Chương 2
Việc truyền đạt cho Rowse chiếm mất một tuần và do McCready tự làm. Không thấy ai hỏi han việc đưa Rowse về hoạt động cho Nhà Thế Kỷ chẳng đếm xỉa gì đến đường Curzon. McCready mượn một trong ba ngôi nhà yên tĩnh ở vùng quê cách London chưa đến một giờ xe chạy mà SIS dành riêng cho những mục đích kiểu này và mang những tài liệu huấn luyện cần thiết từ Nhà Thế Kỷ đến.
Có cả tài liệu bằng chữ và phim ảnh, đa số phim ảnh đều mờ, khó phân biệt, vì đã quay từ một khoảng cách quá xa hoặc một cái lỗ khoan ở thành xe hay giữa hai cành cây ở cách xa. Nhưng những bộ mặt thì khá rõ.
Rowse xem phim và nghe băng đám tang ở nghĩa địa Ballycrane cách đây một tuần. Anh nghiên cứu khuôn mặt của ông thày tu Ailen, người đã đóng vai tín xứ, và của cả tay ở Hội đồng Quân đội đứng bên cạnh. Nhưng khi những bức ảnh được xếp lại gần nhau thì cái nhìn của anh luôn luôn bị hút về khuôn mặt lạnh lùng, có những nét khả ái của Kevin Mahoney.
Bôn nảm trước, Rowse đã suýt giết được tay súng IRA này. Mahoney lúc đó đang chạy trốn và một chiến dịch truy tìm hắn đã chiếm mất mấy tuần làm việc kiên nhẫn và bí mật. Cuối cùng, bị đánh động bởi một thông tin giả, hắn đã mạo hiểm vào Bắc Ailen từ nơi ẩn nấu của hắn ở gần Dundalk tại miền Nam, do một tên IRA lái xe đưa đi. Rowse bám sát, ngay đằng sau, vừa đi vừa nghe những chỉ dẫn qua radio của những người quan sát dọc đường, và từ trên không trung. Khi biết Mahoney dừng lại đổ xăng, anh quyết định tiếp cận.
Vào đúng lúc xe anh vào tới sân trạm xăng, tên lái xe IRA đã đổ đầy bình và quay trở ra xe. Chẳng thấy ai đi cùng hắn. Trong một khoảnh khắc, Rowse nghĩ là mình đã vuột mất con mồi. Anh bảo người cùng đi canh chừng tên lái xe, và bước ra. Chính vào lúc anh đang bận bịu với cái bơm xăng thì cánh cửa phòng vệ sinh mở và Mahoney xuất hiện.
Rowse đeo khẩu Browning 13 phát do SAS cấp ở bên hông, phía sau, lấp dưới áo vét vải len thô màu xanh. Một mũ len xù xì che gần hết khuôn mặt và mấy ngày liền râu không cạo đã làm anh lạ hoắc. Trông anh giống một công nhân Ailen, đó là cái vỏ của anh.
Khi Mahoney bước tới, Rowse nép mình vào một góc cột xăng, rút súng, hai tay nắm chặt báng, chĩa vào mục tiêu hô, “Mahoney, đứng im!”
Rowse vừa rút súng, Mahoney đã chạm được tay vào súng của hắn. Theo luật, Rowse có thể bắn hạ hắn ngay lúc đó. Sau này anh cứ tiếc mãi. Nhưng lúc đó anh lại hô tiếp, “Buông súng, nếu không tôi bắn!”
Mahoney đã nắm được báng súng nhưng chưa kịp nâng lên. Hắn nhìn người đứng khuất sau cây xăng, nhìn khẩu Browning, hiểu rằng hắn không thắng được. Hắn buông rơi khẩu Colt.
Đúng lúc đó, hai bà già đi chiếc Volkswagen tạt xe vào tường ngăn bê tông của trạm xăng. Họ không hề biết chuyện gì đang xảy ra nên cứ lái xe vào giữa Rowse bên cạnh cây xăng và Mahoney bên cạnh bức tường. Thế là quá đủ cho tên khủng bố. Hắn thụp xuống, lăn tròn như một quả bóng, vồ lấy súng. Tên đồng bọn định phi xe đến cứu nhưng người bảo vệ của Rowse đã đứng sát cạnh xe, chĩa khẩu súng qua cửa vào thái dương hắn.
Rowse không bắn được vì vướng hai bà già, họ đã tắt máy và cứ ngồi trong xe mà kêu gào. Mahoney chạy ra khỏi chiếc Volkswagen, lẩn sau một xe tải đang đỗ và chạy ra đường. Vào lúc Rowse tới được xe tải, Mahoney đã ở giữa xa lộ.
Ngay lúc đó, một chiếc Morris Minor chạy tới. Người lái xe đã có tuổi vội đạp phanh để tránh đâm vào người đang chạy. Mahoney giữ cho chiếc Morris ở giữa hắn và Rowse, lôi ông già ra khỏi xe, quật xuống đường bằng khẩu Colt, rồi nhảy lên xe, biến mất.
Còn một người nữa trong chiếc Morris. Ông già đang chở đứa cháu gái đi xem xiếc. Rowse, lúc chạy ra đường đã thấy cánh cửa sau mở tung và đứa trẻ bị ném ra ngoài, nghe tiếng kêu yếu ớt của nó, nhìn cái thân hình bé nhỏ rơi xuống đường rồi bị chiếc xe chạy sau chồm lên..
“Phải,” McCready mềm mại nói. “Chúng ta biết là chính hắn, mặc dù có đến mười tám nhân chứng nói rằng hắn, vào thời điểm đó đang trong quán bar ở Dundalk.”
“Tôi đã viết thư cho mẹ con bé.” Rowse nói.
“Hội đồng Quân đội cũng viết,” Sam nói. “Chúng bảo rất tiếc. Đó là do con bé bị ngã.”
“Con bé bị ném ra. Tôi thấy cánh tay hắn mà. Có thực hắn sẽ chịu trách nhiệm vụ chục tấn vũ khí này không?”
“Chúng tôi nghĩ vậy. Chưa rõ việc chuyển giao sẽ thực hiện trên biển, trên đất liền hay trên không, hoặc hắn sẽ thò mặt ra ở đâu. Nhưng chúng tôi nghĩ hắn chỉ huy chiến dịch. Anh nghe băng rồi đấy.”
McCready truyền đạt nội dung câu chuyện vỏ bọc của Rowse. Anh ta sẽ có hai, chứ không phải một. Chuyện thứ nhất sẽ vừa đủ rõ ràng, dễ hiểu. Nếu may mắn, những kẻ đi xác minh nó sẽ nhận ra sự dối trá và từ đó phăng ra câu chuyện thứ hai. Nếu may mắn (lại nếu), chúng sẽ thỏa mãn với câu chuyện thứ hai.
“Tôi sẽ bắt đầu từ đâu?’ Rowse hỏi khi gần kết thúc.
“Thế anh muốn bắt đầu từ đâu?” McCready hỏi.
“Bất kỳ ai tìm đường giao lưu quốc tế cho công việc sắp tới của hắn sẽ sớm thấy có hai căn cứ ở châu Âu cho loại giao lưu kiểu ấy, là Antwert và Hamburg.” Rowse nói.
“Đúng. Anh có cơ sở nào ở hai thành phố ấy không?”
“Tôi biết một người ở Hamburg, gã rất nguy hiểm, điên khùng, nhưng gã có những liên lạc trong thế giới ngầm quốc tế.”
“Tên gã?’ '
“Kleist. Ulrich Kleist.”
“ Lạy Chúa! Anh biết cả những tên chó đẻ đó, Tom?”
“Tôi một lần cứu mạng gã. Ở Mogadishu. Khi đó gã chưa điên. Sau này cơ, khi một tên nào đó đã khiến con trai gã nghiện ma túy. Thằng bé chết rồi.”
“A, được đấy, điều đó có thể có tác động. Được rồi, vậy thì Hamburg. Tôi sẽ luôn ở bên anh. Anh sẽ không thấy tôi đâu, và những tên lưu manh kia cũng thế. Nhưng tôi sẽ ở đó, đâu đó cạnh anh. Nếu mọi chuyện thiu thối ra, tôi sẽ xuất hiện ngay với hai cựu đồng đội của anh ở trung đoàn SAS, và chúng tôi sẽ nhào tới ngay nếu mọi sự trở nên khó chịu.”
Rowse gật đầu. Anh biết đó là nói dối, nhưng đó lại là một lời nói dối dễ chịu. McCready sẽ cần bổ sung thường xuyên để lỡ Rowse có đột ngột đi khỏi hành tinh này thì SIS sẽ biết anh đi xa tới đâu. Bởi Rowse có một bản lĩnh mà tất cả các điệp viên bậc thầy đều phải có: hoàn toàn không bị ràng buộc vào quy tắc.
Rowse đến Hamburg vào giữa tháng Năm. Anh đi lặng lẽ, và chỉ một mình, biết rằng McCready và hai người giữ trẻ đã đi trước. Anh không nhìn thấy họ, và cũng chẳng cố nhìn. Có lẽ anh biết hai người SAS đi cùng với McCready, song không biết tên. Cái đó chẳng quan trọng, họ biết anh, và việc của họ là ở sát bên anh, nhưng vô hình. Đó là nghề của họ. Hẳn cả hai đều nói thạo tiếng Đức. Họ chắc sẽ có mặt ở cảng Hamburg, ở trên phố, ở bên cạnh khách sạn anh ở, quan sát và báo lại cho McCready ở đâu đó đằng sau.
Rowse tránh những khách sạn sang trọng, chọn kiểu chỗ nghỉ khiêm nhường, song phải gần ga xe lửa. Anh cũng chỉ thuê một xe hơi nhỏ, tiêu pha chi li, phù hợp với ngân sách nhỏ bé của một tiểu thuyết gia mới có chút thành công, và đang gắng sức tìm tư liệu cho cuốn sách tiếp theo của mình. Sau hai ngày, anh tìm được Ulrich Kleist, đang làm nghề lái xe nâng ở cảng.
Người Đức to lớn tụt xuống khi nghe gọi. Trong một giây đầu, Kleist tính lùi ra chuẩn bị tự vệ, rồi mới nhận ra Rowse. Bộ mặt rằn ri của gã toác ra thành nụ cười.
“Tom! Tom, thằng bạn cũ của tao.”
Rowse bị ôm chặt trong cánh tay gấu. Khi được buông ra, anh lùi lại và nhìn người cựu binh Lực lượng Đặc biệt mà anh gặp lần đầu tiên ở phi cảng Somalia nóng như nung năm 1977, và lần cuối cùng cách đây bốn năm. Rowse khi đó hai mươi bốn tuổi, còn Kleist hơn anh sáu tuổi. Nhưng trông gã già như ngoài bốn mươi, già lắm.
Ngày 13 tháng Mười, 1977, bốn tên khủng bố đã cướp máy bay của hãng Lufthansa từ Mallorca đi Frankfurt, chở tám mươi sáu hành khách và đội bay năm người. Dưới sự theo dõi gắt gao của các nhà đương cục, chiếc máy bay bị bắt cóc đã hạ cánh an toàn ở Rome, Lanarca, Bahrain, Dubai và Aden trước khi bay đến điểm cuối cùng khi gần hết nhiên liệu, ở Mogadishu, thủ đô Somalia.
Ở đây, vài phút sau nửa đêm 17 tháng Mười, chiếc máy bay đã bị tấn công bởi lực lượng đặc biệt Tây Đức, GSG9, lấy mô hình tổ chức và được huấn luyện theo SAS của Anh. Đó là lần đầu tiên xuất ngoại của đội quân chống khủng bố của đại tá Ulrich Wegener. Họ đã rất giỏi, thực sự giỏi nhưng vẫn phải có hai trung sĩ SAS đi cùng. Một là Tom Rowse -từ trước khi anh được phong hàm sĩ quan.
Có hai lý do cho việc hiện diện của người Anh. Một là họ rất giỏi phá các cửa máy bay bị đóng kín, chỉ trong chớp mắt; hai là họ biết cách sử dụng các quả lựu đạn gây choáng do Anh sản xuất.
Lựu đạn này được sản xuất với ba tính năng để làm tê liệt tên khủng bố trong hai giây sống còn. Một là ánh sáng làm mù ngay những cặp mắt trần; hai là sóng nổ gây ra mất định hướng; ba là tiếng nổ làm choáng óc với những tràng sấm trong tai và làm tê liệt mọi phản ứng.
Sau vụ giải phóng chiếc Lufthansa bị bắt cóc, thủ tướng Helmut Schmidt đã nêu tên các chiến sĩ và thưởng huân chương cho tất cả, nhân danh lòng biết ơn của dân tộc. Hai chiến sĩ Anh thì phải biến ngay, trước khi các nhà chính trị và báo chí xuất hiện. Mặc dù hai trung sĩ SAS có mặt ở đó chỉ với tư cách cố vấn kỹ thuật (Chính phủ Công đảng Anh rất cứng rắn về chuyện này), cái điều thực sự xảy ra là, lính Anh đã leo lên thang trước khi phá cửa ngách. Họ đã lên máy bay ở phía sau và phía đuôi để tránh bọn khủng bố phát hiện.
Vì không thể thay đổi vị trí khi đứng trên đỉnh thang nhôm trong bóng tối dầy đặc, người của SAS đã chui qua lỗ mở trước những người Đức và ném lựu đạn gây choáng. Rồi họ tránh sang bên cho đội GSG9 chạy qua và kết thúc trận đánh. Hai người Đức đầu tiên, một là Uli Kleist, nhảy vào lối đi giữa và nằm sát xuống như đã được chỉ dẫn, súng chĩa vào nơi có thể có bọn khủng bố.
Đúng lúc đó, ở khoang trước máy bay, tỉnh lại sau tiếng nổ, Zohair Yussef Akache, tức đại úy Mahmoud, người giết chỉ huy đội bay Lufthansa, Jurgen Schuman, đã đứng dậy được, với súng trên tay. Bên cạnh hắn, một trong hai phụ nữ, Nadia Hind Alameh, cũng đã lồm cồm bò dậy, tay cầm lựu đạn, ngón tay kia đã lồng vào chốt. Uli Kleist khựng lại vì bất ngờ, và Rowse phải lao vào từ nhà vệ sinh, cứu giúp. Sau đó, GSG9 hoàn tất công việc, thổi bay Nagi Ibrahim Harb, tên không tặc thứ hai, bắn bị thương nữ tặc cuối cùng, Sukeila Saleh. Tám giây tất cả.
Mười năm sau, Uli Kleist đang dứng dưới mặt trời của vùng biển Hamburg và cười với người đàn ông trẻ tuổi, mảnh mai, người đã từng bắn hai phát qua đầu gã ta trong cái khoang máy bay chật hẹp nhiều năm về trước.
“Cái gì đưa mày đến Hamburg, Tom?”
“Để ăn tối với mày, rồi tao sẽ nói.”
Họ cùng ưa món ăn Hungary rất nhiều gia vị ở một Csarda trên dãy phố đằng sau Sankt Pauli, cách xa hẳn những quán đèn đuốc rực rỡ và cao giá ở Reeperbahn và vét nhẵn đồ ăn cùng rượu Bull’s. Rowse nói. Kleist nghe.
“Ja, nghe hay đấy”, cuối cùng gã bảo, “Tao chưa đọc sách của mày. Đã dịch sang tiếng Đức chưa?”
“Chưa! Đại lý của tao hy vọng ký được một hợp đồng với Đức. Sẽ rất tốt. Đức là một thị trường lớn.”
“Thế là có thể sống với nghề viết sách trinh thám?”
Rowse nhún vai. “Tạm đủ tiền thuê nhà.”
“Và cái quyển mới này, quyển về bọn khủng bố và buôn vũ khí, với Nhà Trắng nữa, mày đặt tên chưa?”
“Chưa.”
Người Đức nghĩ ngợi. “Tao sẽ cố tìm tin tức cho mày, nhưng chỉ để nghiên cứu thôi nhé.” Gã cười to và gõ gõ vào mũi, “Cho tao hai mươi bốn giờ để nói chuyện với bạn bè xem chúng có biết kiếm ở đâu những thứ đó cho mày. Vậy là từ ngày rời quân đội, mày vẫn ổn. Còn tao - không ra gì.”
“Tao có nghe về chuyện của mày”, Rowse nói.
“Hai năm trong ngục Hamburg. Thật ngon ơ. Ra sớm hai năm, và tao có thể xoay xở kiếm ăn ở chỗ này.”
Kleist ly dị vợ khi đã có một con trai. Nó mới chỉ mười sáu khi bị một kẻ làm cho nghiện cocain, rồi crach. Cậu bé chết vì dùng quá liều. Cơn điên giận làm Uli Kleist mất khôn. Gã tìm ra tên bán ma túy người Colombia, và thằng người Đức giao món hàng bán lẻ đã giết chết con gã, và bắn nát đầu cả hai. Khi cảnh sát đến, Kleist không hề chống trả. Một ông tòa theo trường phái cũ cũng chia sẻ quan điểm của gã về những tên lưu thông ma túy đã chấp
nhận lời biện hộ là gã ở tình trạng quá kích động; và cho gã cái án bốn năm. Kleist ở hai năm và mới ra tù sáu tháng trước.
Họ chia tay lúc nửa đêm và Rowse đón taxi về. Có một người cưỡi môtô bám theo suốt đường. Người này hai lần nói gì vào phôn cầm tay. Khi Rowse trả tiền taxi, McCready hiện ra trong bóng tối.
“Anh không có đuôi đâu, đúng ra là chưa có. Thích làm một ly trước khi ngủ không?”
Họ uống bia trong một quán mở cả đêm gần nhà ga. Rowse kể mọi chuyện.
“Hắn nghĩ chuyện anh đi tìm tư liệu để viết sách là chuyện nhảm?” McCready hỏi.
“Hắn ngờ thế.”
“Tốt, mong rồi chính hắn sẽ làm câu chuyện chuyển hướng. Không biết có nên để anh chủ động tìm bọn đốn mạt kia không, hay là hy vọng chúng sẽ tìm đến anh.”
Rowse nhận xét về cái cảm giác giống như miếng pho mát trong cái bẫy chuột, rồi tụt khỏi ghế ở quầy, đi ra.
“Trong một bẫy chuột hoàn hảo”, McCready nói khi theo Rowse ra, “miếng pho mát phải không bị động đến.”
“Tôi biết thế, và anh cũng biết thế, nhưng hãy để dành điều đó mà tâm sự với miếng pho mát,” Rowse nói.
Rowse gặp Kleist tối hôm sau. Người Đức lắc đầu.
“Tao hỏi hết rồi”, gã nói, “những cái mày cần đều quá tầm ở Hamburg này. Loại vật liệu đó được làm ở các nhà máy và các phòng thí nghiệm do nhà nước sở hữu Không có chợ đen. Nhưng có một thằng, hoặc là một tin đồn.”
“Ở Hamburg đây?”
“Không, Vienna. Tùy viên quân sự Đức ở đó là một gã thiếu tá Karl nào đó. Mày biết đấy, Vienna là đầu ra chủ yếu của nhà máy Omnipol. Khối lượng xuất khẩu chính của bọn nó được phép tính vào tài khoản riêng, nhưng có vài mặt hàng và một số khách hàng phải thanh toán ở Berlin. Viên đại diện cho phép những việc đó là Karl.”
“Làm sao mà nhờ hắn được?’
“Người ta nói hắn rất thích gái, nhất là loại gái cao cấp. Vì thế, hắn cũng nhận quà - tiền mặt, trong phong bì. Mà này”, Kleist bỗng hỏi, “trong cái... tiểu thuyết của mày... có dính líu gì đến IRA không đây?”
“Sao mày hỏi vậy?” Rowse chưa nói gì về IRA với gã.
Kleist nhún vai. “Chúng có mặt ở đây, đóng tại một bar, liên lạc với các nhóm khủng bố khác trong cộng đồng quốc tế, và mua vũ khí. Mày muốn gặp chúng không?”
“Trời ơi, tại sao chứ?”
Kleist cười, có phần quá to. “Có khi vui đấy’’, gã nói.
“Bọn khủng bố đó có biết mày đã từng thổi bay bốn tên của chúng không?” Rowse hỏi.
“Có lẽ. Trong cái thế giới của bọn tao thì ai cũng biết ai hết. Đặc biệt là biết kẻ thù. Nhưng tao vẫn uống ở bar của tụi nó.”
“Tại sao?”
“Cho vui. Kéo đuôi cọp một phát.”
Mày điên thực sự rồi, Rowse nghĩ.
“Tôi nghĩ anh nên đi”, McCready nói tối hôm ấy. “Anh có thể sẽ thấy cái gì đó, nghe cái gì đó. Hoặc chúng có thể thấy anh và ngạc nhiên, tại sao anh lại ở đây. Nếu tìm hiểu chúng sẽ bắt đầu từ câu chuyện tìm tư liệu viết sách. Chúng không dễ tin, và sẽ suy diễn là anh thực sự muốn mua vũ khí để dùng ở Mỹ. Tin đồn sẽ loang ra.
Chúng ta muốn nó được loang ra. Chỉ uống chút bia và giữ mặt lạnh. Rồi tránh xa cái thằng Đức khùng đó.”
McCready thấy không cần phải nói rằng anh đã biết cái bar đó. Nó tên là Mausehohle, tức hang chuột và có tiếng đồn dai dẳng là một nhân viên bí mật của Đức, hoạt động cho Anh, bị lột mặt rồi bị bắn chết ở một phòng trên gác, một năm về trước. Chắc chắn anh ta đã biến không chút tăm hơi. Nhưng không có đủ bằng chứng để cảnh sát Đức khám xét quán, và phản gián Đức lại thích để bọn khủng bố đâu cứ ở đấy. Xóa sổ trụ sở chỉ tổ làm chúng có cớ thành lập ở chỗ khác mà thôi. Cứ thế, tin đồn dai dẳng.
Tối hôm sau, Uli Kleist gọi taxi chở họ đến Hang chuột. Gã dừng lại trước cánh cửa gỗ có đóng đinh, kéo cái chuông cửa đặt kín đáo một bên, và khung cửa nhỏ có lưới sắt hé ra. Một con mắt nhìn gã dò xét, rồi có tiếng thì thầm bên trong, và cửa mở. Gác cửa, và gã mặc Xmôckinh (smoking) đứng cạnh, đều người Arab.
“Chào, Mr. Abdallah”, Kleist chào vui vẻ bằng tiếng Đức. “Tớ khát, tớ muốn uống.”
Abdallah liếc sang phía Rowse.
“Ồ, hắn tôt, hắn là bạn”, Kleist nói. Người Arab gật đầu với tên gác, tên này mở rộng thêm cửa để họ lọt vào. Kleist đã to lớn, nhưng tên gác coi bộ còn nặng cân hơn, đầu cạo trọc, và không thể coi thường. Nhiều năm trước, ở trong các trại ở Lebanon hắn là một đầu gấu chuyên nghiệp. Theo một nghĩa nào đó, giờ hắn vẫn vậy.
Abdallah dẫn họ vào một cái bàn, búng ngón tay gọi bồi và ra lệnh bằng tiếng Arab cho chúng chăm sóc kỹ lưỡng những người khách này. Hai cô gái bán bar ngực to bự, đều là người Đức, đến ngồi cạnh họ. Kleist nhăn nhở.
“Tao bảo mày rồi. Không có chuyện gì đâu.”
Họ ngồi đó uống. Chốc chốc, Kleist lại nhảy với một trong hai cô gái. Rowse nghịch ly rượu và quan sát căn phòng. Mặc dù cái đường phố nhếch nhác mà nó tọa lạc, hang chuột được trang trí khá vui mắt, có nhạc sống, đồ uống không bị pha thêm nước. Thậm chí bọn con gái cũng xinh, khêu gợi, và ăn mặc khá đẹp. Vài khách Arab như từ nước ngoài đến, còn lại là Đức, xem ra đều làm ăn phát đạt và đến đây chỉ để giải trí. Rowse cũng mặc đồ lớn, chỉ Kleist vẫn mặc chiếc áo khoác da màu nâu của phi công, với cái sơ mi hở cổ. Giá gã không là khách quen, với cái thanh danh ai cũng biết, thì ăn mặc vậy, Mr. Abdallah chắc sẽ tống ra ngay.
Ngoài tên gác công đáng gờm, Rowse chẳng thấy dấu hiệu gì cho biết đây là nơi lui tới của những kẻ khủng bố hoặc tội phạm gì đó... Đa số uống sâmpanh. Kleist gọi bia.
Phía trên quầy rượu có tấm gương lớn choán cả khu vực khách ngồi. Gương một chiều; sau nó là văn phòng của chủ quán. Có hai người ngồi đó, nhìn xuống.
“Người của anh là thằng nào?” Một người hỏi nhẹ với giọng uốn lưỡi khó nghe của dân Belfast.
“Người Đức, tên Kleist. Thỉnh thoảng đến. Trước từng ở GSG9. Thế thôi! Ngoài cuộc. Bị án hai năm giết người.”
“Không phải nó”, người thứ nhất bảo, “thằng kia cơ, đi với nó ấy. Thằng Ănglê.”
“Chẳng hiểu, Seamus ạ. Nó vừa vào thôi.”
“Tìm xem. Tao nghĩ đã gặp nó ở đâu rồi.”
Cả hai bước vào khi Rowse còn trong toilet, đang rửa tay. Tên to con bước tới chậu tiểu, kéo khóa quần. Thằng nhỏ hơn, một thằng Ailen trông khá dễ coi thì đứng chặn ở cửa. Nó chuồi cái nêm gỗ khỏi túi áo khoác, thả rơi xuống sàn và dùng cạnh bàn chân gạt vào dưới cánh của. Như thế sẽ chẳng còn ai quấy rối được.
Rowse nhìn thấy hết qua gương, nhưng giả vờ không biết gì. Khi tên to con bước tới, anh đã sẵn sàng, và xoay người chúi xuống tránh quả đấm đầu tiên nhằm vào mặt rồi đá mạnh mũi giầy vào phần gân rất nhạy cảm ở ngay dưới đầu gối bên trái hắn. Hắn khựng lại và rống lên vì đau đớn. Chân trái khuỵu xuống làm hắn cúi gập người, đầu vừa tầm thắt lưng. Rowse đưa mạnh đầu gối lên đón cái cằm hắn. Có tiếng răng gẫy lạo rạo và một vòi máu phun ra từ cái miệng bể vỡ của hắn. Anh cũng cảm thấy đau dội lên bắp đùi từ cái đầu gối bầm giập. Trận đánh kết thúc ở đòn thứ ba của anh – bốn khớp ngón tay cứng như thép móc vào cổ họng hắn. Rồi anh nhìn tên kia.
“Bình tĩnh nào, anh bạn,” gã tên Seamus nói. “Nó chỉ muốn nói chuyện với cậu thôi mà.”
Gã có nụ cười rộng mở, ngọt ngào, chắc làm xiêu lòng không ít con gái. Nhưng cặp mắt vẫn lạnh tanh, đề phòng.
“Qu’est-ce que se passe?” ( Chuyện gì xảy ra vậy?) Rowse hỏi. Khi vào các hộp đêm, bao giờ anh cũng đóng vai khách Thụy Sĩ đi du lịch.
“Bỏ đi, Mr. Rowse”, Seamus nói. "Thứ nhất là khắp người cậu bốc mùi Ănglê. Thứ hai là ảnh cậu in to tướng ở bìa sau quyển truyện của cậu, mà tớ thích đọc nó lắm đấy. Còn thứ ba cậu là dân SAS ở Belfast mấy năm trước. Bây giờ tớ mới nhớ là đã gặp cậu ở đâu.”
“Vậy thì sao?” Rowse nói. “Tớ đã ra, ra hẳn. Tớ viết sách kiến sống. Thế thôi.”
Seamus O’Keefe ngẫm nghĩ. “Có thể, nếu bọn Ănglê gửi điệp viên ngầm đến quán này thì chắc không thể là một tên đã có ảnh ở bìa sách. Hay là... biết đâu đấy?”
“Ừ, biết đâu đấy, nhưng không là tớ. Tớ đâu còn làm cho bọn nó. Chia tay nhau, mỗi bên một đường rồi.”
“Tớ cũng nghe vậy. Vậy thì, người của SAS, hãy uống một chầu. Một chầu bét nhè. Vì ngày xưa của chúng ta.”
Nó đá cái nêm gỗ và giữ cho cửa mở. Trên sàn, tên to con đang cố gượng dậy bằng tay và đầu gối. Rowse bước ra. O’Keefe dừng lại thì thầm gì đó vào tai thằng kia.
Trong bar, Uli Kleist vẫn đang uống. Mấy đứa con gái đã bỏ đi. Tên quản lý và tên gác cổng khủng khiếp đứng ngay bên gã. Khi Rowse đi qua, gã nhướn mày ra ý hỏi. Nếu Rowse yêu cầu, gã xông đến ngay, cho dù lực lượng hai bên cực kỳ chênh lệch.
Rowse lắc đầu. “Không sao đâu, Uli. Cứ về trước đi.”
O’Keefe đưa Rowse về phòng hắn, bày rượu ra.
“Kể tớ nghe chuyện tìm tư liệu đi, người của SAS.”
Rowse biết còn có hai tên ngoài hành lang, trong tầm gọi. Cũng chẳng cần quậy phá gì nữa. Anh kể O’Keefe nghe toát yếu nội dung cuốn tiểu thuyết sắp tới của mình.
“Không viết về bọn trai ở Belfast nữa à?” O’Keefe hỏi.
“Không nên dùng một đề tài hai lần”, Rowse đáp. “Nhà xuất bản sẽ từ chối. Cuốn này viết về Mỹ.”
Họ chuyện trò, và uống. Rowse vốn chịu được rượu vậy mà cũng ngầy ngật. O’Keefe để anh đi vào lúc rạng sáng. Anh tản bộ về chỗ nghỉ cho hả bớt rượu.
Những tên khác làm việc với Kleist, trong cái nhà kho bỏ không mà chúng đưa gã đến. Tên gác cổng khổng lồ đè gã xuống còn tên Palestin thì dùng đồ nghề của hắn.
Uli Kleist cực kỳ rắn mặt, nhưng bọn khủng bố lại đã học được nghề tra tấn ở Nam Beiruth, và đến rạng ngày thì Kleist đành phải khai. Chúng cho gã chết lúc bình minh. Đó là một sự giải thoát sung sướng đối với gã.
Trong lúc đó, tên Alien to lớn đứng trong phòng vệ sinh nghe ngóng, chốc lại day day cặp môi dập nát. Lệnh của O’Keefe là phải tìm hiểu xem tên người Đức biết gì về sự có mặt của Rowse ở Hamburg. Khi nghe hắn báo cáo lại tên trưởng trạm IRA gật đầu.
“Tao nghĩ là còn cái gì khác hơn cuốn tiểu thuyết đấy,” hắn nói. Sau đó hắn gửi bức điện cho một người ở Vienna, được viết với những lời lẽ chọn lọc cẩn thận.
Khi Rowse rời căn phòng của O’Keefe và về, một trong những người giữ trẻ lặng lẽ đi theo. Người kia vẫn canh chừng cái nhà kho bỏ hoang, nhưng không can thiệp.
Vào giờ ăn trưa, Rowse mua một khúc brátwurst và phết đầy thứ mù tạc Đức ngòn ngọt ở một quán góc phố chuyên bán đồ ăn nhanh và nhẹ cho những người đang vội. Vừa ăn anh vừa nói chuyện với người bên cạnh.
“Anh có nghĩ O’Keefe tin anh không?” McCready hỏi.
“Có thể, vì đó là một giải thích đủ hợp lý. Cả nhà văn trinh thám, sau hết, vẫn phải khảo sát những điều quái gở ở những chỗ quái gở. Nhưng cũng có thể hắn vẫn ngờ. Hắn đâu ngốc.”
“Thế anh có nghĩ Kleist tin anh không?”
Rowse cười. “Không, không phải là Uli. Hắn chỉ nghĩ tôi là tên lính đánh thuê bội giáo đang tìm mua vũ khí cho một khách hàng. Hắn đã rất lịch sự để không nói toạc ra.”
“Thế à? Này, tối qua có lẽ đã rất thành công đấy. Anh đã gợi được sự chú ý nhất định. Để xem Vienna có định lôi anh đi xa hơn không. Dù sao, anh cũng đã đăng ký chuyến bay sáng mai rồi. Trả bằng tiền mặt, ở sân bay.”
Chuyến bay Vienna ghé qua Frankfurt cất cánh đúng giờ. Rowse ngồi ở hạng business. Sau khi cất cánh, cô tiếp viên mang báo tới cho khách. Vì đó là chuyến bay nội địa, nên không có báo tiếng Anh. Rowse cũng có ngắc ngứ được tiếng Đức và cố đánh vần những tít báo. Nhưng cái tít chiếm gần hết nửa dưới của trang nhất tờ Morgenpost thì không cần phải đánh vần.
Bộ mặt trong ảnh có cặp mắt nhắm nghiền, nằm trên đám rác rưởi. Bài báo có cái tít
TÌM THẤY XÁC CỦA KẺ ĐÃ ĐÂM CHẾT CÁC TRÙM MA TÚY
cho hay hai người nhặt rác đã tìm thấy một xác người nằm gần hố rác ở bến tàu. Cảnh sát cho đây là vụ trả thù của các băng nhóm.
Song Rowse biết rõ. Anh ngờ rằng, nếu có sự can thiệp của hai Người giữ trẻ SAS thì biết đâu bạn anh vẫn sống. Anh vùng dậy, bước trên tấm thảm dẫn đến nhà vệ sinh của khoang vé thường. Đến cuối máy bay, anh thả tờ báo xuống đùi một người coi bộ đầu bù tóc rối đang đọc tờ tạp chí phát trên máy bay.
“Chúng mày là đồ chó đẻ,” anh rít lên.
Rowse hơi ngạc nhiên khi thiếu tá Karl trả lời ngay cú gọi đầu tiên của anh. Và nhận ngay lời mời dùng cơm tối ở quán Sacher.
Karl trông chẳng hề giống một biếm họa về người Đức. Y mượt mà, chải chuốt, râu cạo nhẵn và ăn mặc rất đẹp, và là khách quen của một nhà hàng nổi tiếng. Viên quản lý dẫn họ đến một bàn ở góc xa dàn nhạc và tiếng ồn của thực khách khác. Họ gọi Schnitzel với rượu vang đỏ áo, loại nhẹ và nguyên chất.
Rowse giải thích nhu cầu của mình, về những chất liệu cho cuốn tiểu thuyết sắp tới.
Karl lịch sự lắng nghe. “Cái bọn khủng bố Mỹ đó...” Y nói khi Rowse trình bày xong.
“Bọn khủng bố hư cấu thôi”, Rowse nói.
“Dĩ nhiên. Cái bọn khủng bố Mỹ hư cấu đó, chúng muốn tìm những gì?”
Rowse đưa cho y một tờ đánh máy lấy ra từ túi ngực. Karl đọc, nhướn mày, rồi đưa trả.
“Không thể, ông tìm nhầm người rồi. Tại sao ông lại tìm đến tôi?”
“Một người bạn ở Hamburg nói ông cực kỳ thạo tin về chuyện này.”
“Cho phép tôi được đặt vấn đề ngược lại nhé: tại sao lại phải đi gặp một ai đó? Tại sao không tự bịa ra? Xét cho cùng thì đó cũng chỉ là tiểu thuyết thôi mà.”
“Đó là tính xác thực của câu chuyện.” Rowse đáp. “Các nhà văn hiện đại không cho phép mọi chuyện quá sai lệch với thực tế. Có quá nhiều độc giả ngày nay không bị đánh lừa bởi những trò đánh lừa trẻ con trong truyện.”
“Tôi e ông vẫn nhầm chỗ đó, Mr. Rowse. Danh mục này bao gồm nhiều thứ không nằm trong chủng loại vũ khí thông thường - cặp tài liệu có mìn, rồi mìn Claymore - những thứ này đơn giản là không có ở đây. Tại sao không sử dụng những vũ khí đơn giản hơn trong... tiểu thuyết của ông?”
“Bởi vì bọn khủng bố?’
“Bọn khủng bố hư cấu.” Karl nói lúng búng.
“Dĩ nhiên, bọn khủng bố hư cấu, là điều tôi gán cho chúng trong cuốn sách... muốn gây ra một chuyện nhục nhã có dính líu tới cả Nhà Trắng. Chỉ những khẩu súng tìm được trong cửa hàng bán vũ khí ở Texas thì chưa đủ.”
“Tôi không giúp ông được.” Người Đức nói và lau miệng. “Vũ khí kiểu như Claymore trong bất kỳ trường hợp nào cũng là của Mỹ, và không thể tìm được.”
“Có những mẫu dập theo của khối Đông Âu mà?”
“Đơn giản là không thể cung cấp được, ngoại trừ chuyện giữa chính phủ với chính phủ, và chỉ cho mục đích phòng vệ hợp pháp. Đất nước tôi chưa hề tưởng tượng đến chuyện cung cấp hoặc bảo trợ việc cung cấp chúng từ các nước bạn.” Y dợm dậy. “Còn bây giờ, nếu ông cho phép...”
“Tôi biết đòi hỏi thế là quá nhiều,” Rowse nói, “nhưng để theo đuổi sự chân thực, tôi cũng có một quỹ nho nhỏ.”
Anh hé góc tờ báo gập tư nằm trên chiếc ghế giữa họ. Một phong bì trắng, mỏng, kẹp giữa những trang báo. Karl ngồi lại, nhặt phong bì và liếc những tờ Deutschmark bên trong, coi bộ nghĩ ngợi rất lung, rồi nhét vào túi ngực.
“Nếu như tôi là ông, và muốn có những loại nguyên liệu nào đó để bán cho nhóm khủng bố Mỹ - tất cả là hư cấu thôi, dĩ nhiên - thì tôi nghĩ mình sẽ đi Tripoli và cố tìm gặp một Đại tá Hakim al-Mansour nào đó. Còn bây giờ, tôi thực sự đang vội. Chúc ông ngủ ngon, Mr. Rowse.”
“Cho đến giờ, thế là ổn.” McCready nói khi họ ngồi cạnh nhau trong phòng vệ sinh nam của một bar rượu nhếch nhác bên bờ sống. Đám giữ trẻ đã khẳng định hai người đều không bị bám đuôi. Nếu không, cuộc gặp này đã không xảy ra. “Tôi nghĩ anh nên đến đó.”
“Visa thì sao?”
“Văn phòng Nhân dân Libya ở Valletta sẽ là cơ hội tốt nhất cho anh. Nếu họ cấp ngay, có nghĩa anh đã được giới thiệu trước.”
“Anh nghĩ Karl đã rỉ tai Tripoli?” Rowse hỏi.
“Tôi nghĩ vậy. Nếu không, sao lại khuyên anh tới đó? Phải, Karl đã biếu ông bạn al-Mansour của mình một dịp ngắm nghía anh và kiểm tra câu chuyện tức cười của anh kỹ càng hơn. Ít nhất là chẳng còn ai tin cái chuyện tư liệu tiểu thuyết. Anh đã vượt được rào chắn thứ nhất. Bọn đốn mạt như đã coi anh là kẻ bội giáo đang cố gắng kiếm tiền nhanh bằng cách bán mình cho một nhóm giấu mặt ở Mỹ. Al- Mansour sẽ muốn nhiều hơn thế, dĩ nhiên.”
Rowse bay từ Vienna qua Rome, rồi tới thủ đô Malte. Hai hôm sau, không cần phải làm chúng cuống lên, như McCready nói, anh đã nộp lên Văn phòng Nhân dân Libya đơn xin visa đi du lịch Tripoli với lý do nghiên cứu để viết về những tiến bộ đáng kinh ngạc của Jamahariya Nhân dân. Visa được đóng dấu trong hai mươi bốn giờ.
Sáng hôm sau, Rowse lên chuyến bay của Libya Airways từ Valletta đi Tripoli. Trong khi bờ biển màu nâu vàng của Tripolitania hiện ra trong tầm nhìn phía xa trên nền Địa Trung Hải xanh lấp lánh, anh nghĩ về Đại tá David Stirling và những người khác: Paddy Mayne, Jock Lewis, Reilly, Almonds Cooper và những người còn lại, những chiến sĩ đầu tiên của lực lượng SAS, ngay sau khi được thành lập, đã tấn công bất ngờ và làm nổ tung những căn cứ Đức dọc theo bờ biển này, hơn một thập kỷ trước khi anh ra đời.
Và anh nghĩ đến lời của McCready ở phi cảng Valletta trong khi hai người giữ trẻ đợi trong xe. “Tôi e không thể bám theo anh ở Tripoli. Đó là nơi anh mất chỗ dựa. Tới đó, anh chỉ có một mình.”
Cũng giống như các bậc tiền bối năm 1941, mà một số trong họ đã vùi thây sa mạc, anh biết mình sẽ hoàn toàn cô độc ở Libya
Chiếc máy bay bắt đầu hạ xuống phi cảng Tripoli.