọng.”
“Vâng, tôi sẽ đợi ông.”
Đó là một xưởng vẽ lớn ở trên nóc một biệt thự kiên cố kiểu Edward, sâu mãi trong hẻm Regent’s Park. Anh nhấn chuông. Bà Farquarson mặc áo choàng họa sĩ đưa anh vào xưởng bừa bộn những giá vẽ và các phác thảo!
Bà nom khả ái, mái tóc bạc giống ông em. McCready đoán bà khoảng gần sáu mươi. Bà dọn một chỗ mời anh ngồi và nhìn thẳng vào mắt anh. McCready thấy có hai ly cà phê trên bàn bên cạnh, cả hai đều đã uống cạn. Anh lén sờ vào chúng. Ly vẫn còn ấm.
“Tôi có thể giúp gì cho ông, thưa ông...”
“Jones. Tôi xin phép được hỏi bà vài câu về ông em bà, Herr Bruno Morenz.”
“Tại sao?”
“Đó chỉ là một thủ tục để nhập cảnh.”
“Ông nói dối tôi., ông Jones.”
“Chẳng lẽ lại như vậy?”
“Đúng. Em tôi không đến đây. Và nếu có đến thì cũng chẳng có vấn đề gì về việc nhập cảnh cả. Bởi vì cậu ấy là công dân Tây Đức. Ông có phải cảnh sát không?”
“Không, thưa bà Farquarson. Nhưng tôi là bạn của Bruno. Bạn lâu năm. Chúng tôi đã sát cánh bên nhau bao nhiêu lần. Xin bà hãy tin tôi, vì đó là sự thực.”
“Nó đang bị rắc rối phải không?”
“Phải, tối sợ rằng vậy. Tôi đang cố gắng cứu anh ta, nếu tôi có thể. Nhưng điều đó không dễ.”
“Nó đã làm chuyện gì?”
“Dường như là anh ấy đã giết cô bạn gái ở Cologne. Rồi chạy trốn. Anh ấy đã gọi cho tôi. Nói rằng anh ấy không định làm thế. Sau đó, anh ấy mất tích.”
Bà ta đứng dậy, đến bên cửa sổ ngắm nhìn những tán lá muộn màng của mùa hạ trong công viên Primrose Hill.
“Ôi, Bruno. Ngốc nghếch quá. Đáng thương quá.”
Bà, quay lại, đối mặt với anh.
“Sáng hôm qua, có một người ở sứ quán Đức đến đây. Ông ta đã gọi điện trước, vào tối thứ tư, nhưng tôi không có nhà. Ông ta không nói với tôi về những điều ông vừa nói - chỉ hỏi tôi là Bruno có tin tức gì không. Không, chẳng có tin gì. Cả ông nữa, tôi cũng không giúp gì được ông đâu. Có lẽ ông còn biết nhiều hơn tôi nữa kia, nếu đúng là nó đã gọi cho ông. Ông có biết nó sẽ trốn đi đâu không?”
“Vấn đề là ở chỗ ấy. Tôi cho rằng anh ấy đã vượt biên sang Đông Đức. Ở đâu quanh vùng Weimar. Có lẽ là trú ở nhà bạn bè. Nhưng theo tôi biết, anh ấy có từng sống ở Weimar bao giờ đâu.”
Bà ta coi bộ cực kỳ bối rối. “Ông bảo sao? Nó đã từng ở đấy hai năm.”
McCready cố giữ vẻ bình thường, nhưng anh thực sự choáng váng. “Tôi xin lỗi, tôi không biết chuyện này. Anh ấy không kể với tôi.”
“Không, chẳng đời nào nó kể. Nó căm ghét chỗ đó mà. Đó là hai năm bất hạnh nhất đời, và nó không muốn nhắc lại chuyện cũ.”
“Thế mà tôi nghĩ gia đình bà gốc gác ở Hamburg.”
“Đúng thế, cho đến năm 1943. Khi Hamburg bị RAF tàn phá. Các máy bay ném bom khổng lồ Fire Storm. Ông biết chuyện ấy không?’’
McCready gật đầu. RAF, Không lực Hoàng gia Anh quốc đã ném bom trung tâm Hamburg dữ dội đến nỗi làm bùng lên những đám cháy khổng lồ, cả một hỏa ngục thực sự, làm cho thép chảy như nước và bê tông nổ như bom. Bão lửa đã biến thành hơi những gì nó gặp trên đường.
“Bruno với tôi trở thành mồ côi từ đêm ấy. Khi mọi sự đã rồi, nhà cầm quyền tiếp nhận chúng tôi và đưa đi tản cư. Tôi mười lăm, Bruno lên mười. Chúng tôi bị tách ra. Tôi được đưa vào một gia đình ở ngoại ô Gottingen, Bruno bị gửi đến một trang trại ở gần Weimar. Sau chiến tranh, tôi đi tìm nó và Chữ Thập Đỏ đã giúp chúng tôi sum họp. Hai chị em dắt nhau trở về Hamburg. Tôi chăm nom nó. Nhưng nó không bao giờ muốn nói gì về Weimar. Tôi đi làm ở căng tin NAAFI của Anh để nuôi Bruno. Thời buổi đó khó khăn lắm, chắc ông cũng biết.”
McCready gật đầu. “Vâng, thật đáng buồn.”
Bà nhún vai. “Chiến tranh mà. Dù sao, năm 1947 tôi đã gặp một trung sĩ Anh - Robert Farquarson. Chúng tôi cưới nhau và về sống ở đây. Ông ấy mất tám năm rồi. Khi Robert và tôi rời Hamburg năm 1948, Bruno đã xin được một chân học việc trong hãng sản xuất thấu kính quang học. Từ đấy đến nay tôi chỉ gặp nó ba bốn lần và có đến mười năm nay không gặp lại.”
“Bà có kể chuyện này cho người của sứ quán không?”
“Cho Herr Fietzau? Không, ông ta không hỏi gì thời thơ ấu của Bruno. Nhưng tôi có kể cho cô kia.”
“Cô nào?”
“Cô ấy đi cách đây một giờ rồi. Cái cô ở Ban hưu trí.”
“Hưu trí?”
“Vâng. Cô ta nói Bruno vẫn làm việc trong ngành thủy tinh, tại một hãng tên là BKI ở Würzburg. Nhưng hình như BKI là chi nhánh của Pilkington Glass của Anh và với đơn xin về hưu của Bruno, cô ta cần các chi tiết về cuộc sống riêng của nó để đánh giá mức lương. Hay cô ta không phải là người của hãng Bruno làm việc?”
“Có lẽ là cảnh sát Tây Đức. Tôi sơ rằng họ cũng đang tìm Bruno, nhưng không phải để giúp đỡ anh ấy.”
“Khổ quá. Tôi xử sự cứ như một con ngốc.”
“Làm sao mà bà biết được, bà Farquarson. Cô ta nói tiếng Anh có thạo không?”
“Thạo. Giọng rất nhẹ - nghe như giọng Ba Lan.”
McCready có rất ít cơ sở để ngờ vực người đàn bà đó từ đâu đến. Còn biết bao nhiêu người cũng đang săn lùng Morenz, rất nhiều, nhưng có điều, chỉ mỗi McCready và một nhóm ít người nữa mới biết về BKI ở Würzburg.
“Xin bà nghĩ lại xem anh ấy có nói một chút gì về những năm sau chiến tranh đó không. Liệu có một ai để anh ấy có thể tìm đến nương thân khi cần thiết?”
Bà ta suy nghĩ rất lâu, và rất khó nhọc.
“Có lần nó đã nhắc đến một cái tên, của một người đã đối xử rất tốt với nó. Cô giáo thời nó học tiểu học. Fraulein... trời ơi... Fraulein Neuberg. Không, không phải. A, tôi nhớ rồi, Fraulein Neumann. Đúng! Neumann. Nhưng... có thể cô ấy đã chết thì sao. Bốn mươi năm rồi còn gì.”
“Một điều cuối cùng nữa, bà Farquarson, bà đã nói điều ấy cho cái cô ở Ban hưu trí chưa?”
“Không, tôi vừa nhớ ra thôi. Tôi chỉ nói với cô ta rằng Bruno đã có lần sống hai năm ở một trại cách Weimar chừng mươi dặm đường.”
Về đến Nhà Thế Kỷ, McCready mượn ngay cuốn danh bạ điện thoại Weimar của Ban Đông Đức. Có đến mấy tên Neumann, nhưng chỉ có một cái kèm với Frl, viết tắt của Fraulein, ở đằng trước. Một cô gái già, không chồng. Chứ còn bọn thanh thiếu nữ thì làm gì có nhà riêng và điện thoại ở Đông Đức. Một cô gái già cực kỳ đạo đức, một bà có trình độ chuyên môn, chắc thế. Đó chỉ là cầu may thôi, rất ít hy vọng. Anh có thể yêu cầu một nhân viên trong ban Đông Đức vượt qua Bức Tường để gọi điện.
Nhưng Stasi rải khắp nơi, nghe trộm mọi cuộc điện thoại. Chỉ cần một câu hỏi, đại khái “Bà có phải ngày xưa từng là cô giáo của một cậu học trò tên Morenz? Thế... anh ta đang ở chỗ bà?” là đủ để sụp đổ tất cả.
Sau đó anh đến một phân ban trong Nhà Thế Kỷ mà chuyên môn của nó là làm thông hành giả, rất đặc biệt.
Anh gọi British Airways, nhưng nó không giúp được gì. Song Lufthansa lại có thể. Hãng này có chuyến bay lúc năm giờ mười lăm đi Hanover. Anh lại yêu cầu Denis Gaunt lái xe đưa anh ra Heathrow.
Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Đó là một câu hay. Chuyến bay của hãng Hàng không Ba Lan xuất phát từ London về Warsaw qua đường Đông Berlin, theo kế hoạch sẽ cất cánh lúc ba rưỡi. Song khi viên phi công bật hệ thông điều khiển bay của anh ta lên thì thấy một đèn báo động đỏ rực. Đèn này cho biết một cuộn dây trong hệ thống bị hỏng, và như thế, phải hoãn lại đến sáu giờ mới cất cánh được. Trong phòng đợi, thiếu tá Ruth nhìn lên màn hình và đọc thấy thông báo chuyến bay chậm vì lý do kỹ thuật, nàng chửi thầm rồi mở sách ra đọc.
McCready sắp rời khỏi phòng thì chuông điện thoại réo. Anh lưỡng lự, rồi quyết định nhấc. Biết đâu chả là những tin quan trọng. Edwards gọi.
“Sam, mấy cậu ở Giấy giả vừa nói với tôi. Nghe này, Sam, anh sẽ không bao giờ - tuyệt đối không - được phép của tôi đi Đông Đức đâu. Rõ chưa?”
“Tuyệt đối không, Timothy. Không gì rõ ràng hơn.”
“Tốt.” Ông trợ lý của sếp hạ phôn.
Gaunt nhận ra giọng nói vang lên từ phôn và nghe rõ nó nói gì. McCready bắt đầu thấy quý Gaunt. Anh ta mới về phòng sáu tháng nhưng đã tỏ ra thông minh, đáng tin cậy và biết giữ mồm giữ miệng.
Gaunt chọn lúc len lỏi qua dòng xe cộ dầy đặc chiều thứ sáu trên đường Heathrow để mở miệng.
“Sam, tôi biết anh đang ở thế kẹt, nhưng anh đã bị gạch sổ ở Đông Đức rồi. Và ông chủ đã cấm anh trở lại đó.”
“Cấm là một chuyện, còn ngăn lại là chuyện khác.”
Khi bước qua phòng đợi của ga số hai để lên chuyến Lufthansa đi Hanover, anh cũng chẳng hề nhìn một phụ nữ trẻ, gọn gàng, mái tóc vàng rực và cặp mắt xanh sắc sảo đang ngồi đọc sách cách anh vài bước chân. Và nàng cũng chẳng ngước nhìn người đàn ông tầm thước, lôi thôi, mái tóc nâu mỏng vừa bước qua.
Chuyến bay của McCready cất cánh đúng giờ và đến Hanover lúc tám giờ, giờ địa phương. Thiếu tá Ruth bay lúc sáu giờ, hạ cánh xuống Schonefeld, Berlin lúc chín giờ. McCready thuê ôtô và lái về mục tiêu của anh ở khu rừng ngoại ô Goslar. Ruth được xe đón song nàng lại phải chờ một giờ mới gặp được đại tá Voss đang bận họp kín với Bộ trưởng An ninh Erich Mielke.
McCready đã gọi điện cho chủ nhà từ London, giờ ông ta đón anh ngay ở cửa một ngôi nhà sang trọng, vốn là nhà đi săn đã được sửa sang đẹp đẽ, ngay trên sườn một quả đồi trông ra thung lũng mọc đầy tùng bách. Chỉ cách đó năm dặm, ánh đèn của Goslar nhấp nháy trong màn đêm. Anh vẫn còn nhớ, ở xa phía đông trên đỉnh núi Harz, có thể nhìn thấy một ngọn tháp cao. Nó dễ làm người ta nhầm với một tháp săn, nhưng, nó được dựng lên chỉ là để săn người.
Ông ta trông khác trước nhiều, McCready nghĩ khi theo vào phòng khách tường bằng ván ghép treo những đầu lợn rừng và sừng hươu. Ngọn lửa lách tách trong lò sưởi. Mới đầu tháng Chín mà đêm vùng núi cao đã lạnh.
Gã béo lên, thân hình một thời gọn gàng nay chảy xệ. Vẫn thấp lùn, dĩ nhiên, nhưng khuôn mặt tròn hồng hào với mái tóc trắng rậm, trông gã lại càng hiền lành hơn bao giờ hết. Chỉ khi nhìn vào cặp mắt gã thì mới thấy ý nghĩ đó sai lầm. Cặp mắt khôn ngoan, ranh mãnh của một người đã chứng kiến quá nhiều, đã từng dính líu với bao cái sống và cái chết, đã trải qua những ngày chui lủi nơi công rãnh... Một đứa con độc ác của chiến tranh lạnh, từng là vua thế giới ngầm Berlin.
Suốt hai mươi năm, từ khi xây Bức tường Berlin năm 1961 đến khi về nghỉ năm 1981, Andre Kurzlinger đã từng là một Grenzgänger, nghĩa đen là kẻ-đưa-người-vượt -biên. Chính Bức tường đã tạo cho gã cơ may ấy. Trước khi có Bức tường, người Đông Đức muốn trốn sang Tây Đức chỉ việc đến Đông Berlin rồi đi bộ mấy bước sang Tây Berlin, rất đơn giản. Nhưng từ đêm ấy, 21 tháng Tám, 1961 ấy, khi những khối bê tông đã được đặt vào vị trí, Berlin trở thành một thành phố bị chia cắt. Rất nhiều người muốn vượt tường, nhưng chỉ số ít thành công. Còn với Kurzlinger, cho đến lúc đó vẫn là một tên chạy chợ đen và găngxtơ, thì đó lại là một nghề nghiệp.
Gã đưa người vượt biên để kiếm tiền. Gã tự mình vượt sang hay gửi phái viên của mình sang thỏa thuận giá cả. Có người trả bằng Mark Đông Đức. Kurzlinger, với tiền đó, sẽ mua dăm ba loại hàng ở Đông Đức, loại rất có giá, như túi xách da Hungary hoặc xì gà Cuba chẳng hạn, rẻ đến nỗi chỉ cần mang sang phương Tây đã bộn tiền lãi.
Nhiều người bằng lòng trả Mark Tây Đức một khi họ đã tới được bên đó và kiếm được việc làm. Cũng có vài kẻ bội ước nhưng Kurzlinger rất kỹ tính trong việc đòi nợ. Gã thuê tay chân, nhằm đảm bảo cho mình khỏi bị lừa gạt.
Có tin đồn là gã làm việc cho tình báo phương Tây. Nhưng đó là đồn nhảm, mặc dù đôi khi gã có đưa người vượt biên theo hợp đồng với CIA hoặc SIS. Cũng có cả tiếng đồn gã cộng tác ngầm với SSD hoặc KGB; nhưng chắc không phải, bởi gã đã phá hoại Đông Đức không biết bao nhiêu mà kể. Chắc chắn là gã đã mua chuộc lính biên phòng và những quan chức cần thiết. Người ta nói gã ngửi thấy một viên chức tham nhũng cách xa hàng dặm.
Mặc dù đất làm ăn chính là Berlin, gã vẫn chạy các đường dây Đông - Tây khác, dọc theo vùng biên giới từ Baltic đến Czechoslovakia. Cuối cùng, khi giải nghệ với một món kha khá, gã chọn Tây Đức chứ không phải Tây Berlin. Nhưng gã vẫn không chịu rời vùng biên. Biệt thự của gã cách biên giới năm dặm, trên núi Harz.
“Ôi, Herr McCready, bạn Sam của tôi, lâu quá rồi.”
Kurzlinger nhấn chuông, một người hầu mang vào rượu vang nặng Mosel đựng trong các ly pha lê trong suốt.
“Thế,” Kurzlinger hỏi trong khi ngắm ngọn lửa qua màu rượu vang, “một lão già như tôi thì có thể làm gì cho kẻ bày tôi vĩ đại của Đức Nữ hoàng?”
McCready nói. Gã vẫn ngắm ngọn lửa song lắc đầu.
“Tôi thôi rồi, Sam. Nghỉ hẳn. Giờ thì bọn họ đã để tôi yên. Cả hai bên. Nhưng bạn biết đấy, họ đã cảnh cáo và tôi nghĩ chắc là họ cũng đã cảnh cáo cả bạn. Nếu tôi lại làm điều đó, bọn họ sẽ tìm tôi. Một cú chớp nhoáng vượt qua biên giới và trở về ngay trước khi trời sáng là họ sẽ tóm được tôi ở ngay nhà này. Họ đã nói thế rồi mà. Hồi trước, tôi đã phá họ biết bao nhiêu, bạn biết đấy.”
“Tôi biết chứ.” McCready đáp.
“Hơn nữa, mọi sự đã đổi thay. Trước kia, tại Berlin, tôi đã đưa bạn qua. Ngay ở vùng nông thôn tôi cũng có các lối riêng. Nhưng rồi họ cũng tìm ra tất. Và đóng cửa tất. Các loại mìn đã bị tôi cắt dây cũng thay sạch. Lính gác ăn tiền của tôi thì bị đổi đi. Bây giờ họ đổi xoành xoạch. Các quan hệ của tôi đều nguội lạnh cả rồi. Đã quá muộn.”
“Tôi phải qua,” McCready chậm rãi, “có người bạn kẹt bên đó. Anh ta ốm. Đưa được anh ta về đây thì tôi có thể làm xong đời Hank Voss, kẻ đang cầm đầu Abteilung II.
Kurzlinger không nhúc nhích, nhưng mắt bỗng lạnh băng. Nhiều năm trước, McCready biết, gã có người bạn thân. Rất thân, có lẽ là thân nhất đời gã. Người này bị bắn hạ lúc vượt qua Bức tường, theo lệnh Voss. Kurzlinger nói.
“Nào, ta đi ăn. Tôi sẽ giới thiệu anh với con trai tôi.”
Chàng trai tóc vàng khoảng ba mươi tuổi cùng ngồi ăn thực ra không phải con Kurzlinger, dĩ nhiên. Nhưng gã đã chính thức công nhận. Lúc lúc, ông già lại mỉm cười với con, và cậu con nuôi đều nhìn bố một cách tôn sùng.
“Tôi đưa Siegfried ra khỏi Đông Đức.” Kurzlinger nói, dường như định gợi chuyện. “Nó không còn chỗ nào mà đi, nên... giờ ở với tôi.”
McCready không đoán được chuyện gì sắp xảy ra.
“Bạn đã bao giờ nghe,” Kurzlinger nói khi đang ăn món nho, “về Arbeitsgruppe Grenzen!"
Sam biết. Nhóm hoạt động biên giới. Đó là đơn vị nhỏ của SSD nhưng ngang hàng với các Abteilungen, đánh số La Mã, có một nhiệm vụ rất lạ lùng.
Nói chung, nếu Marcus Wolf muốn đánh điệp viên sang phương Tây, ông ta thường đưa qua một nước trung lập, để chuẩn bị một lý lịch mới. Nhưng đôi khi SSD hoặc HVA lại đưa họ đi bằng cách vượt biên lậu". Khi đó, Đông Đức phải cắt một lối trong hàng rào của họ từ Đông sang Tây. Còn hầu hết các lối khác, được cắt từ Tây sang Đông để dành cho những kẻ không hề được giao nhiệm vụ sang Tây Đức. Khi SSD muốn mở một lối, nó phải huy động đến chuyên gia của Arbeitsgruppe Grenzen. Các kỹ sư này làm việc suốt đêm (vì phía Tây Đức cũng gác biên giới của mình) đào một rãnh bên dưới dây thép gai, mở một lối nhỏ qua bãi mìn và xóa dấu vết của họ gây ra.
Sau đó là một vùng đất trông rộng khoảng hai trăm mét, gọi là vùng truy quét. Cuối cùng, ở biên giới phía Tây cũng có một hàng rào. Arbeitsgruppe Grenzen để nguyên nó, chỉ cắt một lỗ cho điệp viên chui qua và sẽ vá lại ngay sau lưng anh ta. Đèn pha vào tối đó sẽ quét đi hướng khác, dải đất trống lại đầy cỏ rậm, đặc biệt vào cuối mùa hạ. Sáng hôm sau, cỏ sẽ lại tự đứng dậy, xóa hết dấu vết.
“Siegfried trước có làm việc cho ACG”, Kurzlinger nói, “cho đến khi nó sử dụng một trong những lối đó cho chính mình. Dĩ nhiên Stasi chặn lối đó rồi. Siegfried, ông bạn chúng ta đây cần phải vượt biên. Con giúp được không?”
McCready nghĩ mình đã tính đúng. Kurzlingcr hận Voss vì những gì ông ta đã làm, và sự thương xót người bạn đã khuất chẳng hề nguôi ngoai.
“Vẫn có một lối,” Siegfried nói sau hồi lâu im lặng, “do cháu tự làm, định sẽ sử dụng nó nên đã không báo cáo. Cái lần trốn đi, cháu dùng đường khác.”
“Chỗ đó ở đâu?’ McCready hỏi.
“Gần thôi, giữa Bad Sachsa và Ellrich.”
Anh ta lấy bản đồ, chỉ hai thị trấn nhỏ phía nam Harz, Bad Sachsa Tây Đức, còn Ellrich thuộc bên Đông.
“Bạn có thể cho xem loại giấy tờ định dùng không?’’ Kurzlinger hỏi. McCready chìa ra. Siegfried nghiên cứu kỹ lưỡng, đoạn nói “Được đấy!”
“Đi lúc nào tốt nhất?” McCready hỏi.
“Bốn giờ sáng, trước mặt trời mọc. Lúc đó trời sẽ tối nhất, còn lính gác đã mệt mỏi, sẽ quét bãi trống thưa hơn. Ta còn phải ngụy trang, phòng khi bị đèn pha quét phải.”
Họ bàn bạc chi tiết trong một giờ nữa.
“Herr McCready, chú phải hiểu,” Siegfried nói, “năm năm qua rồi. Cháu có thể không tìm ra, dù đã đánh dấu đường vượt bãi mìn bằng sợi dây câu trên mặt đất. Nếu không thấy, ta phải quay về. Đi vào bãi mìn mà không biết đường là chết. Hay biết đâu các đồng đội cũ chả tìm thấy và xóa nó đi rồi. Trong trường hợp ấy, ta sẽ quay về - nếu còn có thể về.”
“Chú hiểu.” McCready đáp. “Chú rất biết ơn cháu.”
Họ đi lúc một giờ sáng, vì lái xe trong đường núi sẽ chậm khoảng hai giờ. Kurzlinger đứng ở bậc cửa tiễn họ.
“Hãy trông nom thằng con tôi.” Gã nói. “Tôi làm thế này là vì một người Voss đã cướp khỏi tay tôi, ngày xưa.”
“Nếu qua được,” Siegfried nói trên xe, “chú đi sáu dặm nữa đến Nordhausa. Tránh xa làng Ellrich - ở đó có lính gác, và chó có thể sủa. Lên tàu Nordhausa di Erfurt, rồi lên xe bus đi Weimar. Nhiều người hàng ngày cũng đi làm như thế.”
Xe chạy qua thị trấn Bad Sachsa đang yên ngủ rồi đậu lại ở khu ngoại vi. Siegfried đứng trong bóng tối, với compa và bút sáng, rồi rảo bước vào rừng thông, cắt đường về phía Đông. McCready theo sát gót.
Bốn giờ trước đó, thiếu tá Ruth gặp đại tá Voss. “Theo lời bà chị hắn, có một chỗ hắn có thể trốn được trong vùng Weimar.” Nàng kể chuyện Bruno sơ tán hồi chiến tranh.
“Trang trại nào? Có hàng trăm trang trại ở vùng đó.”
‘‘Bà ta không biết tên, chỉ biết cách Weimar khoảng mười dặm. Báo động đi, thưa đại tá. Cho lính truy lùng. Trong ngày hôm nay đồng chí sẽ có hắn.’’
Đại tá Voss gọi cho Abteilung III, lực lượng an ninh và tình báo của quân đội, NVA. Chuông điện thoại réo lên ở trụ sở NVA-tại Karshorst và ngay trước lúc bình minh, đoàn xe đã xuất phát về hướng nam, thẳng tới Weimar.
“Vòng vây bên ngoài đã triển khai.” Voss nó; lúc nửa đêm. “Quân đội sẽ tỏa ra từ Weimar, càn quét từng ô vuông, khám xét tất cả các trang trại, nhà kho, chuồng gia súc, cho đến tận vòng vây cách đó mười dặm. Tôi hy vọng đồng chí đúng, thiếu tá Ruth. Giờ đã có quá nhiều người can dự vào vụ này.”
Mấy giờ sau, ông đến nơi đó bằng xe riêng, có Ruth đi cùng. Cuộc càn ấn định sẽ bắt đầu lúc bình minh.