← Quay lại trang sách

Chương 4

Kykko, tu viện lớn nhất Cyprus được xây từ thế kỷ XII, dưới thời đế chế Byzantine, với địa điểm tuyệt vời cho việc các tu sĩ sống cách biệt để suy tưởng.

Công trình vĩ đại này nằm trên đính núi phía tây thung lũng Marathassa, chỉ có hai con đường lên tới được, mỗi đường nằm một bên sườn núi. Đến tận sát tu viện cả hai mới nhập lại làm một để chạy thẳng vào cổng.

Cũng như các hoàng đế Byzantine xưa kia, McCready đã khéo chọn nơi này. Danny vẫn ở lại chòi quan sát, mắt dán vào những ô cửa sổ buông rèm của căn phòng Rowse đang ngủ, còn Bill, trên chiếc môtô mà Marks, người rất thạo tiếng Hy Lạp mới kiếm cho, đã phóng lên Kykko trước. Sớm hôm sau, viên trung sĩ SAS đã giấu mình trong đám thông bên đoạn đường dẫn tới cổng tu viện.

Anh thấy McCready đến, trên chiếc xe do Marks lái, và anh quan sát xem có đuôi không. Nếu có một tên trong nhóm Ailen xuất hiện, hoặc chiếc xe của bọn Libya (họ đã biết số xe), thì McCready sẽ được báo động bằng ba tiếng bíp của máy bộ đàm, và phải trốn ngay. Nhưng chỉ thấy dòng du khách, đa số là người Hy Lạp và Cyprus, trườn trên đường, trong buổi sáng tháng Năm ấy.

Đêm qua, viên trạm trưởng Nicosia đã gửi một nhân viên trẻ đến Pedhoulas với một số tin điện từ London, và một máy thông tin nữa. Bây giờ, mỗi viên SAS giữ một máy, ngoài cái McCready giữ.

Tám giờ rưỡi, Danny báo đã thấy Rowse xuất hiện ở sân thượng và ăn bữa ăn sáng nhẹ với bánh mì cuốn và cà phê. Chẳng thấy Mahoney và hai tên bạn đâu, người phụ nữ ngồi cùng Rowse nữa, và cũng không thấy mống khách khứa nào.

“Anh ta coi bộ rất mệt mỏi,” Danny nói.

“Ai bảo với cậu rằng đây là những ngày nghỉ của chúng ta,” McCready gắt từ sân tu viện, xa hai mươi dặm.

Chín giờ hai mươi, Danny báo Rowse lái xe khỏi làng Pedhoulas, chạy ngang qua nhà thờ Archangel Michael sơn vẽ rực rỡ đứng trấn đầu ngôi làng miền núi này, rồi rẽ xuống con đường đi Kykko. Danny vẫn tiếp tục quan sát khách sạn. Vào lúc chín rưỡi, cô phục vụ vào phòng Rowse và kéo hết rèm lên. Điều đó làm Danny dễ thở hơn nhiều.

Các cửa sổ khác trông ra thung lũng thì chẳng cái nào buông rèm nữa. Dù mặt trời chói mắt, viên trung sĩ vẫn sung sướng thưởng ngoạn cảnh Monica Browne tập hít thở sâu mười phút, hoàn toàn khỏa thân, ngay trước cửa sổ.

“Nhịp điệu Nam Armagh,” anh ta tán thưởng.

Mười giờ kém mười, Bill báo cáo đã thấy Rowse đang leo lên con đường dốc ngoằn ngoèo tới Kykko. McCready đi vào phía trong, trầm trồ thán phục sức lao động cơ bắp đã mang được những tảng đá lớn như vậy lên tận đỉnh núi và tài khéo của các họa sĩ đã vẽ những tranh tường...

Rowse tìm thấy McCready trước bức tượng vàng Đức mẹ Đồng trinh nổi tiếng. Bill cam đoan Rowse không có đuôi và tín hiệu của anh là hai tiếng bip liền nhau vang lên từ chiếc máy truyền tin nằm ở túi ngực McCready.

“Anh không bị theo dõi,” McCready nói khi Rowse đến sát bên. Chẳng có gì lạ trong việc họ thì thầm; bởi quanh họ, các du khách khác cũng chỉ khe khẽ trao đổi, như sợ phá hỏng sự yên tĩnh thiêng liêng nơi đây.

“Vậy ta sẽ quay lại từ đầu nhé?’ McCready nói tiếp. “Tôi nhớ lần cuối cùng ta gặp nhau là lúc anh đi từ sân bay Valletta để tới Tripoli cho một cuộc thăm viếng ngắn ngày. Kể từ đó, xin anh hãy nói thật chi tiết.”

Rowse kể từ đầu. Nghe một đoạn, McCready thốt lên.

“Vậy là anh đã gặp cái gã al-Mansour nổi tiếng ấy đấy? Tôi không dám mong hắn đích thân xuất hiện ở sân bay. Chắc tin của Karl từ Vienna làm hắn quan tâm lắm.”

Một phần trong câu chuyện của Rowse, McCready có thể khẳng định được từ những quan sát riêng của mình và của các viên SAS.

“Anh có thấy hai trung sĩ của tôi không? Những cựu đồng nghiệp của anh đó.” Anh hỏi.

“Không, không hề thấy. Nhưng tôi cứ luôn tin họ vẫn quanh quẩn gần đó,” Rowse đáp. cả hai cùng ngước nhìn Đức mẹ và bắt gặp cặp mắt dịu hiền, đầy thương xót cũng đang nhìn xuống họ.

“Ồ, mà họ cũng đang ở đây nữa,” McCready nói. “Một đang ngoài kia, chỉ để coi liệu anh và tôi có bị bám đuôi? Thực lòng mà nói, họ rất thích thú với các cuộc phiêu lưu của anh. Khi xong việc, hãy nên uống với nhau một chầu. Vậy còn... sau khi anh vào khách sạn?”

Rowse kể ngay cái đoạn anh nhận ra Mahoney.

“Gượm đã, thế còn cô gái, cô ta là ai?”

“Chỉ là người đi nghỉ. Một người Mỹ làm nghề nuôi ngựa đua đang đợi ba con ngựa giống Arập mà cô ta mua tuần trước ở Hana, Syria, được chở đến. Monica Browne. Có chữ e đằng sau. Không có chuyện gì đâu, chỉ là gặp gỡ trong bửa ăn thôi.”

“Có chắc không?”

“Chắc chứ, Sam. Hoàn toàn chắc chắn. Chỉ là một phụ nữ bình thường thôi. Và ngẫu nhiên còn rất đẹp nữa.”

“Chúng tôi cũng thấy thế. Tiếp đi.”

Rowse kể về những cái liếc nhìn đầy ngờ vực của Mahoney mà cô gái ngồi cùng anh ở sân thượng bắt gặp.

“Anh nghĩ nó nhận ra anh? Vụ...trạm xăng đó.”

“Không thể! Hôm đó tôi đội mũ len sụp xuống tận mắt, râu thì mọc kín mặt, và lại khuất nửa người sau cái bơm xăng. Không, hắn nhìn tôi như thể nhìn bất kỳ người nào đó mà hắn nghe thấy nói giọng Anh. Hắn ghét chúng ta thế nào thì anh hẳn biết.”

“Có thể. Tiếp đi.”

Chính là sự xuất hiện đột ngột của al-Mansour và cuộc thẩm vấn suốt đêm của Frank Terpil đã khiến McCready thực sự chú ý. Anh bắt Rowse dừng lại hàng chục lần để gạn hỏi chi tiết. Anh có mang theo một cuốn sách bìa cứng về các nhà thờ và tu viện thời Byzantine ở Cypriot. Trong khi Rowse kể, anh ghi tóm tắt vào quyển sách, chen giữa những dòng chữ Hy Lạp. Nhưng không có chữ nào xuất hiện nơi ngọn bút chì anh viết - chúng chỉ hiện ra sau này, khi dùng một loại hóa chất quệt lên.

“Tạm ổn nhỉ?” McCready như tự hỏi. “Chiến dịch vận chuyển vũ khí của chúng có lẽ đã đâu vào đấy, chỉ chờ một lệnh: Đi! Việc Mahoney và al-Mansour xuất hiện tại cùng một khách sạn ở Cyprus là chứng minh quá hùng hồn điều đó. Vấn để ta cần phải biết là khi nào, ở đâu, và như thế nào. Đất, biển hay không? Từ đâu đến? Và phương tiện nữa: ôtô, máy bay vận tải hay tàu chở hàng?”

“Anh tin chúng vẫn tiếp tục? ”

“Tôi tin.”

Không cần phải nói cho Rowse biết tại sao anh tin. Rowse không cần biết điều đó. Nhưng còn một tin nữa, từ ông bác sĩ riêng của Quaddafi: Đó sẽ là một chuyến hàng nhiều kiện. Một số vũ khí để dành cho bọn ly khai người Basque, ETA. Số lớn sẽ cho bọn cực hữu Pháp, một tổ chức có tên Hành động Trực tiếp. Số khác là cho nhóm khủng bố CCC (1) người Bỉ, tuy nhỏ, nhưng cực kỳ nguy hiểm. Còn trao cho Cánh Quân Đỏ Nước Đức sẽ là gần nửa số hàng, không nghi ngờ gì nữa, để dành cho các bar mà quân đội Mỹ thường lui tới. Hơn nửa số vũ khí còn lại là cho IRA.

“Chúng có hỏi anh muốn chuyển vũ khí tới đâu cho bọn khủng bố Mỹ, nếu chúng đồng ý bán?” McCready hỏi.

“Có.”

“Anh nói là ở đâu?”

“Bất kỳ chỗ nào ở Tây Âu.”

“Còn kế hoạch để chuyển sang Mỹ?”

“Nói hết cho chúng những điều anh dặn. Rằng vì số hàng có kích thước tương đối nhỏ nên tôi sẽ chuyển về cất trong những garage chỉ mình tôi biết. Rồi sẽ chở đi bằng một xe cắm trại hay xe nhà, có những ngăn bí mật ở thành xe, chạy về phương Bắc, qua Đan Mạch, sang Thụy Điển, Na Uy, rồi từ đó lên một trong rất nhiều máy bay vận tải vẫn hạ cánh xuống Canada hàng ngày, hệt như một nhà du lịch đi xem đời sống hoang đã ở đó!”

“Chúng có thích không?”

“Terpin thích, khen rằng kế hoạch gọn gàng, chu đáo. Al-Mansour thì phản đối vì phải đi qua quá nhiều biên giới. Tôi cho hắn thấy đang là mùa nghỉ, các xe cắm trại chạy loạn lên khắp châu Âu, và ở mỗi trạm tôi sẽ nói là tôi đang trên đường đi đón vợ con ở sân bay thủ đô sắp tới, nơi họ sẽ bay đến. Hắn gật đầu mấy cái liền.”

“Được, coi như ta đã giao được hàng. Giờ chỉ còn đợi xem liệu anh đã thuyết phục được chúng chưa, hoặc sự ham muốn báo thù Nhà Trắng đã khiến chúng mù quáng chưa. Rồi ta sẽ biết.”

“Vậy bây giờ tôi phải làm gì?”

“Anh phải về khách sạn. Nếu chúng cắn cái mồi Mỹ và chịu đóng hàng, al-Mansour sẽ liên lạc với anh. Hãy nhất nhất làm theo hướng dẫn của hắn. Tôi sẽ chỉ tiếp xúc với anh để nhận báo cáo khi điều kiện cho phép.”

“Nếu chúng không cắn câu?”

“Thì chúng sẽ tìm cách bịt miệng anh. Có lẽ chúng sẽ đòi Mahoney và người của hắn làm việc đó để lập đầu danh trạng, thể hiện lòng thành. Vậy là anh sẽ có dịp đối mặt với Mahoney. Có hai SAS sẽ luôn kề vai với anh, và sẽ bảo đảm anh còn sống nguyên.”

Có mà sống, Rowse nghĩ. Bởi cái đó sẽ lộ toẹt ra rằng London đã biết mọi chuyện. Và bọn Ailen sẽ chuyển hướng ngay. Hàng hóa sẽ đến tay chúng bằng con đường khác, ở một nơi khác và vào thời gian khác. Nghĩa là anh luôn luôn sẽ chỉ có một mình.

“Anh muốn có máy phát báo động không?” McCready hỏi. “Để gọi bọn tôi đến ấy mà.”

“Không,” Rowse gạt phắt. Chẳng để làm gì. Sẽ không ma nào đến với anh đâu.

“Vây hãy về khách sạn mà chờ. Và cố đừng để mệt nhoài ra với cái bà Browne xinh đẹp đó. Với chữ e đằng sau. Anh còn cần phải dùng sức nhiều đấy.”

Rồi McCready lẩn vào đám đông. Chính anh nữa, anh cũng biết rằng mình không thể can thiệp nếu bọn Libya hay Ailen tìm đến Rowse. Cái mà anh quyết định sẽ làm là, nếu con cáo Libya không tin Rowse, anh sẽ mang đến một đội mạnh để giám sát Mahoney. Khi hắn đi khỏi đây, chuyến hàng vũ khí của bọn Ailen sẽ lên đường. Theo được Mahoney, anh sẽ theo dấu được đường đi của vũ khí.

Rowse đã đi hết một vòng tu viện và bước ra ánh rực rỡ đi tìm chiếc xe ôtô của mình. Bill, từ trong đám thông trên đỉnh núi thông báo cho Danny biết người của anh ta đang trở về. Mười phút sau, McCready cũng đi, Marks lái xe. Trên con đường xuống núi, họ cho một người nông dân Cypriot đứng bên đường đi nhờ, và như vậy họ đưa được Bill về Pedhoulas.

Mười lăm phút sau khi xe chạy, chiếc máy thông tin của McCready bỗng lẹt xẹt. Danny gọi.

“Mahoney và người của nó đã vào phòng Rowse. Chúng lục soát rất kỹ. Tôi có nên ra đón để báo cho anh ấy biết không?”

“Không! Cắm tại chỗ và theo dõi sát.”

“Nếu tăng tốc, ta có thể đuổi kịp anh ấy,” Marks nói.

McCready liếc đồng hồ. Thật vô nghĩa. Thậm chí anh cũng chẳng thèm tính tới tốc độ xe và khoảng cách đến Pedhoulas.

“Muộn rồi,” anh nói. “Chúng ta không bắt kịp đâu.”

“Khốn khổ cho ông bạn Tom,” Bill nói từ ghế sau.

Hiếm khi Sam McCready nổi cáu trước cấp dưới thế này. “Nếu chúng ta thất bại, nếu đống cứt ấy qua mặt được chúng ta, thì sẽ còn khốn khổ cho không biết bao nhiêu những người bán hàng ở Harrods, những khách du lịch Hyde Park, những đàn bà trẻ em ở khắp đất nước đẫm máu này nữa,” anh quát lên.

Thế là tất cả im lặng cho đến tận Pedhoulas.

Chìa khóa phòng Rowse vẫn treo trong ngăn tủ quầy tiếp tân ở sảnh ngoài khách sạn. Anh tự lấy chìa khóa - chẳng có ai ở quầy cả - và leo lên cầu thang. Khóa cửa phòng anh không bị phá; Mahoney đã lấy chìa ở phòng tiếp tân và dùng xong lại treo vào chỗ cũ. Nhưng cửa không khóa. Rowse nghĩ chắc cô hầu phòng đang dọn giường, thế là anh bước vào.

Một cú đẩy mạnh của ai đó nấp sau cửa làm anh chới với ngã về trước. Cánh cửa đóng sầm lại và một gã to lớn, đứng chấn ngang đó. Các bức ảnh chụp xa của Danny sau đó được một liên lạc mang ngay về Nicosia trong đêm, rồi được fax về London để mang ra nhận diện. Đó là Tim O’ Herlihi, một tên giết người trong Đội quán Derry, còn thằng tóc hoe dữ dằn không kém đứng bên lò sưởi là Eamonn Kane, tên mặt rỗ của Tây Belfast. Mahoney thì ngồi trên chiếc ghế bành duy nhất trong phòng, quay lưng lại cửa sổ, rèm kéo xuống để che bớt ánh sáng. Không một lời, Kane tóm lấy Rowse đang lảo dảo, quay mặt anh lại và đẩy ép vào tường. Những bàn tay nghề nghiệp sờ nắn rất nhanh khắp người Rowse, từ cái sơ mi cộc tay đến hai ống quần. Nếu anh nhận cái máy truyền tin McCready đưa thì đã lộ ngay và trò chơi sẽ chấm dứt ngay lập tức.

Căn phòng bị lục lọi tơi bời, tất cả đều bị lôi ra và đều bị đổ tung tóe trên sàn. Chỉ mỗi điều làm Rowse yên tâm là anh chẳng mang theo gì ngoài những vật dụng của một nhà văn trên đường tìm kiếm tư liệu: sổ ghi chép, bản đồ và sách hướng dẫn du lịch, máy chữ xách tay, quần áo, bộ đồ tắm nữa. Hộ chiếu của anh vẫn nhét trong túi quần sau. Kane rút nó ra và đưa cho Mahoney. Hắn xem, nhưng nó chẳng chứa đựng điều gì mới mẻ với hắn.

“Sao, người của SASS [2], bây giờ mày sẽ nói cho tao nghe mày làm cái đéo gì ở đây?”

Trên mặt hắn xuất hiện nụ cười mê hồn như mọi khi, nhưng nụ cười ấy không lên đến đôi mắt.

“Tôi không hiểu các ông nói gì,” Rowse phẫn nộ đáp.

Kane giáng quả đấm làm Rowse nổ đom đóm mắt. Nếu 0’Herlihy không đứng sát sau anh và Kane không đứng gần đến thế, chắc anh đã tránh được. Song, thậm chí không kể đến Mahoney thì chênh lệch hai bên vẫn là quá lớn. Vả lại, những thằng này đều đâu phải tay mơ. Rowse kêu lên và đổ nhào xuống sàn, thở nặng nhọc.

“Mày hiểu chưa? Hiểu chưa?” Mahoney nói mà không thèm lên giọng. “Thông thường tao không phí lời, nhưng với mày, tao giành cho một biệt lệ, thằng SASS ạ. Một người bạn tao ở Hamburg đã nhận ra mày, mấy tuần trước. Tom Rowse, cựu đại úy trung đoàn Đặc nhiệm Không lực, đã hỏi những câu tức cười. Rồi sau đó là hai chuyến đi, và bây giờ thò mặt ở đây, giữa đảo Cyprus này, khi tao và bạn bè đang nghỉ ngơi thư thái. Vậy tao nhắc lại, mày đang làm cái gì ở đây?”

“Coi,” Rowse đáp. “Đúng là tôi đã ở SAS, nhưng ra rồi, không dính dáng gì. Thậm chí đã tố cáo hết thảy bọn chó đẻ đó, ba năm trước đây. Bây giờ thì ra hẳn rồi, ra hoàn toàn. Nếu tôi có bị cháy thì chúng cũng chẳng cứu đâu. Tôi viết sách kiếm sống. Sách trinh thám. Thế thôi.”

Mahoney gật đầu với tên 0’Herlihy. Quả đấm từ phía sau nhằm vào ngang thắt lưng anh. Anh gào lên rồi khuỵu gối xuống. Bất chấp chênh lệch, anh có thể đủ sức đánh lại và quật ngã ít nhất một thằng, cũng có thể cả đôi, trước khi chịu gục. Nhưng anh cắn răng chịu đau và đổ xuống.

Mặc cho Mahoney ngạo mạn, Rowse ngờ rằng hắn đang lúng túng. Chắc hắn phải thấy Rowse và al-Mansour chuyện trò trên sân thượng đêm qua. Rowse vừa từ cuộc tra khảo cả đêm trở về còn Mahoney thì đang ở ngưỡng cửa những ân huệ to lớn của al-Mansour. Không, tên IRA sẽ không thể trở nên nguy hiểm chết người với anh được. Chưa phải bây giờ - nó chỉ làm thế cho vui thôi.

“Mày dối trá, thằng SASS, và tao không ưa thế. Tao đã nghe cái chuyện chỉ - tìm - tư - liệu - viết - sách mãi rồi. Mày thấy đấy, người Ailen rất có văn hóa. Còn nhiều câu hỏi mày đưa ra thì lại chẳng hề có tính văn học gì. Vậy thì mày làm gì ở đây?”

“Truyện trinh thám,” Rowse khò khè. “Truyện trinh thám bây giờ phải rất chính xác. Không thể qua mắt độc giả với cái lối mô tả đại khái đâu. Hãy xem John Le Carre hay Clancy [3], họ không xem xét đến những chi tiết nhỏ nhất sao? Bây giờ chỉ có một cách ấy thôi.”

“Thế à? Và cả cái ông bên kia bờ biển mà mày trò chuyện tối qua, ông ấy cũng viết chung với mày sao?”

“Đó là chuyện riêng của chúng tôi, đi mà hỏi ông ấy.”

“Ồ, tao hỏi rồi, thằng SASS, hỏi sáng nay, qua điện thoại. Và ông ấy muốn tao để mắt đến mày. Còn nếu là chuyện của riêng tao thì tao đã ném mày từ đỉnh núi cao nhất xuống. Nhưng bạn tao lại yêu cầu tao trông nom mày. Đó là cái mà tao sẽ làm, cả ngày lẫn đêm, cho tới khi mày rời khỏi đây. Nhưng đó là toàn bộ những gì ông ta cần ở tao. Còn giữa tao với mày, có chút tình xưa cũ nữa.”

Kane và 0’Herlihy nhảy vào. Mahoney chỉ đứng nhìn. Khi đôi chân đã hết chịu nổi, Rowse đổ nhào xuống sàn, gập người lại, cố che phần bụng dưới và bộ phận sinh dục để tránh những cú đá, cảm thấy từng mũi giầy móc vào lưng, vai, ngực, mạng sườn... làm dội lên những làn sóng đau đớn, cho đến khi một màu đen dễ chịu sụp xuống mắt, sau cú đá vào gáy.

Những gì diễn ra tiếp theo giống hệt với một người bị tai nạn giao thông: đầu tiên là một thức tỉnh chậm chạp rằng mình vẫn còn sống, rồi sau đó là cảm giác đau trở lại. Bên dưới quần áo, toàn thân anh là vết thương lớn.

Anh vẫn nằm úp mặt xuống, và ngắm nghía hồi lâu những sợi dệt trên tấm thảm. Rồi anh lật người lại: thật sai lầm. Anh đưa một bàn tay che mặt. Có cục u nổi lên ngay dưới mắt trái; nếu không hẳn nó đã khá giống bộ mặt mà anh vẫn cạo râu hàng ngày. Anh gắng sức ngồi dậy và bỗng co rúm lại. Có cánh tay ai đang đỡ đằng sau, giúp anh ngồi lại.

“Chuyện gì xảy ra thế?” Nàng hỏi.

Monica Browne đang quỳ cạnh anh, vòng tay qua vai anh, những ngón tay mát lạnh của nàng sờ vào cục u dưới mắt anh.

“Tôi đi qua, nhìn thấy cửa mở hé...”

Sao lại trùng khớp thế, anh nghĩ, rồi lập tức gạt bỏ.

“Tôi bị choáng và ngã đập mặt xuống khi bước vào phòng.” Anh nói.

“Ông bị ngã trước hay là sau khi đã dỡ tung cả phòng ra thế này?”

Anh nhìn quanh, quên bẵng những ngăn kéo rỗng và đám quần áo, giấy tờ tứ tung.

Nàng cài hộ anh cái nút áo bị bật ra. “Lạy trời, ngã gì mà ghê thế,” nàng chỉ nói vậy. Đoạn nàng giúp anh đứng lên và dìu tới giường, đẩy anh ngã xuống đệm, nhấc chân anh lên và lăn anh vào đúng chỗ.

“Đừng dậy,” nàng nói, hoàn toàn không cần thiết. “Tôi có dầu xoa bóp đang để bên phòng.”

Nàng trở lại sau vài phút, đóng cửa, và xoay chìa khóa một vòng. Nàng cởi nút chiếc sơ mi vải bông hiệu Sea Island của anh và lôi nó ra khỏi vai anh, rên rỉ trước những vết bầm nay đã mang màu xanh tím, trang điểm cho ngực và sườn anh.

Anh thấy rã rời hoàn toàn, nhưng nàng dường như biết rõ mình đang làm gì. Một cái lọ nhỏ được mở nút và những ngón tay êm ái xoa dầu lên những vết đau. Chúng rát bỏng khiến anh phải kêu lên.

“Dầu rất tốt, nó sẽ làm hết sưng tẩy, hết tím bầm. Nào, lật người lại nhé.”

Nàng xoa dầu lên bả vai và lên lưng anh.

“Tại sao bà lại mang dầu theo?” Anh thì thào. “Chẳng lẽ tất cả những người cùng ăn tối với bà đều có cái kết thúc này?”

“Đây là dầu cho ngựa,” nàng nói.

“Thế thì xin vô cùng cảm ơn.”

“Thôi cái giọng châm chọc đó đi, dầu này có cũng công dụng với những tên đàn ông ngốc nghếch. Lật người lại.”

Anh tuân theo.

Nàng đứng lên, mái tóc vàng rực rỡ xõa xượi trên vai.

“Chúng nó đánh cả vào chân anh nữa à?”

“Khắp người.”

Nàng cởi nút quần cho anh rồi nhẹ nhàng kéo xuống. Đó không phải chuyện xa lạ gì với người vợ trẻ có đức ông chồng be bét. Ngoài một cục u dưới đầu gối bên phải, còn đến nửa tá những chỗ bầm dập khắp hai chân. Nàng xoa dầu lên đó. Sau cái bỏng rát là cảm giác thực sự dễ chịu. Mùi dầu gợi cho anh nhớ những ngày chơi Rugby, hồi còn đi học. Nàng thôi xoa dầu và đặt cái lọ xuống.

“Chỗ ấy có bị không?” Nàng hỏi. Anh nhìn xuống chiếc quần đùi. Không, không có vết nào ở đó cả.

“Cám ơn Chúa!” Nàng lẩm bẩm rồi xoay người đi và với tay vào chiếc khóa kéo ở đằng sau chiếc váy lụa thô màu kem. Ánh sáng xuyên qua màn cửa làm cho căn phòng tối tối, lành lạnh.

“Em học cách điều trị vết thương ở đâu?” Anh hỏi.

Sau khi được xoa bóp anh lơ mơ buồn ngủ. cả đầu óc anh cũng mơ mơ màng màng.

“Ở Kentucky, thằng em em cũng là tay đua ngựa nghiệp dư. Em băng bó cho nó nhiều rồi.”

Chiếc váy màu kem rớt xuống sàn, trông như một vũng nước. Nàng mặc đồ lót Janet Reger loại nhỏ, không nịt vú, mặc cho đôi bầu vú săn chắc và trĩu nặng tự do cựa quậy. Nàng quay lại phía anh. Rowse nuốt khan.

“Nhưng còn việc này thì em chẳng cần học ai.”

Trong một thoáng, ý nghĩ về Nikki chợt đến với anh, nhưng rồi tan biến tức khắc. Anh chưa ngủ với người đàn bà nào khác, kể từ khi cưới Nikki. Nhưng, anh nghĩ, một người chiến sĩ có cũng lúc phải giải trí và nếu đó là sự dâng hiến, thì không thể từ chối.

Anh vươn người dậy đón nàng nhưng nàng đã đẩy anh xuống gối.

“Nằm yên nào, anhh còn yếu, chưa làm được đâu.”

Nhưng suốt cả một giờ sau hoặc lâu hơn nữa, nàng dường như hoàn toàn bị thuyết phục là mình đã nghĩ sai.

Đến tận bốn giờ chiều, nàng dậy và băng qua phòng để kéo màn cửa sổ lên. Mặt trời đã xuống ngang rặng núi.

Phía bên kia, Danny chỉnh lại độ nét ống kính và rủa. “Trời, xem cái thằng chó đẻ Tom kìa.”

Cuộc tình kéo dài suốt ba ngày. Chưa thấy ngựa từ Syria gửi đến, cũng chẳng có tin tức gì của Hakim al- Mansour. Hôm nào nàng cũng hỏi tin qua người đại lý của mình ở cảng, nhưng câu trả lời lúc nào cũng giống nhau, “Ngày mai.” Vậy là suốt ngày họ dạo chơi trên những dốc núi cao bên trên những vườn anh đào, nơi mọc đầy cây linh sam, và làm tình giữa đám lá thông.

Họ ăn sáng và ăn tối trên sân thượng, trong khi Danny và Bill lặng lẽ quan sát từ bên kia thung lũng và Mahoney cùng đồng bọn gườm gườm nhìn từ trong bar.

McCready và Marks thuê phòng tại nhà nghỉ trong làng. Anh đã tập hợp thêm vài người từ trạm Nicosia, và vài người nữa từ trạm Malta. Chừng nào mà Hakim al- Mansour còn chưa gặp lại Rowse để cho biết được hay không được, thì mấu chốt vẫn là vụ Alien Mahoney và hai đồng bọn. Chính chúng lo việc vũ khí của IRA nên chúng còn ở đây thì chiến dịch sẽ chưa thể bắt đầu.

Hai trung sĩ SAS bám theo Rowse; những người còn lại ngày đêm theo dõi chặt chẽ bọn IRA.

Vào ngày thứ hai của cuộc tình Rowse-Monica, đội của McCready đã chiếm lĩnh xong vị trí, rải rác giữa những ngọn núi bao quanh các đường ra vào của khu vực.

Điện thoại vào khách sạn bị nghe trộm và ghi băng. Tốp theo dõi giấu mình trong khách sạn kề bên, rất ít trong số họ sử dụng được tiếng Hy Lạp, nhưng do có khá nhiều du khách tới đây nên không gây ra sự nghi ngờ.

Bọn Mahoney không hề thấy ra khỏi khách sạn. Cả chúng nữa, như cũng đang đợi một cuộc viếng thăm, một cú phôn, hay một thư đưa tay gì đó.

Ngày thứ ba, Rowse, như thường lệ, tỉnh dậy sau lúc bình minh lấp ló. Monica vẫn ngủ, và thường chính Rowse là người đón khay cà phê sáng từ tay bồi, ở ngưỡng cửa. Khi nhắc bình cà phê lên để rót vào tách cho mình, anh thấy một mảnh giấy gấp ở dưới đáy. Anh đặt nó lên đĩa rồi đặt tách cà phê chặn lên, rồi bưng cả vào phòng tắm.

Mảnh giấy vẻn vẹn “Khách sạn Rosalind, Paphos, 11 giờ đêm. Aziz”

Cũng là vấn đề đây, Rowse nghĩ trong lúc xối nước cho những mảnh vụn của bức thư trôi xuống bệ xí. Lừa được Monica để có mấy giờ cần thiết đi đến Paphos rồi lại về trong đêm thật chẳng dễ dàng gì.

Vấn đề được giải quyết vào lúc giữa trưa, khi số phận bất ngờ can thiệp dưới dạng viên đại lý vận tải của Monica gọi điện cho biết ba con ngựa giống từ Latakia sẽ tới cảng Limassol tối nay và liệu nàng có thể đến để chứng kiến việc làm thủ tục và thu xếp cho chúng vào các chuồng ngoài bên cảng không?

Nàng đi lúc bốn giờ và Rowse đã khiến đội tháp tùng nhẹ cả người khi anh đi bộ vào làng Pedhoulas rồi gọi điện từ đó về, nói với viên quản lý khách sạn rằng anh phải đến Paphos ăn tối và con đường nào, xin làm ơn cho biết, là thuận lợi nhất để tới đó? Mẩu tin đã lọt tai những người nghe trộm và được chuyển tới McCready.

Câu lạc bộ Rosalina hóa ra là một casino ở khu phố cổ kính. Rowse bước vào và nhanh chóng nhận ra bóng dáng mảnh mai, hào hoa của Hakim al-Mansour ngồi bên một trong những bàn roulette. Có một ghế trống bên cạnh hắn. Rowse ngồi vào đó.

“Xin chào ngài Aziz. Thật là một ngạc nhiên dễ chịu.”

AI-Mansour nghiêng đầu một cách trang nghiêm. “Mời đặt tiền,” hồ lỳ gọi.

Tên Libya để chồng phỉnh lên một ô số. Bánh xe quay và viên bi trắng nhảy nhót rồi cuối cùng nằm im ở một ô số lạ lẫm. Tên Libya chẳng có vẻ gì cáu giận khi hàng đống phỉnh của hắn bị vét nhẵn. Riêng một lần đặt cửa này đã đủ tiền cho một trang trại Libya sống một tháng.

‘‘Rất mừng là ông đến đây,” al-Mansour nói nghiêm trang. “Tôi có tin cho ông. Tin mừng, chắc ông sẽ hài lòng. Thật là dễ chịu khi được mang đến những tin mừng.”

Rowse nhẹ cả người. Sáng nay, nguyên cái chuyện tên Libya gửi thư đến cho anh chứ không phải là gửi một mệnh lệnh cho Mahoney thủ tiêu tên người Anh cho mất xác giữa vùng núi này, đã là đầy hy vọng rồi. Giờ xem chừng còn tốt hơn.

Rowse ngồi xem tên Libya mất thêm vài chồng phỉnh nữa. Anh vốn ghét đánh bạc và coi bánh xe roullette là một cái gì ngu ngốc nhất và phiền hà nhất mà loài người đã phát minh ra. Nhưng máu mê cờ bạc của người Arab chỉ có thể so sánh với người Trung Hoa, đến nỗi một kẻ máu lạnh như al-Mansour cũng đắm đuối vào đó.

“Tôi sung sướng báo ông biết,” al-Mansour nói trong khi đặt chồng phỉnh lên bàn, “Lãnh tụ quang vinh của chúng tôi đã chấp nhận lời thỉnh cầu của ông. Các thiết bị ông tìm kiếm sẽ được cung cấp, toàn bộ. Ông nói gì nào?”.

“Tôi... thật vui mừng,” Rowse nói. “Tôi đảm bảo thân chủ của tôi sẽ... sử dụng nó đúng chỗ.”

“Chúng tôi mong mọi việc sẽ được như thế. Đó là điều mà lính Anh vẫn nói, mục tiêu của diễn tập.”

“Ông muốn thanh toán dưới hình thức nào?”

Tên Libya phẩy tay tỏ vẻ phản đối. “Hãy coi nó là quà tặng của Lãnh tụ Nhân dân, ông Rowse.”

“Tôi xin tỏ lòng biết ơn, và chắc chắn thân chủ của tôi cũng vậy.”

“Tôi ngờ vực điều đó lắm, bởi có họa là ngu thì mới cho chúng biết chuyện đó. Còn ông thì chẳng có vẻ ngu ngốc chút nào. Một người hăng hái thì có thể, nhưng ngu thì không. Vậy thì bây giờ đang có dịp kiếm nửa triệu chứ không phải một trăm nghìn đô, chẳng lẽ ông lại không định chia cho tôi? Năm mươi - Năm mươi nhé, OK?”

“Dĩ nhiên là số tiền đó để cho cuộc chiến sắp tới.”

“Dĩ nhiên.”

Để dành cho về hưu thì có lẽ đúng hơn, Rowse nghĩ, “Ngài Aziz, ngài đã có lời cam kết của tôi. Khi nào rút được tiền của khách hàng, tôi xin gửi ngài một nửa.”

“Tôi hy vọng thế lắm,” al-Mansour lẩm bẩm. Lần này hắn thắng, một chồng phỉnh được đẩy về phía hắn.

Mặc dù cốt cách chịu chơi, hắn vẫn rất sung sướng. “Tay tôi dài lắm đấy.”

“Xin ngài cứ yên tâm mà tin tôi,” Rowse nói.

“Ông bạn thân mến ơi, cái đó trong thế giới của chúng tôi... sẽ bị coi là xúc phạm ghê gớm lắm đấy.”

“Tôi cần phải biết về việc chuyên chở. Nhận hàng ở đâu, khi nào?”

“Rồi ông sẽ biết. Rất sớm thôi. Ông yêu cầu một cảng ở châu Âu. Tôi nghĩ việc đó có thể thu xếp được. Hãy trở lại Apollonia và tôi sẽ sớm tiếp xúc với ông.”

Hắn đứng dậy và gạt cho Rowse tất cả số phỉnh còn lại. “Đừng có rời casino trước mười lăm phút nữa,” hắn nói, “ vui chơi đi.”

Rowse chờ đủ mười lăm phút, rồi đổi phỉnh lại thành tiền. Anh muốn mua một cái gì xinh xinh cho Nikki.

Anh đi bộ đến chỗ xe đỗ. Bởi vì đường xá ở khu phố cổ rất hẹp nên đỗ xe phải trả khá nhiều tiền, ngay cả lúc đêm hôm thế này. Xe anh đỗ cách sau đó hai phố. Anh không nhìn thấy cả Danny lẫn Bill đứng tại các khuôn cửa ở cả hai đầu phố. Khi đến bên xe, anh thấy một ông già mặc bộ quần áo lao động, đội mũ cát két đang quét rác trong rãnh nước với một cái chổi cán dài.

“Kali Spera,” ông già cất tiếng khàn khàn.

“Kali Spera” Rowse đáp. Anh dừng lại. Ông già này là một trong số những người bị cuộc đời đánh gục, cam chịu làm những công việc giản đơn nhếch nhác kiếm sống, những người nhan nhản trên thế giới này. Anh nhớ đến bó tiền mà al-Mansour được bạc khi nãy, rút ra một tờ lớn nhét vào túi ngực ông.

“Ôi, bạn Tom thân mến của tôi,” người quét đường nói. “Tôi biết bạn là người có tấm lòng vàng mà.”

“Anh làm cái gì ở đây, McCready?”

“Cứ lúc lắc chùm chìa khóa xe của anh và kể tôi nghe chuyện gì đã xảy ra,” McCready vừa nói vừa đẩy cái chổi dọc rãnh nước.

Rowse kể hết.

“Tốt,” McCready nói. “Có vẻ như cả một chuyến tàu thủy. Có thể là chúng chất cái thùng nhỏ của anh vào cả một kiện hàng lớn của IRA. Ta phải hy vọng như vậy. Còn nếu hàng của anh được gửi trong một Container khác, đi bằng đường khác, thì chúng ta lại trở về điểm xuất phát. Phải đi cùng với Mahoney. Nhưng vì món đó số lượng chỉ vừa đủ một xe nhỏ, cho nên chúng có thể đóng chung vào với chỗ kia. Có đoán được cảng nào không?”

“Không, chỉ biết ở châu Âu.”

“Về khách sạn đi, và làm đúng những điều hắn dặn.”

Rowse lái xe đi, Danny, sau đó cũng bám theo với xe môtô để đảm bảo Rowse không có đuôi.

Trên đường về, McCready ngồi băng sau, im lặng suy nghĩ. Con tàu, nếu đúng là có một con tàu, chắc sẽ không mang dáng kiểm Libya, tất nhiên thế. Có thể là chiếc tàu thuê với thuyền trưởng và thủy thủ đoàn Câm - Lặng. Những của ấy đầy ra ở phía đông Địa Trung Hải và Cyprus là một nơi quá tiện để đăng kiểm.

Nếu tàu đó được thuê ở địa phương này, nó sẽ phải đi Libya để chất vũ khí, có lẽ sẽ được vùi bên dưới những kiện hàng hoàn toàn bình thường như ôliu hay chà là đóng thùng. Chắc là bọn IRA sẽ đi cùng với hàng. Khi chúng rời khách sạn, sống chết cũng phải bám theo để biết được tên con tàu mà bàn giao sau này.

Một khi đã biết thì chỉ còn là việc cho tàu ngầm bám theo nó. Chiếc tàu ngầm đã đợi sẵn ở ngoài khơi Malta. Một chiếc Nimrod của không lực Hoàng gia Anh từ căn cứ Không lực Anh quốc ở Akrotiri thuộc Cyprus sẽ dẫn chiếc tàu ngầm đến mục tiêu, và nó sẽ làm phần việc còn lại cho đến khi bàn giao được cho các chiến hạm nổi của hải quân Hoàng gia ở eo biển Măngsơ (Manche).

McCready cần phải biết được tên con tàu, hoặc ít nhất cũng phải là tên cảng mà nó đến. Chỉ cần tên cảng là đủ để anh nhờ bạn bè ở tỉnh báo Hàng Hải Lloyds tìm xem tàu nào đăng ký thả neo ở đó và vào những ngày nào. Như vậy đỡ biết mấy. Lúc đó chẳng cần theo Mahoney nữa. Nghĩa là chỉ cần bọn Libya nói cho Rowse biết.

Tin nhắn đến Rowse hai mươi bốn giờ sau, qua điện thoại, không phải giọng al-Mansour. Sau này, các chuyên gia xác định đó là người ở Văn phòng Nhân dân Nicosia.

“Về nhà đi, ông Rowse, người ta sẽ đến gặp ông ở đó. Ôliu của ông sẽ được chở bằng tàu thủy đến một cảng ở châu Âu. Sẽ có người đến gặp và cho ông biết chi tiết.”

McCready nghiên cứu đoạn băng, thoáng lo âu. Al- Mansour nghi ngờ điều gì chăng? Hay hắn đã phát hiện được Rowse và muốn thông qua anh làm một quả lừa kép? Nếu đoán được ông chủ thực sự của Rowse là ai, hắn sẽ biết ngay rằng nhóm của Mahoney cũng đang bị theo dõi. Do đó hắn bảo Rowse về Anh quốc để cắt cái đuôi của Mahoney? Có thể lắm.

Rất có khả năng như vậy. McCready đành quyết định chơi cả hai đầu. Anh sẽ cùng Rowse về London, nhưng vẫn để đội gác ở lại với Mahoney.

Sáng hôm sau, Rowse quyết định nói với Monica. Anh đã từ Paphos về tới khách sạn trước. Nàng đi Limassol, về lúc ba giờ sáng, mặt đỏ hồng lên, kích động. Ngựa của nàng đã tới, trong điều kiện rất tốt, hiện đang ở tại tàu ngựa ngay ngoài Limassol... Nàng kể vậy trong lúc cởi quần áo, và nói thêm, chỉ còn vài thủ tục thông thường nữa là sẽ đưa chúng về Anh.

Rowse dậy đã sớm, nhưng sáng nay nàng còn dậy sớm hơn. Anh liếc nhìn chỗ nằm trống bên cạnh rồi đi dọc hành lang xuống buồng nàng tìm. Người ta đưa cho anh bức thư, chỉ vài dòng trong một phong bì của khách sạn.

Tom thân yêu! Cái đó thật tuyệt vời nhưng đã đến lúc phải chia tay. Em về đây, về với chồng em, với cuộc sống của em, và với những con ngựa. Hãy nghĩ tốt về em nhé! Như em sẽ nghĩ tốt về anh.

Monica yêu anh.

Anh thở dài. Đã hai lần anh nghĩ khác về nàng, cho rằng nàng không phải là con người mà nàng cố tỏ ra. Đọc thư, anh mới thấy mình đã đúng trong lần gặp mặt - nàng thật sự là đàn bà. Anh cũng có cuộc đời thường của mình - với ngôi nhà ở quê hương, với nghiệp văn chương và với Nikki của anh. Bỗng nhiên, anh nhớ Nikki cồn cào.

Khi lái xe đến sân bay Nicosia, Rowse đoán hai viên trung sĩ chắc ở đâu đó sau anh. Đúng thế. Nhưng McCready thì không thấy đâu. Trưởng trạm Nicosia đã tìm được cho Sam một máy bay liên lạc của không lực Hoàng gia Anh bay tới Lyneham, Wietshire, cất cánh trước rồi.

Gần trưa, Rowse nhìn qua cửa sổ máy bay xuống vùng núi Troodos xanh rì. Anh nghĩ về Monica, nghĩ về Mahoney vẫn ngồi dựa lưng vào bar rượu, về al-Mansour, và thấy vui sướng vì mình đã trở về. Cũng bởi vì những cánh đồng xanh của Gloucestershire an toàn biết mấy so với những lòng chảo Cận Đông.

Chú thích:

[1] CCC= Cellules Communistes Combattantes

[2] SASS: Chính ra là SAS- lực lượng Đặc nhiệm Không lực, nhưng do cách phát âm hơi kéo dài của người Ailen. Mặt khác, SASS trong tiếng Anh lại có nghĩa là tên láo xược

[3] Những nhà văn nổi tiếng.