Chương 3
Thoạt đầu, mọi sự dường như khá trôi chảy. Rowse ngồi ở hàng ghế thường, và là người cuối cùng ra khỏi máy bay, trong ánh mặt trời rực cháy của buổi sáng xứ Libya.
Từ một hành lang trong tòa nhà sân bay hiện đại màu trắng, một cặp mắt trầm tĩnh đã phát hiện ra anh, và cặp ống nhòm xoi mói từ đầu đến chân khi anh vượt tiến tối cửa KHÁCH ĐẾN. Vài giây sau, cặp ống nhòm hạ xuống và vài lời bình thản được thì thâm bằng tiếng Arab.
Rowse đứng vào hàng đợi kiểm tra hộ chiếu, trong không khí điều hòa mát lạnh. Các nhân viên mắt đen đọc từng trang hộ chiếu, nhìn mặt hành khách, so sánh rất lâu với ảnh hộ chiếu và tham khảo thêm quyển hướng dẫn đặt dưới bàn, khuất tầm mắt người ngoài. Những người mang hộ chiếu Libya đứng một hang riêng.
Hai kỹ sư dầu khí Mỹ lúc nãy ngồi trong khoang dành cho người hút thuốc, bây giờ đứng sau Rowse.
Viên sĩ quan mặc đồng phục lá cây mở hộ chiếu của anh ra, liếc xuống bản thông báo đặt bên dưới. Không thể hiện gì trên mặt, hắn nhướng mắt lên, gật đầu với một ai đó đứng sau Rowes. Có ai chạm vào khủy tay, anh quay lại. Một bộ đồng phục lá cây khác – trẻ hơn, nhã nhặn nhưng cứng rắn. Hai lính mang vũ khí đứng gần đó.
“Ông vui lòng đi với tôi.” Viên sĩ quan trẻ nói bằng thứ tiếng Anh tàm tạm.
“Có vấn đề gì?” Rowse hỏi.
Hai người Mỹ im lặng nhích lên. Trong một chế độ cực quyền, viêc giới chức cầm quyền đối xử với khách như thế nào là tùy ý họ, cấm bàn tán, bình luận.
Viên sĩ quan trẻ đứng sau Rowse bước tới cánh cửa lưới sắt và thu lại hộ chiếu của anh. ‘‘Đường này, xin mời.’’
Hai tên lính mang vũ khí đi sau anh, mỗi tên một bên. Họ ra khỏi phòng đợi, đi dọc hành lang dài màu trắng. Đến đầu kia, viên sĩ quan mở một cánh cửa phía bên trái và ra hiệu cho Rowes bước vào. Hai tên lính đứng lại hai bên cửa.
Viên sĩ quan đóng cửa lại. Đó là một căn phòng trống rỗng, tường trắng, cửa sổ không rèm, có một bàn và hai ghế đối nhau kê ở chính giữa, ngoài ra không còn gì nữa. Một bức chân dung Muammar Quaddafi treo trên tường. Rowse ngồi xuống một ghế; viên sĩ quan ngồi đối diện anh và bắt đầu xem xét hộ chiếu.
“Tôi không hiểu là có chuyện gì xảy ra”, Rowse nói. “Tôi được cấp visa hôm qua bởi Văn phòng Nhân dân nước ông ở Vallette. Chắc là cái đó hợp lệ chứ?”
Viên sĩ quan chỉ đơn giản uể oải ra hiệu cho Rowse biết tốt nhất nên im lặng. Anh tuân theo. Có tiếng ruồi bay vù vù. Năm phút trôi qua như thế.
Từ đằng sau, Rowse nghe thấy tiếng cửa mở. Viên sĩ quan trẻ nhìn lên, rồi bật dậy chào. Rồi không một lời, hắn rời căn phòng.
“Vậy là, Mr. Rowse, cuối cùng ông đã đến đây.”
Giọng nói trầm và du dương, với thứ tiếng Anh mà chỉ những người đã từng học trong những trường sáng giá ở Anh quốc mới có được. Rowse quay lại. Anh không hề có chút biểu hiện gì cho thấy đã nhận ra ai khi nhìn lướt qua khuôn mặt, nhưng anh đã nghiên cứu các bức ảnh của con người này trong các buổi huấn luyện của McCready.
“Hắn trơn như lươn và học vấn cao. Học ở nước ta,” McCready đã nói. “Hắn cũng cực kỳ tàn ác và nguy hiểm. Hãy cẩn thận với Hakim al-Mansour.”
Giám đốc Cơ quan tình báo ngoại biên Libya trông rất trẻ nếu so với những bức ảnh hắn. Trong ảnh hắn nom già hơn Rowse nhiều. Ba mươi ba, tài liệu cho biết vậy.
Năm 1969, Hakim al-Mausour còn là một cậu học trò mười tám tuổi, vào trường Harrow ở ngoại ô London, là con trai, và là người thừa kế của một viên cận thần cực kỳ giàu có, bạn tâm tình của Vua Libya Idris.
Chuyện xảy ra là năm ấy, một nhóm sĩ quan trẻ cấp tiến do một tay đại tá người gốc Bedouin không tiếng tăm gì, tên là Quaddafi đứng đầu, đã làm một cú đảo chính lật đỗ nhà Vua đang ở nước ngoài, rồi tuyên bố thành lập Jamahariyah Nhân dân. Nhà Vua và triều đình đành tị nạn, với đồng tiền đáng kể, ở Geneva, và kêu gọi phương Tây giúp đỡ phục ngôi. Chẳng ai đến.
Chàng trẻ tuổi Hakim mê ly với những sự kiện trong nước, mà người cha chẳng hề hay biết. Hakim cự tuyệt cha và nền chính trị của ông, bởi chỉ mới năm trước, trí tưởng tượng non trẻ của chàng đã được nhóm lên bởi những cuộc bạo động gần như cách mạng của những sinh viên cấp tiến và công nhân ở Paris. Người ta đã thấy khối chàng trai nhiệt huyết ngả về phía cấp tiến, và cậu học trò trường Harrow đã biến đổi cả tâm hồn lẫn thể xác. Hấp tấp, chàng ta tấn công sứ quán Libya ở London với yêu sách bỏ Harrow để trở về tổ quốc tham gia cách mạng.
Đơn của chàng được người ta lưu ý và từ chối. Nhưng một nhà ngoại giao, một người ủng hộ chế độ cũ, đã rỉ tai chuyện ấy với al-Mansour Bố ở Geneva. Thế là cha con cãi vã nẩy lửa. Thằng con từ chối bỏ quan điểm. Mười bảy tuổi, tiền trợ cấp bị cắt, Hakim al-Mansour bỏ Harrow. Mất một năm lang thang khắp châu Âu, cố thuyết phục Tripoli về lòng trung thành của mình, nhưng luôn bị từ chối. Năm 1972, hắn vờ thay đổi quan điểm, làm lành với cha và tham gia Triều đình lưu vong ở Geneva.
Thời gian ở đó, hắn biết được âm mưu của một số cựu sĩ quan Không lực Anh quốc, được Bộ trưởng Tài chính của Vua Idris cấp tiền, định làm một cú phản đảo chính chống lại Quaddafi. Họ dự định tổ chức một cuộc tấn công bất ngờ, đột nhập bờ biển Libya trên con tàu có tên Leonardo da Vinci, từ cảng Genoa. Mục tiêu là phá ngục trung tâm ở Tripoli vẫn được gọi là Tripoli Hilton, để giải phóng các tù trưởng ủng hộ Vua Idris và ghét cay ghét đắng Quaddafi. Họ sẽ tản đi, phát động các bộ lạc và lật nhào kẻ tiếm ngôi. Hakim al-Mansour lập tức tố các toàn bộ kế hoạch lên sứ quán Libya ở Paris.
Thực ra, kế hoạch đã bị CIA “gạch tên” rồi, mặc dù sau này họ hối hận về việc đó, và bị An ninh Italia phá hỏng theo yêu cầu của Mỹ. Nhưng hành động của al- Mansoưr đã mang lại cho hắn một cuộc phỏng vấn khá dài ở sứ quán tại Paris.
Hắn đã thuộc lòng hầu hết các bài phát biểu dông dài và các ý tưởng ngu đần của Quaddafi, và nhiệt tình của hắn đã gây ấn tượng cho viên sĩ quan phỏng vấn, đến nỗi y mở ngay cho tên phản thùng trẻ tuổi con đường về nước. Hai năm sau đó, hắn đã đứng ở vị trí thứ hai trong Tình báo đoàn, lực lượng Mukhabarat.
Quaddafi đã đích thân gặp và thấy thích tên trẻ tuổi này, lưu ý cất nhắc hắn. Giữa 1974 và 1984, al-Mansour đã tiến hành một loạt những “thương vụ ướt át” cho Quaddafi ở nước ngoài, dễ dàng qua lại Anh, Mỹ và Pháp, những nơi mà với ngôn ngữ thông thạo và vẻ sang trọng lịch lãm của hắn được đánh giá khá cao, rồi qua hết các mạng khủng bố ở Trung Đông, nơi hắn có thể biểu hiện là một người Arab hoàn toàn. Hắn đã thực hiện ba vụ ám sát cá nhân đối với những đối thủ chính trị của Quaddafi ở nước ngoài, và trở thành người bạn gần gũi và kẻ ngưỡng mộ Người lập Kế hoạch Tháng Mười Đen và Bậc thầy Abu Hassan Salameh, người trông rất giống hắn.
Chỉ vì một cơn cảm lạnh hắn mới không tham gia cùng Salameh trong cái trò nghiền thịt buổi sáng hôm đó của năm 1979, khi mà Mossad của Israel cuối cùng đã lần tới được kẻ lập kế hoạch làm thịt các vận động viên điền kinh của họ ở Olympic Munie và nổ bom cho hắn ta nát bấy. Đội Kidon của Tel Aviv không bao giờ hiểu được họ đã gần đạt tới kết quả bằng một quả bom hạ hai con chim cùng cỡ, đến mức nào.
Năm 1984, Quaddafi cho hắn điều hành toàn bộ các hoạt động khủng bố ở nước ngoài. Hai năm sau, Quaddafi rụt lại, vì bị tổn thương thần kinh do bom và rocket Mỹ. Y muốn trả thù, và đó là trách nhiệm của al-Mansour, thực hiện càng nhanh càng tốt. Về phía Anh quốc thì chẳng có vấn đề gì. Người của IRA mà al-Mansour, nói riêng, coi như bầy thú vật, sẽ để lại một con đường đầy máu và xác chết, dọc nước Anh, nếu chúng được chu cấp tiền nong cần thiết. Vấn đề là phải tìm được một nhóm có thể làm chính việc đó, nhưng là ở Mỹ. Và bây giờ là một chàng Ănglê trẻ, có thể, hoặc có thể không, là một tên bội phản..
“Visa của tôi, tôi nhắc lại, là hoàn toàn hợp lệ,” Rowse công phẫn. “Vậy xin phép hỏi, chuyện gì đang xảy ra đây?”
“Nhất định rồi, Mc. Rowse. Câu trả lời đơn giản thôi. Ông bị từ chối nhập cảnh Libya.”
Al-Mansour đi ngang qua phòng đến bên cửa sổ ngắm nhìn cái xưởng bảo dưởng máy bay phía bên kia.
“Nhưng tại sao?” Rowse hỏi. “Tôi vừa được cấp thị thực nhập cảnh hôm qua, ở Vallette. Nó hoàn toàn hợp lệ. Tất cả điều tôi muốn làm chỉ là cố gắng nghiên cứu một vài đoạn trong câu chuyện sắp tới của tôi.”
“Ông Rowse, xin ông cất hộ cái vẻ vô tội đầy bối rối đó đi. Ông là lính cũ của Lực lượng Đặc biệt Anh quốc, ôm mộng trở thành văn sĩ. Bây giờ ông đến bảo rằng muốn mô tả đất nước tôi trong cuốn sách sắp tới. Nói trắng ra, tôi ngờ những điều ông ca ngợi sẽ đặc biệt hão huyền, và nhân dân Libya thì lạy trời, không thể nào chia sẻ cái khẩu vị Ănglê của ông về trò hề đó. Không, thưa ông Rowse, ông không thể ở lại đây. Đi thôi, tôi sẽ tiễn ông lên chuyến bay về Malta.”
Hắn ra mệnh lệnh bằng tiếng Anh, và cửa phòng mở ra. Hai tên lính bước vào, một cầm ngay valy của Rowse lên. Al-Mansour nhặt tấm hộ chiếu trên bàn. Tên lính kia đứng sang bên để hai người đi qua.
Al-Mansour dẫn Rowse qua một hành lang khác và bước ra ngoài nắng. Một máy bay Libya nằm đó đang sẵn sàng cất cánh. “Valy của tôi?” Rowse nói.
“Đã sẵn trên máy bay, Mr. Rowse.”
“Tôi có thể được biết mình đang nói chuyện với ai không?” Rowse hỏi.
“Không phải là bây giờ, bạn thân mến. Hãy cứ gọi tôi là... Mr. Aziz. Nào, ông định đi đâu nghiên cứu nữa?”
“Tôi không biết,” Rowse đáp. “Có lẽ cũng hết chỗ rồi.”
“Vậy nghỉ ngơi đi,” al-Mansour nói. “Hãy nghỉ một vài ngày cho khỏe. Tại sao ông không bay tới Cyprus? Một hòn đảo rất đáng yêu. Nói riêng, thì tôi luôn thích không khí lạnh ở núi Troodos vào mùa này trong năm. Ở ngay thung lũng Marathassa có một khách sạn cổ rất lộng lẫy, tên là Apollonia. Tôi giới thiệu nó cho ông đấy. Tất cả dân sành điệu đều chọn nơi ấy. Thượng lộ bình an, Mr. Rowse.
Thật là một trùng hợp may mắn, một trong hai trung sĩ SAS đã phát hiện ra Rowse tại sân bay Valletta. Họ không ngờ anh về sớm thế. Cả hai ở chung một phòng khách sạn gần sân bay, thay phiên nhau trông chừng gian KHÁCH ĐẾN, cứ lần lượt bốn giờ một phiên. Ngươi trực phiên đó phát hiện Rowse đang bước ra khỏi cửa hải quan, một tay valy, một tay cặp. Không hề ngẩng lên, anh ta để Rowse đi qua và quan sát anh đi tới cái bàn bên dưới biển hiệu của Cyprus Airways. Sau đó, anh dùng điện thoại công cộng gọi đồng đội trong phòng khách sạn. Người đó lại dựng McCready đang ở trung tâm Valletta dậy.
“Mẹ kiếp,” McCready văng ra. “Quái quỷ gì mà thằng cha về nhanh thế?’
“Mít đặc, ông chủ ạ, nhưng theo lời Danny, anh ấy đến bàn của Cyprus Airways để hỏi thông tin.”
McCready suy nghĩ một cách giận dữ. Anh đã hy vọng Rowse sẽ ở lại Tripoli vài ngày, và cái câu chuyện “đi tìm những vũ khí tối tân cho một nhóm khủng bố người Mỹ hư cấu” cuối cùng sẽ làm anh ta bị bắt giữ và sẽ được đích thân al-Mansour thẩm vấn. Còn bây giờ coi bộ anh ta bị ném ra cửa. Nhưng tại sao lại Cyprus? Hay Rowse đã không còn nằm trong vòng kiểm soát của anh?
McCready thấy phải gặp và phải biết điều gì đã xảy ra ở Tripoli. Nhưng Rowse không đăng ký phòng ở khách sạn, nơi có thể bí mật tiếp xúc để báo cáo tình hình. Có lẽ anh ta nghĩ mình đang bị bám đuôi chăng?”
“Bill,” anh nói, “bảo Danny ở lại với anh ấy. Có thời cơ thuận lợi, đến quầy Cyprus Airways xem họ đi đâu. Rồi đặt cho chúng ta hai chỗ trong cùng chuyến ấy và hai chỗ trong chuyến sau đề phòng trường hợp tôi không đến kịp.”
Giao thông ở Valletta thật khủpg khiếp vào buổi chiều và khi McCready tới được sân bay thì chuyến đi Nicosia đã cất cánh, với Rowse và Danny trên khoang. Chuyến sau thì phải mai mới có.
Nửa đêm, một cú phone do Danny gọi.
“Chào chú, cháu đang ở khách sạn sân bay Nicosia. Cô ngủ rồi, chú ạ.”
“Chắc là bà ấy mệt lắm,” McCready nói. “Khách sạn ấy có đẹp không?”
“Đẹp. Chúng cháu ở phòng hạng sang. Sáu mười.”
“Chú rất mừng. Có lẽ chú sẽ đến ở đó khi sang đấy. Thế nghỉ ngơi thì sao?”
“Tuyệt. Cô đã thuê xe. Có lẽ hai cô cháu sẽ lên núi.”
“Tuyệt thật đấy. Thế sao cháu không thuê sẵn một phòng cho chú? Chúc ngủ ngon nhé, cháu của chú.”
Anh đặt phôn, buồn rầu nói. “Mai anh ta sẽ lên núi. Hắn biết được gì khi dừng chân ở Tripoli nhỉ?”
“Mai ta sẽ biết hết, ông chủ,” Bill nói. “Danny sẽ để lại thông tin ở những chỗ thường lệ.”
Không bỏ phí thì giờ, Bill lăn sang một bên và chỉ ba mươi giây sau đã ngủ say. Trong nghề này, ai biết được bao giờ mới lại được ngủ.
Chuyến bay của McCready từ Valletta tiếp đất phi cảng thủ đô Cyprnafy lúc gần trưa.. Anh ngồi cách Bill khá xa, mặc dù họ bay cùng chuyến, rồi ngồi cùng xe về khách sạn sân bay.
McCready vào quầy bar ở ngay hành lang trong khi Bill lên phòng 610.
Có một cô phục vụ đang lau phòng. Bill gật đầu, mỉm cười với cô, giải thích là mình bỏ quên dao cạo râu rồi bước vào phòng tắm. Danny đã để lại báo cáo ở mặt dưới nắp két xả nước của bệ xí. Anh lại vội vã bước ra khỏi phòng tắm, gật đầu lần nữa với cô gái, giơ cho cô xem cái hộp cạo râu lấy ở túi ra, và nhận được nụ cười đáp lễ của cô, rồi bước xuống lầu.
Bill trao tờ giấy cho Sam trong nhà vệ sinh nam ở sau hành lang. Anh chui vào ngăn xí để đọc.
Hóa ra việc Rowse không cố gắng liên lạc là hay. Theo Danny, ngay khi Rowse vừa xuất hiện tại gian hải quan ở Valletta, anh ta đã bị bám đuôi, một thanh niên da màu ôliu mặc bộ đồ nâu nhạt. Tên này đã bám Rowse cho đến tận lúc chiếc máy bay của Cyprus Airways cất cánh, nhưng y không bay cùng. Một đuôi khác, có lẽ được gọi từ Văn phòng Nhân dân Libya ở Nicosia đến, đã đợi sẵn ở sân bay và bám theo Rowse đến tận khách sạn, rồi ngủ đêm luôn ở hành lang. Rowse có thể đã nhận ra cả hai tên theo mình, nhưng không tỏ dấu hiệu gì. Còn Danny thì theo cả hai ở một khoảng cách an toàn.
Rowse đã bảo lễ tân thuê cho một xe vào bảy giờ sáng hôm sau. Lúc lâu sau, Danny làm y hệt vậy. Rowse đã mua một bản đồ của đảo và hỏi thăm đường nào tốt nhất để lên núi Troodos.
Ở đoạn cuối báo cáo, Danny nói anh rời khách sạn lúc năm giờ, đỗ xe ở một chỗ dễ quan sát và chờ Rowse chạy qua. Danny không biết liệu cái đuôi có bám theo Rowse đến tận vùng núi? Về phần mình, Danny sẽ cố gắng tiếp cận, càng gần càng tốt và sẽ gọi điện về hành lang khách sạn nếu tìm thấy Rowse và tìm được điện thoại công cộng. Anh sẽ gọi cho ông khách có tên Meldrum.
McCready quay ra hành lang và phone một cú ngắn từ máy công cộng về sứ quán Anh. Vài phút sau, anh đã nói chuyện được với Trưởng trạm SAS ở đây, một trạm quan trọng, nếu nhớ tới những căn cứ của Anh ở Cyprus và sự kề cận của đảo này với Lebanon, Syria, Israel và các pháo đài Palestine bên kia biển. McCready quen biết người đồng nghiệp này từ những ngày họ cùng làm việc ở London, và lập tức, được thỏa mãn yêu cầu: một xe không có dấu vết đặc biệt với một người nói thạo tiếng Hy Lạp. Cả hai phải đến trong vòng một giờ.
Điện thoại gọi cho Mr. Meldrum đến lúc hai giờ mười. McCready nhận ống nghe từ tay người quản lý. Lại một lần nữa chú - cháu trò chuyện qua phone.
“Chào cháu. Khỏe không? Chú rất vui khi cháu gọi.”
“Chào chú. Cô với cháu đã nghỉ ăn trưa ở một khách sạn rất đáng yêu trên núi, bên cạnh làng Pedhoulas. Tên khách sạn là Apollonia. Cháu nghĩ là cô sẽ ở lại đấy, vì nơi đây đẹp lắm. Cái xe của cháu bị trục trặc khi đến đây, nên cháu đã đưa đến gara của ông Demetriou ở Pedhoulas.”
“Đừng lo cháu ạ. Ở đấy có nhiều ôliu không?”
“Làm gì có ôliu hả chú. Chỉ toàn thông với anh đào thôi. Ôliu mọc ở đồng bằng chứ.”
McCready đặt máy rồi vào phòng vệ sinh. Bill đi theo.
“Danny vẫn khỏe chứ, ông chủ?”
“Khỏe! Cậu ta theo Rowse đến một khách sạn trên núi Troodos. Rowse đã đăng ký phòng. Danny thì ở dưới làng, trong một gara tên là Demetriou, và đợi chúng mình ở đó. Cái đuôi Libia, thằng da màu ôliu đó, thì ở lại đây, chắc là thỏa mãn rằng Rowse sẽ đến nơi anh ta phải đến. Xe sắp đến bây giờ. Tôi muốn cậu lấy cặp và đi trước. Đợi chúng tôi trên đường, cách đây nửa dặm.”
Ba mươi phút sau, chiếc xe của Mr. Meldrum xuất hiện, một chiếc Ford Orion có vài vết lõm ở vỏ, dấu hiệu rõ ràng nhất của một cái xe không có gì đặc biệt ở Cyprus. Người lái là Bertie Marks, một nhân viên trẻ, lanh lợi của trạm Nicosia, nói thạo tiếng Hy Lạp. Họ đón Bill từ dưới một bóng cây bên đường, rồi chạy vào vùng núi. Trời sẩm tối trước khi họ tới được làng Pedhoulas đẹp như tranh, trái tim của nền công nghiệp anh đào vùng núi Troodos.
Danny đang đợi họ trong một quán cà phê đối diện gara. Ông Demetriou khốn khổ vẫn loay hoay với cái xe. Danny, khi phá nó, đã chắc chắn ít nhất phải mất nửa ngày mới tìm được chỗ hỏng.
Anh ta chỉ chỗ khách sạn Apollonia, rồi cùng Bill nghiên cứu địa hình xung quanh trong ánh sáng ban ngày hầu tàn, bằng con mắt nghề nghiệp. Họ chọn một dốc núi phía bên kia thung lũng, nhìn thẳng vào cái sân thượng lộng lẫy dùng làm nơi ăn tối của khách sạn, rồi lặng lẽ lẩn vào khu vườn anh đào.
Rowse đến nơi vào giờ ăn trưa, sau một chuyến đi dễ chịu và lười nhác, tin rằng vẫn được người của SAS bám theo - và rất hy vọng điều đó đúng.
Tối hôm đó, ở Malta, anh đã cố tình lần lữa khi làm thủ tục nhập cảnh. Tất cả hành khách, trừ có một người, đều đã làm xong thủ tục trước anh. Chỉ một người có nước da ôliu, người của Mukhabarat Libya, là vẫn còn loanh quanh ở sau anh. Chính lúc đó anh mới biết Mr. Aziz - Hakim al-Mansour, đã gắn cho anh một cái đuôi. Anh không nhìn quanh tìm SAS nữa, và hy vọng họ sẽ không cố tìm gặp anh.
Cái đuôi Tripoli không theo anh bay đi Nicosia nên anh nghĩ sẽ có một tên khác đợi anh ở đó. Và đúng thế.
Còn một phòng trống ở Apollonia, và anh thuê luôn. Có lẽ do al-Mansour đã thu xếp trước, cũng có thể không phải. Đó là phòng nhìn ra một phong cảnh đẹp đến giật mình của thung lũng, và phía núi bên kia mọc đầy anh đào, vẫn chưa qua vụ hoa.
Anh ăn trưa nhẹ nhưng ngon, với món thịt cừu hầm theo kiểu địa phương cùng với vang đỏ Omhodos loại nhẹ, cuối cùng là hoa quả tươi. Khách sạn này vốn là một taverna cổ, đã được sửa lại và hiện đại hóa với những tiện nghi mới, kiểu như sân thượng để ăn tối xây trên những dãy cọc nhô hẳn ra ngoài thung lũng; các bàn ăn đặt khá xa nhau dưới các mái che. Không nhiều người ăn trưa trong phòng ăn. Có một ông già với mái tóc đen lạ lùng ngồi một mình ở một bàn trong góc đang thì thầm gì đó bằng tiếng Anh với tên bồi và vài cặp nữa, hiển nhiên là người Cypriot. Khi anh đi vào sân thượng, có một phụ nữ tuyệt đẹp đang bước ra, đến nỗi Rowse phải quay lại để ngắm. Trông nàng không giống người xứ Cypriot chút nào.
Sau bữa trưa anh về phòng đánh một giấc ngủ. Nếu lời gợi ý sát sạt của al-Mausour có thể hiểu là anh bây giờ đã ở trong cuộc, thì anh chẳng có việc gì phải làm nữa, ngoài chờ đợi. Anh đã làm tất cả những gì được bảo phải làm. Bước tiếp theo, nếu có, là thuộc quyền người Libya. Anh hy vọng, nếu những điều sắp xảy ra sẽ gai góc đến khó chịu, anh sẽ có được một chỗ dựa ở đâu đó, rất gần.
Chỗ dựa đó đã đâu vào đấy, khi Rowse tỉnh dậy sau giấc ngủ trưa. Hai SAS đã tìm thấy túp lều nhỏ, tường bằng các viên đá xếp lên, nằm giữa đám cây anh đào trên sườn núi đối diện với sân thượng khách sạn. Họ gỡ bỏ một viên trên bức tường đá, và có một lỗ quan sát tuyệt vời để nhìn sang khách sạn ở tầm xa bảy trăm mét. Những ống nhòm cực mạnh của họ đã rút ngắn khoảng cách chỉ còn khoảng hai mươi mét.
Bóng tối đã dầy hơn lúc họ gọi McCready và nói cho anh biết chỗ đài quan sát. Bertie Marks lái xe theo chỉ dẫn, ra khỏi làng Pedhoulas, đi xuống phía dưới theo vệt đường mòn, đến khi thấy Danny đứng chờ ở bên đường.
Bỏ xe lại, McCready theo Danny đến chòi. Bill đưa cho anh kính nhìn đêm có độ phóng đại mạnh.
“Ông chủ, mai bọn ta cần quần áo nông dân Cypirot đấy.” Danny bảo. “Ăn mặc thế này không thể quanh quẩn ở sườn núi mãi được.”
“Này,” Bill thì thầm, anh ta đã lấy lại cái ống nhòm đêm và đang quan sát. “Có chuyện hay lắm.” Anh trao ông nhòm cho McCready.
Một phụ nữ trẻ bước vào sân thượng từ phía những hốc tường của khách sạn. Một cậu bồi tươi cười dẫn nàng vào bàn. Nàng vận bộ đồ trắng đơn giản nhưng lộng lẫy. Bộ tóc vàng rực rỡ phủ trên đôi vai.
“Tập trung vào việc đi,” McCready nói. “Rowse đâu?
Bill cười nhăn nhở. “Ồ, đấy chứ đâu. Có một dãy cửa sổ ở phía trên sân thượng. Ở cửa thứ ba, bên phải.”
McCready dịch ống nhòm lên. Không cửa sổ nào buông rèm cả. Vài cửa có ánh đèn bên trong. Anh thấy một bóng đàn ông cởi trần, khăn tắm quấn bụng đi ngang qua phòng ngủ. Đó chính là Rowse. Mọi việc đều ổn.
Nhưng chẳng thấy cái đuôi nào thò ra. Có hai người khách nữa đến ngồi trên sân thượng: ông nhà buôn Cận Đông béo tròn, nhẫn vàng đeo đầy cả hai tay, và ông già ngồi một mình ở góc sân, đang xem thực đơn. Anh thở dài. Đời anh thế quái nào mà toàn dính líu vào những chờ với đợi, và anh thì căm ghét chuyện đó. Anh trao lại ống nhòm và xem đồng hồ. Bảy giờ mười lăm. Anh sẽ ở đâu hai giờ nữa rồi cùng Marks về làng ăn tối. Các đội viên SAS sẽ phải thức qua đêm. Đó là cái tài của họ - ngoài tài sử dụng cơ bắp.
Rowse xem đồng hồ: bảy giờ hai mươi. Anh khóa phòng và xuống sân thượng làm vài ly trước bữa tối.
Vẫn chỉ có ba người trên sân thượng: ông béo có dáng người Địa Trung Hải, ông già có mái tóc đen khó tin và người phụ nữ. Nàng đang quay lưng về phía anh, ngắm nhìn cảnh chiều trên thung lũng.
Khi anh ngồi vào ghế, người đàn bà liếc nhìn sang. Anh gật đầu, lẩm bẩm “Xin chào.” Nàng gật đầu đáp lễ rồi tiếp tục ngắm thung lũng tối dần. Đồ uống đã được mang đến. Anh hỏi, “Tôi có thể cùng bà nâng ly không?”
Nàng giật mình. “Nâng ly?”
Anh làm một cử chỉ về phía dãy núi tối sẫm với nền trời màu da cam phía sau.
“Vì sự tĩnh lặng. Và vì cả cái đẹp kỳ diệu nữa.”
Nàng hơi nhếch miệng cười. “Vâng, vì sự tĩnh lặng”, nàng nói và nhấp một ngụm ở ly vang trắng nguyên chất của mình. Bồi bàn mang đến hai tờ thực đơn, và ở hai bàn khác nhau, họ cùng chọn món. Rồi nàng gọi cá hồi núi.
“Không thể chọn món nào ngon hơn được. Một suất nữa cho tôi nhé,” Rowse nói với người bồi đang đi ra.
“Bà ăn tối một mình ư?” Rowse hỏi khẽ.
“Vâng,” nàng đáp một cách dè chừng.
“Tôi cũng vậy,” anh nói. “Và điều đó làm tôi lo lắng, bởi tôi là một kẻ rất biết sợ Chúa.”
Nàng bối rối. “Chúa có liên quan gì đến chuyện đó?”
Anh nhận ra nàng phát âm không như người Anh. Giọng mũi, hơi khàn - người Mỹ chăng? Anh phác một cử chỉ về phía ngoài kia. “Cảnh vật, sự êm đềm, những ngọn núi, mặt trời đang tắt dần, rồi đêm tối. Người đã sáng tạo ra tất cả những cái đó, nhưng chắc chắn không phải dành cho những kẻ ăn tối một mình.”
Nàng cười, hàm răng trắng lóa trên khuôn mặt rám nắng. Cố mà làm cho người ta cười lên, đó là điều mà cha anh đã dạy. Con người ta rất thích được người khác làm cho mình cười.
“Tôi có thể ngồi cùng bà không? Chỉ để ăn tối thôi.”
“Sao lại không? Nếu chỉ để ăn bữa tối.”
Anh cầm ly sang ngồi đối diện nàng. “Tom Rowse.”
“Monica Browne”, nàng đáp.
Họ trò chuyện, những câu chuyện vặt vãnh, thông thường. Anh bảo mình là tác giả của một tiểu thuyết hơi gọi là thành công và đến đây lấy tư liệu để viết cuốn tiếp theo, về các vấn đề chính trị ở Trung và Cận Đông. Anh đã quyết định bỏ chuyến đi ở phía đông Địa Trung Hải bằng vài ngày nghỉ ở khách sạn này, vì một người bạn đã giới thiệu đây là nơi thức ăn ngon và nghỉ ngơi yên tĩnh.
“Còn bà?” Anh hỏi.
“Chẳng có gì đặc biệt. Tôi nuôi ngựa. Đến vùng này để mua ba con ngựa giống thuần chủng. Đang đợi làm xong giấy tờ. Vậy là...” nàng nhún vai, “đến đây giết thời gian. Tôi nghĩ ở đây sẽ thú vị hơn là ở bến tàu.”
“Ngựa giống? Ở Cyprus?”
“Không, ở Syria. Người ta bán ngựa một tuổi ở Hama. Thuần giống Arab, nòi tốt nhất. Ông có biết tất cả ngựa đua ở Anh đều có nguồn gốc từ ba con ngựa Arab không?”
“Chỉ từ ba con? Không, tôi không biết.”
Nàng rất hào hứng nói về những con ngựa. Anh biết nàng là vợ một ông thiếu tá già hơn hàng chục tuổi, tên là Eric Browne, và họ cùng sở hữu một đàn ngựa ở Ashford. Chính gốc nàng là dân Kentucky, nơi nàng học được nhiều điều bổ ích về ngựa thuần chủng và ngựa đua. Anh chỉ biết lờ mờ về Ashford - đâu như là một thị trấn nhỏ ở Kent, nằm trên đường từ London đến Dover.
Cá hồi đã được mang tới, kẹp lưới và nướng trên lò than. Món này được dùng với thứ vang trắng nguyên chất của địa phương, cất ngay ở vùng thung lũng Marathassa.
Trong khách sạn, đằng sau khuôn cửa của sân trong mở ra sân thượng, có nhóm ba người đang bước vào.
“Bà phải đợi bao lâu, cho những con ngựa nòi?”
“Ngày một ngày hai thôi, hy vọng vậy. Tôi rất lo lắng cho chúng. Đáng lẽ tôi phải ở lại Syria, bên chúng. Chúng hăng khủng khiếp. Trên đường đi, chúng sẽ dễ trở nên nóng nẩy. Nhưng viên đại lý tàu biển của tôi rất chu đáo, sẽ báo ngay khi chúng đến, và tôi sẽ đi cùng chúng.”
Những người vừa bước vào bar đã uống xong ly whisky và đang ra sân thượng tìm bàn trống để ngồi. Rowse chợt nghe một giọng quen quen trong câu chuyện của họ.
“Bảo người của anh đưa ra đây chầu nữa cùng loại.”
Một người trong bọn họ nói.
Bên kia thung lũng, Danny gọi khẽ, “Ông chủ.”
McCready lao tới lỗ quan sát. Danny trao ống nhòm cho anh và lui ra sau. McCready chỉnh tiêu cự và thở ra. “Đen thật”, anh nói, đưa trả ống nhòm. “Tiếp tục quan sát. Tôi sẽ canh chừng phía trước khách sạn. Bill, đi nào.”
Trời đã rất tối, họ có thể đi bình thường trên sườn núi ra xe mà không sợ bị ai thấy từ phía thung lũng bên kia.
Trên sân thượng, Rowse vẫn làm ra vẻ chú ý vào một mình Monica. Chỉ một liếc mắt là anh biết tất cả những gì cần biết. Hai tên Ailen kia anh chưa từng gặp. Nhưng tên thứ ba - rõ ràng là tên cầm đầu - là Kevin Mahoney.
Rowse và Monica lúc đó đang dùng món cà phê tráng miệng, món có kèm mứt quả ướt. Nhưng Monica lắc đầu.
“Món này không có lợi cho hình thể - không tốt chút nào,” nàng nói.
“Và thân hình của bà thì đừng bao giờ làm xấu đi, vì nó cực kỳ hoàn hảo”, Rowse nói. Nàng cười giễu, nhưng không có vẻ bực mình. Nàng cúi về phía anh. Dưới ánh nến, Rowse choáng váng khi liếc nhanh khe giữa đôi bầu vú no tròn của nàng.
“Ông có biết những người kia không?” Nàng hỏi.
“Không, đâu có biết họ là ai,” Rowse đáp.
“Có một người cứ nhìn ông mãi.”
Rowse không muốn quay lại, nhưng sau nhận xét như vậy, nếu không quay lại thì sẽ gây ngờ vực. Những đường nét dễ coi của khuôn mặt Kevin Mahoney lập tức xuất hiện trước mắt anh. Khi anh quay lại, Mahoney cũng chẳng buồn ngoảnh đi. Mắt họ gặp nhau. Rowse hiểu cái nhìn của hắn. Bối rối. Khó chịu. Dường như đây là ai đó mà hắn đã từng gặp nhưng không thể nhớ ra.
Rowse quay lại:
“Chẳng quen ai. Toàn người lạ.”
“Vậy thì họ là những người lạ rất bất lịch sự.”
“Bà có thể nhận ra giọng họ không?” Rowse hỏi.
“Ailen,” nàng đáp. “Bắc Ailen.”
“Làm sao bà phân biệt được giọng Ailen?” Anh hỏi.
“Do đua ngựa, dĩ nhiên. Môn thể thao này đầy dân Ailen. Còn bây giờ, Tom, buổi tối hôm nay tuyệt vời quá, nhưng cho phép tôi trở về phòng nhé.”
Nàng đứng dậy. Rowse cũng đứng theo, cảm giác nghi ngờ thoáng qua của anh đã dịu đi.
“ Tối nay thật tuyệt. Hy vọng được còn lần sau.”
Anh chờ một lời bóng gió, để có thể hiểu nàng muốn anh đi cùng, nhưng chẳng hề có. Nàng trạc ngoài ba mươi, và không hề ngốc. Nếu muốn, nàng sẽ biết cách thể hiện nó bằng một cách nào đó. Nếu không, thì sẽ thật dại đột nếu làm hỏng hết mọi chuyện. Nàng cười với anh, thật quyến rũ, rồi quay gót. Rowse uống thêm ly cà phê rồi mặc bọn Ailen ngồi đó, anh quay ra ngắm những đỉnh núi đen sẫm. Chốc sau, anh nghe chúng trở lại bar gọi whisky.
“Tôi đã nói đây là nơi đẹp tuyệt mà,” một giọng trầm trầm vang bên anh.
Hakim al-Mansour, ăn mặc chải chuốt như mọi khi, ngồi vào chiếc ghế trống và gọi cà phê.
Bên kia thung lũng, Danny buông ống nhòm và nói điều gì đó có vẻ khẩn thiết vào bộ đàm. Trong chiếc Ford Orion đỗ trên con đường dẫn tới cổng chính khách sạn, McCready lắng nghe. Anh đã không thấy tên Libye đi vào khách sạn, dù anh đã ngồi đây cả tiếng đồng hồ.
“Thông báo đầy đủ cho tôi,” anh bảo.
“Đúng là ông đã bảo thế, ông Aziz,” Rowse bình thản đáp. “Và đúng như lời ông. Nhưng nếu muốn nói chuyện với tôi, tại sao ông lại đuổi tôi khỏi Libya?”
“Ôi, xin ông, đừng nói đ...uổi,” al-Mansour dài giọng, “chỉ là từ chối nhập cảnh. Và lý do chỉ là vì tôi muốn được riêng biệt hoàn toàn với ông. Ngay ở đất nước tôi cũng có những thủ tục, rồi những băng ghi, những văn bản phải lưu trữ, những sự tò mò của các ông lớn phải thỏa mãn. Còn ở dây, không có gì khác ngoài sự êm đềm, tĩnh lặng.”
Và những điều kiện, Rowse nghĩ, để thủ tiêu im ắng, rồi bàn giao cho nhà cầm quyền Cypriot một cái xác Ăngle được tình cờ phát hiện.
“Vậy là,” anh nói to,“tôi phải cảm ơn ông về nhã ý giúp tôi nghiên cứu.”
Hakim al-Mansour cười nhẹ. “Tôi nghĩ đã đến lúc ta chấm dứt những trò lừa dối kiểu ấy, ông Rowse. Chắc ông biết, trước khi được bọn thú vật buông tha, ông bạn quá cố Herr Kleist của ông đã tăm sự hết với chúng.”
Rowse nhìn quanh, cay đắng. “Báo chí nói Kleist bị bọn ma túy giết, để trả thù việc anh ấy đã làm.”
“Alas, không! Bọn chơi hắn dĩ nhiên dính đến ma túy. Nhưng mối quan tâm chính của chúng lại là đặt bom ở những nơi công cộng, nhất là ở Anh.”
“Thế vì sao bọn khủng bố ấy lại quan tâm tới Ulrich?”
“Chúng đâu quan tâm đến hắn, ông Rowse thân mến, mà chỉ quan tâm đến việc ông ghé Hambourg làm gì, và chúng nghĩ bạn ông có thể biết, hoặc có ý nghi ngờ. Thế mà đúng. Kleist cho rằng cái chuyện láo toét của ông về bọn khủng bố hư cấu người Mỹ chỉ để che giấu mục đích khác. Thông tin đó, kết hợp với những bức điện nhận từ Vienna, đã cho tôi cảm giác ông có thể là con người thú khi cùng chuyện trò. Tôi thành thực mong là vậy, vì lợi ích của ông thôi. Và giờ đã đến lúc. Nhưng không phải ở đây.”
Hai tên xuất hiện sau Rowse. To lớn, da màu ôliu.
“Tôi nghĩ ta sẽ đi gần thôi,” al-Mansour nói.
“Cái kiểu đi này có ngày về không?” Rowse hỏi.
Hakim al-Mansour đứng dậy. “Điều đó tùy thuộc toàn bộ vào việc ông có thể trả lời vài câu hỏi đơn giản đủ để thỏa mãn tôi hay không,” hắn nói.
McCready đã chờ sẵn khi chiếc xe chạy ra khỏi cổng khách sạn, thấy Rowse ở băng sau, giữa hai tên to lớn.
“Ta có theo không, ông chủ?” Bill ở băng sau hỏi lên.
“Không,” McCready đáp. Đuổi theo mà không bật đèn trên những đường cua gấp ở sườn núi này chẳng khác nào tự sát. Còn bật đèn thì coi như xong phim. Al-Mansour đã chọn địa thế rất khéo. “Nếu còn quay lại, anh ta sẽ kể hết ra. Còn không thì... Dù sao, cuối cùng anh ta cũng đã vào cuộc. Con mồi sẽ được ngửi hơi, và ta sẽ biết nó có được chấp nhận hay không vào sớm mai. À này, cậu có thể vào khách sạn mà không bị ai phát hiện chứ?”
Bill coi bộ như vừa bị xúc phạm ghê gớm.
“Chui vào cái phòng Rowse ấy,” McCready bảo và đưa cho viên Trung sĩ quyển sách hướng dẫn du lịch.
Chuyến đi dài cỡ một tiếng. Rowse tự ép mình không nhìn ngang nhìn ngửa. Nhưng có hai lần, khi tên lái xe người Libya ngoặt ở khúc cua, anh đã có dịp nhìn lại sau. Chẳng hề có ánh đèn xe nào từ hướng đó. Hai lần khác, tên lái dẹp xe vào lề đường, tắt đèn, chờ năm phút. Chẳng ai vượt qua họ. Trước nửa đêm, họ đến một biệt thự lớn và Rowse bị áp giải xuống xe, bị đẩy qua cửa, do một tên Libya nặng ký ở đó mở sẵn. Kể cả al-Mansour, chúng có đến năm tên. Thật quá đỗi chênh lệch.
Thế mà vẫn còn một tên đợi sẵn trong phòng khách rộng lớn, nơi anh bị đẩy vào - chắc nịch, hàm bạnh ra, bụng bự, gần năm chục tuổi, bộ mặt tàn bạo và đôi bàn tay to, đỏ lựng, rõ là không phải người Libya. Thực ra, Rowse nhận ngay được tên này, song không tỏ dấu hiệu gì. Cái mặt hắn đã có trong bộ “sưu tập tội phạm” của McCready, và anh còn được biết có ngày sẽ thấy nó, nếu anh chấp nhận đi vào thế giới Khủng bố và Trung Đông.
Frank Terpil là tên CIA phản bội, bị thải ra năm 1971. Ngay sau đó, một nghề nghiệp lắm tiền và phù hợp đã thu hút hắn ngay - bán những dụng cụ tra tấn, những thủ đoạn khủng bố và cố vấn cho ldi Amin của Uganda. Trước khi con quái vật Uganda đó bị sụp đổ và cái Văn phòng Nghiên cứu quốc gia bí mật của hắn bị đập nát, hắn đã kịp giới thiệu tên người Mỹ này với Quaddafi. Kể từ đó, Terpil, đôi khi còn liên kết với Edwin Wilson, một tên phản bội khác, đã trở thành tên chuyên cung cấp các dụng cụ và công nghệ cho những nhóm khủng bố tàn bạo nhất quanh Trung Đông và là kẻ thường trực dưới tay nhà độc tài Libya.
Thậm chí đến bây giờ Terpil đã mất mặt khỏi cộng đồng tình báo phương Tây tới mười lăm năm vậy mà vẫn được coi là chuyên gia Mỹ ở Libya, nên hắn phải cố giấu giếm chuyện là từ cuối những năm 1980 hắn đã không còn hiểu biết tí gì về nó nữa.
Rowse được lệnh ngồi vào cái ghế giữa phòng. Tất cả đồ đạc đều phủ vải che bụi. Rõ ràng biệt thự này là nhà nghỉ của một gia đình giàu có nào đó, đóng cửa suốt mùa đông. Bọn Libya chỉ chiếm cứ một đêm, và đó là lý do để chúng không cần bịt mắt Rowse.
Al-Mansour ngồi rất điệu bộ vào chiếc ghế lưng cao. Duy nhất một bóng điện treo trên đầu Rowse là tỏa sáng. Thấy al-Mansour gật đầu, Terpil nặng nề bước tới.
“Okay, chàng trai, nói đi. Mày lòng vòng châu Âu để tìm mua vũ khí. Những loại rất đặc biệt. Mày thực sự muốn làm cái chó gì?”
“Tìm tư liệu để viết một cuốn sách. Tôi đã giải thích hàng chục lần rồi. Đây là chuyện một cuốn tiểu thuyết. Là nghề của tôi, là cái tôi đang làm. Tôi viết về bọn lính tráng, gián điệp, khủng bố - bọn khủng bố tưởng tượng.”
Terpil đánh anh vào mặt - không nặng lắm, nhưng vừa đủ để thấy rằng còn có nhiều cú tiếp theo, và sẽ nặng hơn.
“Câm mõm đi,” hắn nói không thù oán. “Tao sẽ biết sự thật thôi, không cách này thì cách khác. Tốt nhất là tự mày hãy chọn lấy cách không đau - còn tao thì thế nào cũng được. Nào, mày làm việc cho ai?”
Rowse cứ khai mỗi lúc một ít, theo cái cách anh đã được chỉ dẫn, đôi lúc nhớ ra những sự việc chính xác, đôi lúc cố lắm mới nhớ lại được.
“Tạp chí nào?”
“Soldier of Fortune."
“Số mấy?”
“Tháng Tư... à, tháng Năm. Đúng rồi, tháng Năm, năm ngoái.”
“Quảng cáo sao?”
“Cần một chuyên viên vũ khí, ở châu Âu, cho một chức vụ thú vị... kiểu như thế. Rồi số hòm thư.”
“Cứt. Tao có tất cả các số của tạp chí ấy. Làm gì có quảng cáo như thế.”
“Có. Ông đi mà kiểm tra.”
“Ồ, chúng ta sẽ kiểm tra,” al-Mansour lầm bầm từ góc phòng. Hắn đã ghi chép tất cả, với cây bút bằng vàng mảnh mai và một quyển sổ Gucci.
Rowse biết Terpil đang hù mình. Có một quảng cáo như vậy trong các cột báo của tờ Soldier of Fortune. McCready đã tìm thấy nó và sau vài cú điện thoại đến các bè bạn ở CIA và FBI, đã đảm bảo (hoặc Rowse tha thiết mong như thế) rằng người cho đăng quảng cáo sẽ khẳng định rằng ông ta đã nhận được thư xin việc của Mr. Thomas Rowse ở Anh quốc.
“Thế là mày viết thư trả lời.”
“Phải, thư rất đơn giản, cho biết địa chỉ, học vấn, chuyên môn... và chỉ dẫn cách trả lời, nếu có.”
“Cách nào?”
“Một quảng cáo nhỏ trên Daily Telegraph, London.” Anh nhắc lại từng lời được dặn, bởi vẫn nhớ nguyên vẹn.
“Có quảng cáo chứ? Chúng đồng ý tiếp xúc?’
“Phải.”
“Ngày, tháng?”
Tháng Mười năm ngoái. McCready cũng đã tìm ra quảng cáo ấy. Nó được lựa chọn ngẫu nhiên, hoàn toàn chỉ là một mẩu nhắn tin có thực của một công dân Anh vô tội
nhưng lời lẽ rất phù hợp. Tòa soạn Telegraph đã đồng ý thay đổi hồ sơ để nó trở thành của một ai đó bên Mỹ, và trả bằng tiền mặt.
Câu hỏi vẫn tiếp tục. Cú điện thoại anh nhận được từ Mỹ sau khi đã trả lời bằng một quảng cáo nữa trên tờ New York Time? (Đó cũng là một quảng cáo có thật kèm theo một số điện thoại ở Anh - đã tìm thấy sau hàng giờ lục lọi. Số điện thoại riêng của Rowse vốn không có trong danh bạ, bèn được thay đổi cho phù hợp với nó).
“Tại sao lại phải tiếp xúc vòng vo như vậy?”
“Tôi nghĩ là tôi cần thận trọng, trong trường hợp cho đăng quảng cáo là một kẻ điên khùng. Hơn nữa sự bí ẩn của tôi có thể gây ấn tượng cho người cần thiết.”
“Có được không?”
“Hiển nhiên được. Người đại diện bảo anh ta thích thế. Và bố trí gặp mặt.”
“Bao giờ?”
“ Tháng Mười Một vừa rồi.”
“Ở đâu?”
“Georges Cinq, Paris.”
“ Thằng ấy mặt mũi thế nào?”
“Trẻ, sang trọng, nói hay. Không ở khách sạn. Tôi đã kiểm tra. Xưng tên Galvin Pollard. Chắc tên giả. Thuộc tip yuppie”
“Tip gì?”
“Loại thanh niên thay đổi nghề nghiệp xoành xoạch,” al-Mansour dài giọng chen vào. “Ông lạc hậu quá rồi.”
Terpil đỏ mặt. Dĩ nhiên. Hắn đã biết khái niệm đó song lại quên mất.
“Thằng đó nói gì?”
“ Nói mình đại diện cho một nhóm Siêu Cấp Tiero.”
Rồi Rowse nhắc lại những điều al-Mansour chắc chắn biết rõ. “Đó là nhóm người tởm lợm đến phát ốm chính quyền Reagan với chính sách thù địch Liên Xô cùng thế giới thứ Ba, cụ thể là việc sử dụng máy bay Mỹ và tiền đóng thuế của dân Mỹ để ném bom đàn bà, trẻ con ở Tripoli hồi tháng Tư năm ngoái.”
“Và nó đưa một danh mục các thứ nó cần?” Terpil hỏi.
“Phải.”
“Danh mục này?”
Rowse ngước nhìn. Đó là bản copy danh mục anh đã đưa cho Karl xem ở Vienna. Người Đức này chắc phải có trí nhớ siêu đẳng.
“Phải.”
“Mìn Claymore, lạy Chúa! Semtex-H. Cặp gài mìn. Toàn đồ cao cấp. Chúng nó muốn những thứ này làm cái đếch gì?”
“Anh ta nói người của mình muốn cho nổ một phát. Một phát thật lớn. Anh ta nói đến Nhà Trắng, nhà Quốc hội. Có lẽ anh ta rất thích chơi nhà Quốc hội, và được phép giải quyết trực tiếp chuyện tiền nong. Tài khoản trong Kreditanstalt ở Aachen có nửa triệu đôla
(McCready cũng đã mở một tài khoản như vậy thật, nhưng lùi ngày tháng về giai đoạn thích hợp. Và nhà băng đó cũng không bí mật nghiêm ngặt lắm. Và bọn Libya có thể kiểm tra được nếu, chúng muốn).
“Vậy mày dính líu vào đó để được gì?”
“Hai mươi phần trăm hoa hồng. Một trăm ngàn đôla.”
“Một cái rác.”
“Không phải là đối với tôi.”
“Nhưng mày viết tiểu thuyết trinh thám, nhớ chứ?”
“Sách không bán được nhiều. Quảng cáo cũng không ăn thua. Nên tôi muốn kiếm vài cú.”
“Cú gì?”
“Tiền,” al-Mansour lại lầu bầu.
Gần sáng, Terpil và al-Mansour rì rầm ở phòng bên.
“Liệu thực sự có một nhóm cấp tiến ở Mỹ tính bôi tro vào mặt Nhà Trắng và Quốc hội không?” Al-Mansour hỏi.
“Chắc là có!” Terpil, vốn căm ghét đất nước hắn, trả lời. “Ở một nước giàu mạnh cỡ đó, ông sẽ thấy đủ loại kỳ quặc. Lạy giời, ông tưởng tượng nổi không? Một trái mìn Claymore trong cặp nằm trên bãi cỏ trước Nhà Trắng.”
Al-Mansour có thể tưởng tượng nổi chứ. Claymore là một trong những vũ khí giết người ghê gớm nhất đã được phát minh. Hình dạng giống cái đĩa, nó bắn lên cao khi phát nổ, và tung tóe ra hàng ngàn viên bi ở tầm bụng người. Đặt ở ga đường sắt cỡ vừa, một trái Claymore sẽ chỉ để lại vài mạng sống trong hàng ngàn hành khách. Vì lý do đó, việc buôn bán Claymore bị Mỹ kiểm soát gắt gao. Nhưng cái gì mà chẳng có bản sao...
Hai tên đã trở lại. Mặc dù Rowse không biết điều đó, nhưng thực sự vận may đã mỉm cười với anh. Al-Mansour cần phải mang được chút gì cho Lãnh tụ của hắn, không chậm trễ, để thỏa mãn lòng sôi sục báo thù nước Mỹ. Terpil thì cần phải chứng tỏ cho các ông chủ thấy nó vẫn là người họ cần. Cuối cùng, cả hai đã tin Rowse, vì lý do mà đa số mọi người đều mắc phải: muốn tin.
“Ông đi được rồi, Mr. Rowse.” Al-Mansour nhẹ nhàng nói. “Dĩ nhiên chúng tôi sẽ kiểm tra, và tôi sẽ gặp lại ông.
Cứ ở lại Apollonia cho đến khi tôi, hoặc người do tôi phái đến, gặp ông.”
Hai thằng to béo kèm anh lúc nãy bây giờ lái xe đưa anh về, thả ở thềm khách sạn, rồi vù đi. Khi vào phòng, anh bật đèn, bởi ánh ban mai chưa đủ sức dọi sáng căn phòng hướng Tây. Bên kia thung lũng, Bill đang phiên trực, bật máy truyền tin và đánh thức McCready dậy.
Rowse cúi xuống nhặt một vật trên thảm. Đó là cuốn sách nhỏ mời du khách đi thăm Tu viện Kykko lịch sử và chiêm bái bức tượng vàng của Đức mẹ Đồng Trinh. Một nét bút chì mờ viết bên lề trang sách Mười giờ sáng.
Rowse đặt báo thức cho ba giờ nữa. McCready, quân bóc lột. Anh lẩm bẩm rồi thiếp đi.