← Quay lại trang sách

Chương 5 (tt)

Hai chiếc xe cảnh sát không dấu hiệu đã chạy xa. McCready và Rowse leo lên chiếc Jaguar. Họ phải lập tức ra khỏi công viên vì nó sắp đóng cửa lại, ngay lập tức.

“Khi mọi việc kết thúc,” Rowse hỏi, “Liệu chúng có đến tìm tôi hoặc Nikki không?”

“Chúng chưa từng làm điều như thế. Al-Mansour là dân chuyên nghiệp. Cũng giống tôi, hắn chấp nhận đã vào cuộc chơi thì có khi thắng khi thua, và sẽ nhún vai bắt tay vào việc khác. Mahoney thì lưu manh hơn là tôi biết, nhưng hàng hai mươi năm nay IRA chỉ nhắm vào những kẻ chỉ điểm chúng hoặc những người nắm giữ quyền chức. Tôi tin rằng hắn sẽ ngại trở về Ailen để giải hòa với Hội đồng Quân đội IRA về những rủi ro hắn đã gây ra, bởi ít nhất cũng bị cảnh báo về những vụ trả thù cá nhân. Vậy hãy cố chịu đựng vài ngày nữa, rồi đâu sẽ vào đấy.”

Rowse lái xe về Gloucestershire sáng hôm sau, lại khoác lên mình bộ đồ nghề của cuộc sống cũ, và chờ đợi. Anh cứ hình dung là khi nhận được thông tin liên quan tới bến đỗ của con tàu vũ khí, anh sẽ chuyển cho McCready. Đội SIS sẽ theo dấu con tàu từ đó, qua Địa Trung Hải, bắt giữ nó ở Đông Đại Tây dương hoặc eo biển Manche, cùng với bọn Mahoney. Anh cứ nghĩ đơn giản thế.

Tin đến vào bảy ngày sau. Một chiếc Porsche đen bóng tạt vào hè nhà Rowse và một tay trẻ tuổi bước ra, nhìn quanh thảm cỏ xanh mượt và những bồn hoa trong ánh mặt trời cuối tháng Năm. Gã tóc đen, coi bộ ủ rũ và đến từ một đất nước cằn cỗi, khô khát.

“Tom,” Nikki gọi. “Có ai tìm anh này.”

Rowse từ sau vườn đi vòng ra. Anh không dể lộ gì trên cái mặt nạ tươi cười, niềm nở, nhưng nhận ra ngay gã. Đó là cái đuôi đã theo anh từ Tripoli đến Valletta, rồi đứng nhìn theo anh bay đi Cyprus, hai tuần trước.

“Ông Rowse?’

“Phải.”

“Tôi mang tin của Mr. Aziz đến.” Tiếng Anh của gã nghe cũng được, nhưng quá cẩn thận, đến mức mất hết cả trôi chảy. Gã đọc đoạn tin đã học thuộc lòng.

“Hàng của ông sẽ về cảng Bremerhaven. Ba thùng gỗ, dán nhãn máy văn phòng. Chỉ cần chữ ký thường ngày của ông là lấy được hàng. Bến Không Chín, Kho Neuberg. Phố Rossmannstrasse. Ồng phải lấy hàng trong 24 giờ kể từ lúc tàu vào cảng, nếu không hàng sẽ mất. Rõ chưa?”

Rowse nhắc lại chính xác và ghi nhớ trong óc. Tên trẻ tuổi bước vào xe.

“Còn một việc nữa. Bao giờ? Ngày nào?”

“À, phải. Ngày hai mươi bốn. Hàng về vào trưa ngày hai bốn.” Gã lái xe đi, để lại Rowse đứng đó, miệng há hốc vì kinh ngạc. Vài phút sau, anh phi vội vào làng để gọi điện thoại công cộng sau khi đã kiểm tra chắc chắn rằng không có đuôi. Điện thoại nhà bị nghe trộm, các chuyên gia đã khẳng định, cứ phải để như thế thêm thời gian nữa.

“Chúng định âm mưu gì với chuyện ngày hai mươi bốn?” McCready cáu kỉnh nhắc lại đến lần thứ mười. “Chỉ còn ba ngày! Ba ngày chết tiệt!”

“Mahoney vẫn ở đó chứ?” Rowse hỏi. Do McCready dứt khoát yêu cầu, anh vừa lên London và họ gặp nhau ở một trong những nhà an toàn của Hãng, căn hộ ở Chelsea, vẫn chưa thể đưa Rowse về Nhà Thế Kỷ được - một cách chính thức, anh vẫn là người bị chối bỏ ở đó.

“Phải, vẫn loanh quanh ở bar rượu của Apollonia, với mấy lâu la xung quanh, vẫn đợi chờ tin của al-Mansour, vẫn bị đội của tôi giám sát.”

McCready đã dự đoán hai khả năng. Hoặc bọn Libya lừa dối về chuyện ngày hai mươi bốn, một test nữa với Rowse, để xem cảnh sát có chộp cái kho ở Neuberg không. Nếu có thì al-Mansour sẽ đủ thì giờ cho con tàu của hắn đến nơi khác. Hoặc chính anh, McCready, đã bị lừa. Bọn Mahoney chỉ là con chim mồi mà chính chúng cũng chẳng biết.

Chỉ có một điều là anh chắc chắn biết: không một con tàu nào có thể từ Cypurs đến Bremerhaven, qua Tripoli hoặc là Sirte, trong vòng ba ngày. Khi Rowse báo tin, McCready đã tham khảo ý kiến bạn mình ở Dibben Place, Colchester, đại bản doanh của tình báo Hàng hải Lloyds. Anh ta đã tính toán chắc chắn. Một, ít nhất phải mất cả ngày một chiếc tàu mới có thể đi, chẳng hạn, từ Paphos đến Tripoli hoặc Sirte. Rồi một ngày nữa để chất hàng, mà chắc là phải làm về đêm. Hai ngày nữa đến Gibralta, rồi phải bốn đến năm ngày mới tới bắc Đức. Tối thiểu bảy ngày, có thể phải đến tám.

Vậy thì đó là một test đối với Rowse hoặc là con tàu vũ khí đã ở sẵn trên biển. Cũng theo người ở Lloyds, để cập bến Bremerhaven vào ngày hai mươi bốn, bây giờ nó đang phải ở đâu đó phía tây Lisbon, đang trên đường lên hướng bắc, vượt qua Finisterre.

Lloyds đã tiến hành kiểm tra tên các con tàu sẽ cập bến Bremerhaven ngày hai mươi bốn, xuất phát từ một cảng ở Địa Trung Hải. Chuông điện thoại reo. Đó là cú phôn của chuyên gia ở Lloyds được chuyển đến nhà an toàn ở Chelsea.

“Không có,” anh ta nói. “Không có tàu nào từ Địa Trung Hải đến vào ngày hai mươi bốn. Anh được thông tin sai.”

Ghê gớm thật, McCready nghĩ. Hakim al-Mansour đã gắng hết sức để làm chủ trò chơi này. Anh quay lại Rowse.

“Ngoài Mahoney và đồng bọn, có còn bất kỳ ai nữa ở khách sạn có hơi hướng IRA không?”

Rowse lắc đầu

“Tôi e là phải giở lại những tập ảnh cũ,” McCready nói. “Xem thật kỹ chúng. Nếu có bất cứ cái mặt nào - mà anh thoáng thấy ở Tripoli, Malta, Cyprus thì hãy cho tôi biết ngay. Hãy xem một mình, tôi còn nhiều việc quá.”

Thậm chí McCready chả buồn xin phép Nhà Thế Kỷ về việc cầu cứu sự viện trợ của Mỹ. Còn quá ít thời gian để thông tin qua lại. Anh đến gặp thẳng trạm trưởng CIA.

“Chà, Sam, tôi không giúp được. Chuyển hướng một vệ tinh đâu có dễ. Anh không sử dụng được Nimrod sao?”

Các máy bay Nimrod của không lực Hoàng gia có thể chụp những bức ảnh rất nét về các tàu trên biển, nhưng chúng thường phải bay thấp nên hay bị phát hiện ra. Nếu không có tọa độ rõ ràng, chúng phải vòng đi vòng lại rất nhiều lần mới bao được một vùng rộng lớn.

McCready suy nghĩ rất lung. Nếu biết chắc chuyến hàng trót lọt và đã nằm trong tay IRA, anh sẽ không để phí phút nào, báo ngay cho CIA biết về hiểm họa đang đe dọa đại sứ của họ ở London, theo lời ông bác sĩ Libya.

Nhưng bao tuần nay, mối quan tâm chính của anh là ngăn chặn việc chuyên chở vũ khí đến được địa chỉ của nó. Bây giờ cần phải có sự giúp đỡ của CIA, anh đành bộc lộ bí mật, kể Carver nghe về mối đe dọa.

Carver bật dậy khỏi ghế. “Lạy Chúa, Sam!” Anh ta kêu lên. Cả hai đều biết cái thảm họa đại sứ Mỹ bị giết dã man trên đất Anh là thế nào. “Anh sẽ có được cái vệ tinh cứt đái của anh,” Carver nói “Nhưng lần sau thì cái đồ khốn kiếp nhà anh phải nói cho tôi biết sớm hơn nhé.”

Có lẽ đã nửa đêm. Rowse mệt mỏi trở lại với Tập Một, là tập về những ngày xưa. Anh đang ngồi bên một chuyên gia về ảnh từ Nhà Thế Kỷ đến. Một máy chiếu và một màn ảnh được bố trí sao cho các ảnh chiếu lên có thể thay đổi được các chi tiết trên bộ mặt.

Gần một giờ sáng, Rowse dừng lại.

“Cái này,” anh nói. “Chiếu lên màn xem nào?”

Khuôn mặt phóng to kín cả bức tường.

“Đừng có ngớ ngẩn,” McCready nói. “Hắn đã ra ngoài cuộc bao năm rồi. Một ông cụ, sống trên núi.”

Khuôn mặt đó đang nhìn họ, cặp mắt mệt mỏi sau cặp kính dầy, mớ tóc xám phủ lên cái trán dày nếp nhăn.

“Bỏ kính đi,” Rowse nói với chuyên gia ảnh. “Gắn cho hắn cặp kính sát tròng màu nâu.”

Kỹ thuật viên làm theo, cặp kính biến mất và đôi mắt chuyển từ xanh sang nâu.

“Bức ảnh này bao lâu rồi?”

“Khoảng mười năm,” kỹ thuật viên đáp.

“Tăng cho hắn mười tuổi. Tóc mỏng bớt, nhiều nếp nhăn hơn, cằm xệ hơn.”

Bây giờ gã đàn ông trông khoảng bảy chục tuổi.

“Tô cho tóc đen nhánh. Tóc nhuộm.”

Mớ tóc mỏng màu xám đã biến thành đen nhánh. Rowse huýt sáo, thót lên.

“Ngồi một mình tại góc sân thượng, ở Apollonia, không nói chuyện với bất cứ ai, và chỉ ngồi một mình.”

“Stephan Johnson, Sếp ban tham mưu của IRA - cái IRA ngày xưa - hai mươi năm trước,” McCready nói. “Từ giã tổ chức mười năm trước vì bất đồng sâu sắc với thế hệ mới về chính sách. Bây giờ hắn sáu mươi nhăm tuổi - bán máy nông nghiệp ở quận Clare.”

Rowse cười nhăn nhở. “Từng là át chủ bài, cãi cọ, bỏ đi một cách kinh tởm, được chính quyền biết tới là đã sống cách ly, tránh tiếp xúc... điều ấy có làm anh nhớ tới ai không?”

“Đôi khi, ngài Rowse ạ, Ngài thậm chí có thể là một tên láu cá kinh khủng,” McCready thừa nhận.

Anh gọi cho một người bạn ở cảnh sát Ailen, cơ quan Garda Siochana. Chính thức ra, giữa Garda của Ailen với các đồng nghiệp Anh trong hoạt động chống khủng bố chỉ là liên hệ hình thức, nhưng thực sự lại rất gần gũi. Có thể nói, giữa những nhà chuyên nghiệp, các mối liên hệ lại ấm cúng và chặt chẽ hơn là một vài nhà chính trị cứng rắn mong muốn.

Đó là một người của Đặc nhiệm Ailen, bị đánh thức lúc gần sáng ở nhà riêng ở Ranelagh, và trả lời câu hỏi vào giờ ăn sáng.

“Hắn đang đi nghỉ,” McCready nói. “Theo Garda địa phương, hắn chơi golf và thỉnh thoảng có một đợt đi xa đánh golf, thường ở Tây Ban Nha.”

“Nam Tây Ban Nha?”

“Có thể. Sao?”

“Nhớ sự kiện Gibraltar chứ?”

Cả hai đều rõ sự kiện này. Ba tên giết người IRA dự định đặt một quả bom lớn ở Gibraltar, đã bị xóa sổ bởi một đội SIS - khá vội vã nhưng chắc chắn. Bọn khủng bố đã đến Rock trong vai những du khách tới từ Costa del Sol và cảnh sát Tây Ban Nha cùng với lực lượng phản gián của họ đã tẻ ra cực kỳ hữu ích.

“Dai dẳng lời đồn là còn tên thứ tư trong nhóm những tên sống ở Tây Ban Nha,” Rowse nhớ lại, “và vùng Marbella thì dày đặc những sân golf.”

“Thằng chó,” McCready thở ra, “đồ chó già. Hắn lại đã thò mặt ra rồi.”

Vào giữa buổi sáng, McCready nhận điện thoại của Bill Carver, rồi cùng ông ta đến sứ quán Mỹ. Ngài đại sứ đón họ ở đại sảnh rồi tới tầng hầm, tại đó ông ta có một phòng riêng để xem phim, xem ảnh.

Vệ tinh thật tuyệt trong việc chụp ảnh. Bay rất cao trên không gian đông Đại Tây dương, nó chĩa các camera Long Tom xuống phía dưới, thu hình cả một vùng nước từ bờ biển Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Pháp đến hơn trăm dặm ngoài khơi, trong một lần quét.

Dựa trên lời gợi ý của người bạn ở Lloyds, McCready đã xin được nghiên cứu cả một vùng nước hình chữ nhật từ Lisbon lên phía Bắc, đến vịnh Biscay. Sóng tín hiệu ảnh liên tục truyền về các trạm thu của Cơ quan dọ thám quốc gia nằm ở ngoại ô Washington, được phân tích thành ảnh riêng cho mỗi con tàu đi trên vùng chữ nhật này.

“Con chim này chụp được ảnh tất cả những gì có kích thước lớn hơn một lon Coca nổi trên mặt nước,” Carver tự hào nói. “Anh muốn bắt đầu chưa?”

Có đến hơn trăm con tàu trên vùng nước này. Gần nửa là tàu đánh cá. McCready loại chúng ra ngay, để sau đã. Bremrhaven cũng có cả một cảng cho tàu cá, nhưng là những tàu có đăng kiểm Đức, và một tàu lạ mà đỡ xuống những thùng lớn song không phải là cá, sẽ rất quái gở. Anh chỉ tập trung vào những tàu hàng và vài du thuyền lớn, sang trọng, bỏ qua luôn bốn tàu chở khách. Danh sách của anh bây giờ rút lại chỉ còn năm mươi ba.

Từng chiếc một, anh yêu cầu phóng to hình ảnh những mẩu kim loại trên dải nước cho lớn lên, chiếm trọn màn hình. Từng chi tiết một, những người trong phòng xem xét rất kỹ. Một số đang di chuyển theo những hướng khác. Có ba mươi mốt chiếc chạy lên hướng bắc để vào eo biển Manche.

Hai giờ rưỡi chiều, McCready bỗng kêu “Stop!”

“Tên này,” anh nói với kỹ thuật viên của Bill Carver. “Cái tên đứng trên đài chỉ huy. Có thể nhìn gần không?”

“Dư sức?

Chiếc tàu hàng được chụp ảnh ngoài khơi Finisterre vừa chiếu hôm trước. Một người trong thủy thủ đoàn đang bận rộn gì đó trên boong trước, trong lúc đó, một người khác đứng trên đài chỉ huy đàng nhìn anh ta. Con tàu cứ lớn dần lên trên màn hình, nhưng độ phân giải của hình ảnh vẫn không thay đổi. Mũi tàu và mạn tàu lần lượt ra ngoài màn hình và hình người đứng một mình cứ lớn dần.

“Con chim này bay cao bao nhiêu?” Rowse hỏi.

“Một trăm mười dặm,” kỹ thuật viên đáp.

“Này, thế mới gọi là kỹ thuật chứ,” Rowse nói.

“Chụp một biển đăng ký, có thể đọc được cả số,” người Mỹ nói đầy tự hào.

Có hơn hai chục bức ảnh con tàu chở hàng đó. Hình người đứng trên đài chỉ huy được chuyển lần lượt từ cảnh đứng nhìn người thủy thủ sang nhìn ra biển. Rồi hắn bỏ cái mũ lưỡi trai để đưa tay vuốt mớ tóc thưa, và ngẩng mặt lên.

“Dừng hình,” Rowse kêu. “Phóng to nữa.”

Đã to đến mức khuôn mặt hơi nhòe đi. “Vận may rồi,” McCready thì thầm. “Chính hắn - Johnson.”

Cặp mắt già nua mệt mỏi bên dưới mớ tóc thưa, đen lạ lùng, đang nhìn họ từ trên màn ảnh. Lão già ngồi trong góc sân thượng của Apollonia. Ông cựu.

“Tên con tàu,” McCready nói. “Chúng tôi cần biết tên con tàu.” Tên nằm ở mũi tàu và chiếc vệ tinh, khi tụt xuống đường chân trời phía bắc, vẫn tiếp tục chụp ảnh. Một ảnh duy nhất chụp ở góc rất tháp đã ghi được dòng chữ bên dưới mỏ neo: Regina IV. McCready vớ lấy điện thoại và gọi người của anh ở Lloyds.

“Không thể được,” người đó nói khi gọi lại cho anh ba mươi phút sau. Regina IV có sức chở trên mười ngàn tấn và hiện đang ở ngoài khơi Venezuela. Anh nhầm rồi.”

“Không nhầm,” McCready đáp. “Nó chỉ khoảng hai ngàn tấn thôi, và đang rẽ nước lên phương bắc, hiện ở ngoài khơi Bordeaux.”

“Gượm đã,” cái giọng vui vẻ ở Colchester lại vang lên. “Nó đang dính vào một vụ tồi tệ sao?”

“Hầu như chắc chắn,” McCready đáp.

“Tôi sẽ gọi lại anh sau,” người của Lloyds nói.

Nhưng gần một giờ sau mới thấy anh ta gọi lại. Trong thời gian đó, McCready phải gọi cho một người đóng trong căn cứ ở Poole, vùng Dorset.

“Regina,” người của Lloyds nói. “Là một tên rất phổ biến, giống như Stela Maria ấy. Chính vì thế mới có số La Mã kèm thêm sau để phân biệt chúng với nhau. Tình cờ là có một chiếc ReginaVI đăng kiểm ở Limassol, có tin là bây giờ đỗ ở bến Paphos. Sức chở khoảng hai ngàn tấn. Thuyền trưởng người Đức, thủy thủ đoàn Hy Lạp. Mới đổi chủ - một công ty dầu lửa đăng ký ở Luxembourg.”

“Chính phủ Libya,” McCready nghĩ. Đó quả là một mẹo lừa đơn giản. Rời Địa Trung Hải khi mang tên Regina VI; vượt ra Đại Tây Dương và chuyển số I từ đằng sau lên đằng trước số V. Những bàn tay lành nghề sẽ làm bộ giấy tờ giả cho phù hợp. Đại lý sẽ đặt bến đỗ ở Bremerhaven cho con tàu hoàn toàn đứng đắn Regina IV với những thùng máy văn phòng và hàng nhập từ Canada, nào ai biết có một Regina IV thực đang ở mãi ngoài khơi Venezuela?

Lúc bình minh ngày thứ ba, thuyền trưởng Holst nhìn qua cửa sổ phía trước buồng chỉ huy của ông ra mặt biển đang dần rạng rỡ. Không thể lầm được, có một pháo hiệu nổ bùng trên bầu trời phía trước, lơ lửng trong một thoáng, rồi rụng xuống mặt nước. Tín hiệu cấp cứu. Báo hiệu một tình trạng tuyệt vọng. Căng mắt nhìn qua làn ánh sáng mờ mờ, ông có thể thấy cái gì đó phía trước, cách khoảng một, hai dặm: một ánh lửa màu vàng thoáng hiện thoáng mất. Ông ra lệnh cho buồng máy tăng tốc, dùng bộ đàm gọi một trong những hành khách ở boong phía dưới. Chưa đầy phút, người này đã lên đứng cạnh ông.

Holst im lặng chỉ qua kính chắn gió. Trên mặt biển phẳng lặng phía trước họ, một chiếc thuyền đánh cá có gắn động cơ dài khoảng 40 bộ đang chòng chành. Rõ ràng nó bị nổ ở buồng máy; một cụm khói đen bốc lên từ dưới boong, với ngọn lửa da cam lem lém. Phần nổi của thuyền bị cháy xém, ám khói đen kịt.

“Chúng ta đang ở đâu?” Stephen Johnson hỏi.

“Biển Bắc, giữa Yorkshire và Hà Lan.” Holst đáp.

Johnson cầm ống nhòm của thuyền trưởng quan sát con thuyền đánh cá nhỏ phía trước. Vẫn còn đọc được dòng chữ Fair Maid, Whitby trên mũi thuyền.

“Chúng ta phải dừng lại cứu họ,” Holst nói bằng tiếng Anh. “Đó là luật biển.”

Ồng ta không biết tàu của mình chở gì và cũng chẳng muốn biết. Những người chủ của ông đã ra lệnh và cũng đã chi tiền thưởng rộng rãi. Thủy thủ của ông cũng được chăm sóc về tài chính. Các thùng ôliu đã được chất lên từ Cyprus và chúng là những hàng hóa hợp pháp. Trong hai ngày nghỉ ở Sirte, trên bờ biển Libya, một số thùng đã được mang đi rồi lại thấy trở về. Trông vẫn thế. Ông biết thế nào đâu đó cũng có những hàng hóa bất hợp pháp nhưng không biết ở đâu và cũng chẳng cố biết làm gì.

Bằng chứng của việc hàng hóa đó cực kỳ nguy hiểm, nằm ở chỗ có sáu hành khách - hai người từ Cyprus và bốn lên từ Sirte. Và cả ở việc thay đổi tên con tàu từ khi ông vượt qua cột Herculer. Trong mười hai giờ nữa, ông hy vọng sẽ rũ bỏ được tất cả. Ông sẽ trở về qua Biển Bắc, mang lại tên Regina VI và bình yên trở về cảng xuất phát Limassol, nhưng sẽ giầu có hơn nhiều.

Rồi ông sẽ nghỉ hưu. Những năm dài chuyên chở các thứ hàng hóa lạ lùng, nào người, nào hòm gỗ đến Tây Phi, rồi những mệnh lệnh lạ lùng của những ông chủ mới ở Luxembourg... tất cả sẽ là quá khứ. Ông sẽ nghỉ hưu ở tuổi năm mươi, với số tiết kiệm đủ cho ông và người vợ Hy Lạp, Maria, mở quán ăn nhỏ và sống bình yên đến hết đời.

Johnson coi vẻ đầy ngờ vực. “Chúng ta không thể dừng lại được,” hắn nói.

“Ta phải dừng.”

Trời đã sáng rõ. Họ thấy một hình người, cháy xém, đen nhẻm chạy ra khỏi buồng máy thuyền đánh cá, trèo lên boong trước, vẫy gọi một cách đau đớn rồi ngã xuống.

Một sĩ quan IRA nữa bước tới sau Holst. Ông cảm thấy họng súng dí vào sườn mình.

“Chạy qua nó,” một giọng dứt khoát vang lên.

Holst không quên được họng súng, song ông nhìn Johnson. “Nếu ta bỏ qua, mà họ được tàu khác cứu, thì sớm muộn họ sẽ tố cáo chúng ta. Ta sẽ bị chặn lại và chất vấn vì sao không cứu?”

Johnson gật đầu.

“Thế thì đánh chìm nó,” thằng cầm súng nói, “chứ không được dừng.”

“Chúng ta có thể cấp cứu ban đầu rồi gọi Phòng vệ bờ biển Hà Lan.” Holst nói. “Không đưa ai lên boong cả. Khi tàu cao tốc Hà Lan xuất hiện, ta sẽ đi tiếp. Họ sẽ vẫy tay cảm ơn rồi không nghĩ gì nữa. Chỉ mất ba mươi phút.”

Johnson đã bị thuyết phục. Hắn gật. Rồi bảo, “Bỏ súng xuống đi.”

Holst đưa cần tốc độ về Lùi hết, và Regina IV chậm hẳn lại. Ra một lệnh bằng tiếng Hy Lạp cho người lái, ông rời buồng chỉ huy, lên boong trước. Động cơ dừng hẳn và quán tính đưa Regina IV trôi tới chiếc thuyền bị thương. Giờ nó đang ở ngay dưới mạn. Họ thấy người ngã trên boong cố đứng dậy nhưng lại gục ngay xuống. Chiếc Fair Maid bập bềnh trôi dọc theo mạn Regina cho đến khi tới phần đuôi tàu, nơi lan can thấp hơn. Holst bước xuống phía đó, ra mệnh lệnh bằng tiếng Hy Lạp cho một thủy thủ thả thang dây xuống boong Fair Maid.

Nhưng không cần đến nữa. Khi chiếc thuyền vừa tới phần đuôi Regina, người nằm trên boong đã vùng dậy, nhanh nhẹn một cách không thể ngờ đối với một người bị bỏng nặng như vậy, chộp lấy cái móc cạnh đó, móc vào lan can Regina rồi buộc rất nhanh vào một cọc ở mui thuyền. Một người nữa vọt ra khỏi khoang thuyền và cũng làm hệt như thế với đuôi thuyền. Chiếc Fair Maid thôi bồng bềnh.

Bốn người khác từ cabin lao lên mái, rồi nhảy sang bám vào lan can tàu Regina. Tất cả xảy ra nhanh và nhịp nhàng đến nỗi thuyền trưởng Holst chỉ đủ thời gian kêu lên một tiếng kêu vô nghĩa.

Những người này ăn mặc giống hệt nhau: áo liền quần màu đen, ủng cao su cao cổ đen và mũ len đen và mặt cũng bôi đen luôn, nhưng không phải bằng nhọ nồi. Một bàn tay rất cứng đánh vào vùng mỏ ác thuyền trưởng Holst khiến ông ngã khuỵu xuống. Sau này ông sẽ nói rằng ông chưa từng bao giờ nhìn thấy người của SBS, Đội Đặc nhiệm Hải quân, một tổ chức tương đương với Đặc nhiệm Không lực ra tay lần nào (song thâm tâm ông không hề mong được chứng kiến thêm lần nữa).

Lúc đó, có bốn thủy thủ Cyprus đang trên boong chính. Một người trong nhóm áo đen ra một mệnh lệnh bằng tiếng Hy Lạp và họ tuân theo ngay, cùng nằm bẹp trên boong, mặt úp xuống, không động đậy. Nhưng bốn tên IRA thì không như vây, chúng túa ra từ cửa ngách boong trên - tất cả đều có súng ngắn.

Hai tên thấy ngay rằng súng ngắn của chúng khó mà đọ được với những khẩu Carbine Heckler and Koch MP5 liên thanh. Chúng giơ hai tay lên trời và thả rơi súng xuống boong. Hai tên còn lại cố bắn trả. Một tên may hơn tên kia: hắn bị một phát vào chân và sống nốt cuộc đời trên xe đẩy. Tên thứ tư thì chẳng may như vậy, hắn lĩnh bốn viên vào ngực.

Bây giờ, cả sáu người vận đồ đen đã chiếm lĩnh boong Regina. Người thứ ba nhảy lên chính là Tom Rowse. Anh lao lên những bậc thang dẫn tới đài chỉ huy. Vừa tới, anh gặp Stephen Johnson bước từ trong ra. Thấy Rowse, hắn giơ tay lên trời.

“Đừng bắn, ông SASS. Mọi việc đã kết thúc!” Hắn kêu lên. Rowse đứng tránh sang một bên, mũi súng chỉ về phía cầu thang.

“Đi xuống,” anh ra lệnh.

Tên IRA già im lặng bước xuống. Bỗng Rowse cảm thấy một chuyển động của ai đó ở cửa buồng lái phía sau. Anh xoay nửa vòng, và nghe thấy tiêng nổ của súng ngắn. Viên đạn cài vào vai áo anh. Không còn thời gian để kêu lên hoặc chần chừ nữa, anh bắn đúng như cách đã từng được huấn luyện, bóp cò hai phát rất nhanh, rồi hai phát nữa, nhả ra liên tiếp hai cặp đạn 9 milimét trong vòng nửa giây, rồi thấy một thân người ở ngưỡng cửa buồng lái, bị bốn viên đạn vào ngực, đổ nhào ra phía trước - với mớ tóc vàng rực xổ tung ra, xòa xượi. Một người đàn bà? Rồi người đó nằm vật trên sàn, bất động, đã chết, một dòng máu trào ra từ cái miệng anh đã từng hôn mê đắm.

“Chà, chà...” một giọng vang phía sau anh. “Monica Browne. Với chữ e đằng sau.”

Rowse quay lại. “Đồ chó đẻ,” anh nói rất chậm. “Có phải anh đã biết trước, đúng không?”

“Chưa biết. Chỉ nghi thôi,” McCready nhẹ nhàng đáp. Trong bộ thường phục, anh đã leo lên boong từ chiếc thuyền cá, khi cuộc chiến chấm dứt.

“Chúng tôi phải kiểm tra, anh thấy đây, Tom, sau khi cô ta tiếp xúc với anh. Cô ta đúng là Monnica Browne nhưng sinh ra, lớn lên ở Dublin. Cuộc hôn nhân đầu tiên, năm hai mươi tuổi, đưa cô ta đến Kentucky trong tám năm trời. Sau khi ly dị, cô ta lấy thiếu tá Eric Browne, rất già, và rất giầu. Say nhè cả ngày, ông ta không chút nghi ngờ về khoản đóng góp tài chính của cô vợ trẻ cho IRA. Và đúng là cô ta có trại ngựa, nhưng không phải ở Ashford, Ken, Anh quốc. Mà là Adhford, Quận Wichlow, Ailen.”

Mất hơn hai tiếng đồng hồ dọn dẹp. Thuyền trưởng Holst tỏ ra rất hợp tác. Ông thừa nhận có một cuộc chuyển giao hàng hóa trên biển, cho một thuyền cá ở Finisterre. Ông nói tên cái thuyền và McCready chuyển ngay nó về London cho giới chức Tây Ban Nha. Nhanh tay ra, họ có thể bắt được vũ khí gửi cho ETA ngay trên thuyền - một cách để SIS cám ơn sự giúp đỡ của Tây Ban Nha cho sự kiện Gibraltar.

Thuyền trưởng Holst thừa nhận Regina IV đã nằm trong hải phận Anh quốc khi xảy ra vụ việc. Sau đó vấn đề chỉ còn là công việc của các luật sư và thuộc quyền phán quyết của Anh. McCready không muốn mấy tên IRA được chuyển cho Bỉ rồi được thả như trường hợp Cha Ryan.

Hai thi thể đặt cạnh nhau trên boong chính, phủ vải kín. Với sự giúp đỡ của đội thủy thủ Hy Lạp - Cyprus, hầm tàu được mở và hàng hóa được lục soát. Đội SBS tiến hành việc này. Sau hai giờ, viên trung úy chỉ huy đội báo cáo với McCready.

“Không có gì, thưa ngài.”

“Không có gì là thế nào?”

“Chỉ có ôliu, rất nhiều, thưa ngài.”

“Không có gì ngoài ôliu?’

“Có mấy thùng mang nhãn văn phòng.”

“Chứa gì?”

“Máy văn phòng, thưa ngài. Và ba con ngựa giống. Chúng rất hoảng loạn, thưa ngài.”

‘‘Mặc xác bọn ngựa, tôi cũng đang hoảng loạn đây,” McCready chán nản nói. “Để tôi xem nào.”

Anh và Rowse xuống hầm. Viên trung úy đưa họ qua cả bốn khoang tàu. Ở khoang thứ nhất, có thể nhìn thấy những máy photocoppy và máy tính của Nhật lộ ra từ những khe thùng bị cậy hé. Trong khoang thứ hai và ba; các hộp ôliu Cyprus lăn lung tung từ những hòm vỡ. Không có hòm hay hộp nào không bị khám. Khoang thứ tư thì chứa ba cái thùng gỗ đóng ba con ngựa giống. Những con ngựa hý lên và lồng lộn vì sợ hãi.

McCready thấy nhói lên cái cảm giác mình bị lừa, bị sai lầm và sẽ gặp hậu quả cực kỳ phiền phức. Nếu anh trở về với những thùng ôliu và máy chữ, London sẽ chỉ còn nước tống anh ra cửa. Một SBS đứng cạnh mấy con ngựa, đang chuyện trò khe khẽ với chúng, làm chúng dịu đi.

“Thưa ngài?” Anh ta hỏi.

“Hả?”

“Tại sao lại chở ngựa trên tàu?”

“Ồ, giống Arab đấy. Ngựa thuần chủng, được đưa tới từ một trại nuôi dưỡng đặc biệt,” Rowse đáp.

“Không, đâu phải,” người lính trẻ đáp. “Chúng chỉ là ngựa thường, để tập cưỡi. Ngựa giống, nhưng loại thường.”

Giữa hai lớp của thùng đựng ngựa là khoảng trống rộng hơn một bộ. Với cái nậy đinh, họ cậy tấm ván của cái thùng đầu tiên. Khi tấm gỗ rời ra, việc khám xét kết thúc. Họ nhìn thấy hàng chồng những cục Semtex - H, những súng phóng tên lửa RPG-7 và tên lửa vác vai đất đối không. Hai hòm kia thì chứa súng máy hạng nặng, đạn được, lựu đạn, mìn, súng cối.

“Tôi cho là,” McCready nói, “Ta gọi hải quân được rồi.”

Họ rời hầm tàu, bước ra ánh mặt trời buổi sáng ấm áp trên boong chính. Hải quân sẽ tiếp nhận Regina và đưa nó về Harawich. Ở đó, nó sẽ bị chính thức bắt giữ, cùng với thủy thủ đoàn và hành khách.

Chiếc Fair Maid đã được bơm nước ra để sửa chữa chỗ hỏng. Lựu đạn khói tạo hiệu quả đặc biệt đã làm cho nó có vẻ ngoài của một chiếc tàu bị cháy.

Với tên IRA bị thương ở đầu gối, máu đã cầm nhờ cái garô thô ráp do một lính Anh buộc cho. Bây giờ hắn ngồi, mặt tái nhợt, lưng dựa vào vách ngăn, chờ viên bác sĩ hải quân đến trên chiếc xe hộ tống nhỏ, đang còn cách đó nửa dặm. Hai tên khác bị khóa tay vào thành tàu ở cách xa đó một khoảng, do McCready giữ chìa khóa còng.

Thuyền trưởng Holst và thủy thủ thì bị nhốt dưới hầm tàu, cái hầm không chứa vũ khí, và ngồi giứa đám thùng ôliu cho đến khi người của Hải quân thả thang dây xuống cho họ leo lên.

Stephen Johnson bị khóa tay trong phòng của hắn ở khoang dưới. Khi đã xong việc, năm người của SBS nhảy xuống nóc chiếc Fair Maid rồi biến mất dưới khoang. Động cơ của nó nổ ròn. Viên trung úy vẫy tay chào McCready vẫn đứng trên Regina, rồi con thuyền cá lướt đi. Đấy là những chiến sĩ bí mật, họ đã xong việc và không còn lý do gì để loanh quanh ở đó.

Tom Rowse ngồi, lưng còng xuống, ngay kề cái xác của Monica Browne. Ở bên kia của Regina, chiếc tàu hộ tống đã cập mạn, và một toán thủy thủ nhảy lên boong gặp McCready.

Một làn gió lật góc khăn che mặt Monica Browne. Rowse nhìn mãi khuôn mặt xinh đẹp của nàng, giờ đây bình thản trong cõi vĩnh hằng. Ngọn gió làm mái tóc vàng rực xòa xuống trán nàng. Anh đưa tay gạt nó lên. Có ai đó ngồi xuống bên và một cánh tay bè bạn quàng lên vai anh.

“Mọi sự đã kết thúc rồi, Tom. Anh đâu có biết. Anh cũng chẳng việc gì phải làm khổ mình. Cô ta biết việc mình đang làm chứ.”

“Nếu biết đó là nàng, tôi sẽ không thể nhấn cò súng.” Rowse nói, đờ đẫn.

“Thế thì nàng sẽ giết anh.”

Hai thủy thủ mở khóa và dẫn mấy tên IRA xuống tàu hộ tống. Hai lính công vụ, theo hướng dẫn của bác sĩ, đặt tên bị thương lên cáng, khiêng đi.

“Điều gì sẽ xảy ra sau đây?” Rowse hỏi.

McCready nhìn biển rồi lại nhìn trời, thở dài. “Bây giờ, Tom ạ, các luật sư sẽ tiếp nhận vụ này. Các luật sư luôn luôn kết thúc mọi sự, thâu tóm tất cả những gì thuộc về đời sống và cái chết, xúc cảm, tham vọng, thú tính và cả vinh quang nữa... thành những điều khoản trong ngôn ngữ nghề nghiệp của họ.”

“Còn anh?”

“Tôi sẽ trở về Nhà Thế Kỷ và lại bắt đầu vụ khác. Và cứ chín giờ lại trở về căn hộ nhỏ của tôi để nghe nhạc và ăn bữa tối đạm bạc. Còn anh sẽ về với Nikki, bạn ạ, hãy ôm nàng thật chặt, viết tiếp câu chuyện của anh và quên đi tất cả. Hamburg, Vienna, Malta, Tripoli, Cyprus... quên hết đi. Tất cả đã kết thúc.”

Stephen Johnson bị dẫn ngang qua. Hắn dừng lại nhìn hai người Anh. Giọng hắn nghe thô ráp như những cây thạch thảo mọc trên bờ biển phía Tây.

“Rồi ngày của chúng ta sẽ đến,” hắn nói. Đó là khẩu hiệu của IRA lâm thời.

McCready nhìn hắn, lắc đầu. “Không, Mr. Johnson, ngày của ông đã qua lâu rồi.”

Hai công vụ đặt xác người đàn bà tóc vàng lên cáng.

“Tại sao nàng lại làm thế, Sam? Tại sao?” Rowse hỏi.

McCready kéo tấm vải che kín mặt Monica Browne. Họ mang nàng đi. “Bởi vì cô ta tin, Tom! Tin vào một điều sai lầm, dĩ nhiên. Nhưng cô ta tin nó.”

Anh đứng dậy, kéo Tom theo.

“Đi nào, cậu bé, ta về nhà. Đành vậy, Tom. Đành vậy. Nàng đã chọn con đường ấy, theo nguyện vọng của mình. Và giờ nàng đã trở thành nạn nhân của chiến cuộc. Cũng giống như anh thôi, Tom. Giống như tất cả chúng ta.”