← Quay lại trang sách

Chương 3

Desmond Hannah bắt đầu công việc lúc bảy giờ sáng, khi mặt đất còn vương khí lạnh buổi sớm. Nơi ông bắt đầu là dinh Thống đốc.

Ông hỏi người bếp Jefferson rất lâu, người này lưu ý ông về thói quen bất di bất dịch của Thống đốc: ngồi nghỉ trong khu vườn có tường bao đúng lúc năm giờ các buổi chiều, uống ly whisky trước khi mặt trời lặn. Ông hỏi có bao nhiêu người biết cái nghi lễ này. Jefferson cau mày.

“Nhiều lắm, thưa ngài. Lady Moberley, tôi, trung úy Haverstock, cô thư ký ở Myrtle, nhưng cô này đã đi thăm bố mẹ ở Tortola. Rồi những người từng được Thống đốc tiếp ở đó. Nhiều lắm.”

Jefferson mô tả chính xác chỗ thấy thi thế, nhưng quả quyết rằng không nghe thấy tiếng súng. Sau này, việc dùng từ tiếng súng đã thuyết phục Hannah rằng người bếp nói thật. Có mấy tiếng súng? Hannah nghĩ.

Đội pháp lý của Nassau làm việc với Parker trên bãi cỏ, tìm một hay các vỏ đạn. Họ bới cả đất lên, vì sợ một bước chân bất cẩn có thể giẫm lên và vùi chúng xuống đất. Dấu chân của trung úy Haverstock, thanh tra Jones và ông chú, Dr. Jones xéo ngang dọc bãi cỏ trong đêm có vụ án đã xóa hết dấu chân của hung thủ.

Hannah xem xét cái cổng sắt trong khi chuyên viên dấu tay Bahamas đang rắc bột lên thép để tìm dấu tay. Nhưng không có. Hannah đánh giá rằng nếu tên giết người đã đi vào cổng, mà có lẽ đúng thế, rồi bắn ngay, thì ông Thống đốc lúc đó đang đứng giữa cổng và bức tường đá san hô bên dưới bậc thềm dẫn đến phòng khách phía trên. Nếu có phát đạn trượt, chắc nó phải trúng vào bức tường này. Hannah lưu ý cả đội tìm kỹ bãi cỏ cho đến vệt đường trải vỏ ốc xà cừ chạy dọc chân tường. Đoạn, ông trở vào nhà nói chuyện với Lady Moberley.

Bà quả phụ Thống đốc chờ ông trong phòng vẽ, nơi Sir Marston đã tiếp đoàn đại biểu của ủy ban Các công dân quan tâm. Bà có thân hình gầy gò, xanh tái với làn da vàng vọt do nhiều năm sống ở vùng nhiệt đới.

Jefferson xuất hiện với khay bia lạnh. Hannah do dự nhưng rồi vẫn uống. Dù sao đây cũng là một buổi sáng nóng nực. Lady Moberley uống nước nho ép song nhìn vại bia với vẻ thèm khát rõ rệt. Ồ, lạy Chúa, Hannah nghĩ.

Bà ta chẳng có thêm thông tin gì. Chồng bà không hề có kẻ thù cá nhân. Các tội phạm chính trị thì chưa từng nghe nói đến trên đảo này. Vâng, các cuộc vận động tranh cử thì cũng có gây ra đôi chút xung đột, nhưng đều trong phạm vi cho phép... Bà nghĩ vậy.

Chính bà thì ở cách chồng năm dặm lúc xảy ra vụ án, đang viếng thăm một bệnh viện nhỏ của các nhà truyền giáo trên núi Spyglass. Bệnh viện này được tài trợ bởi Mc Marcus Johnson, con người nhã nhặn và là nhà từ thiện lớn, ngay từ khi ông trở về đảo Barclays quê hương, sáu tháng trước. Bà đi bằng chiếc Jaguar công, do người lái xe của Thống đốc, Stone, cầm lái.

Hannah cám ơn và đứng dậy. Parker đang vẫy ông từ ngoài cửa sổ. Hannah đi ra sân thượng, thấy Parker đang trong tình trạng kích động ghê gớm.

“Ngài nói đúng lắm, thưa ngài! Nó đây này.”

Anh xòe bàn tay ra. Méo mó và gần như bẹp lại, là cái trước đó từng kêu bằng đầu đạn. Hannah rầu rĩ nhìn anh.

“Cám ơn anh đã mang tới,” ông nói. “Lần sau, có lẽ ta nên dùng cặp mà gắp bỏ nó vào túi plastic thì hơn nhỉ?”

Parker tái mặt, chạy vội vào vườn thả cái đầu đạn xuống nền đất trải vỏ sò, mở túi án mạng lôi ra một cái gắp. Mấy người Bahamas nhe răng cười.

Perker hết sức thận trọng gắp đầu đạn lên, thả nó vào túi nylon nhỏ, trong suốt.

“Giờ thì buộc miệng túi lại bằng dây sợi rồi bỏ nó vào lọ thủy tinh có nắp kín.” Hannah nói, nhìn Parker làm theo. “Cám ơn. Bây giờ thì bỏ lọ vào túi án mạng để sau này gửi về phòng Đạn đạo.” Hannah thở dài. Thật mệt với anh chàng này. Ông bắt đầu nghĩ tốt nhất là tự làm lấy.

Dr. Caractacus Jones đã đến, theo yêu cầu. Hannah vui mừng vì có dịp chuyện trò với một nhà chuyên nghiệp. Dr. Jones kể tỷ mỷ đã được triệu từ nhà đến thế nào, và do người bếp Jefferson được trung úy Haverstock phái tới không nói rõ Thống đốc bị bắn chết nên Dr. Jones đã mang theo túi cứu thương xem có thể làm gì được nữa. Rồi hóa ra câu trả lời là không làm gì được cả.

Hannah dẫn Dr. Jones vào phòng làm việc của Sir Marston quá cố và yêu cầu ông, với tư cách phán quan của đảo, ký cho phép đưa thi thể về Nassau để giải phẫu.

Theo pháp luật Anh quốc, cao cấp nhất là Tòa án phán quan, có quyền vượt mặt các tòa khác. Để chuyển xác từ đảo Tia Nắng sang lãnh thổ Bahamas, phải có giấy phép của phán quan. Dr. Jones ký ngay, và thế là đã có lệnh hợp pháp. Bannister, viên trợ lý của Cao ủy Nassau đi cùng họ tới Barclays đánh máy lệnh đó trên giấy mang tiêu đề tòa Thống đốc. Anh ta cũng đã cài đặt xong hệ thống liên lạc mới và chuẩn bị để truyền tin.

Hannah yêu cầu Dr. Jones cho xem thi thể. Ở dưới bến, nhà lạnh đã được mở cửa và hai cảnh sát của thanh tra Jones lôi thi hài ngài cựu Thống đốc của họ ra khỏi đám cá, giờ cứng như khúc gỗ, rồi đưa vào nhà kho, đặt lên một tấm cánh cửa kê trên hai giá gỗ.

Đối với đám báo chí, giờ đã có thêm một đội của CNN từ Atlanta đến, lẵng nhẵng bám đuôi Hannah suốt buổi sáng, thì đó là một dịp tuyệt vời. Họ chụp ảnh lia lịa. Thậm chí cả con cá hồi nằm cùng giường với ông Thống đốc ba mươi sáu giờ qua, cũng được đưa lên mục Tin hàng đầu của CNN.

Hannah ra lệnh đóng cửa kho để ngăn họ lại, rồi ông xem kỹ lưỡng cái thây cứng đờ dưới lớp băng với chừng mực có thể. Dr. Jones đứng ngay cạnh ông.

Sau khi nhìn kỹ cái lỗ thủng đông cứng trên ngực ông Thống đốc, Hannah thấy còn một lỗ tròn ở tay áo trái. Ông chậm rãi bóp ngón tay vào chỗ vải cho đến khi hơi nóng bàn tay làm tan lớp băng giá, khiến sợi vải mềm ra. Băng tan chảy. Có hai lỗ thủng như thế ở tay áo, một vào một ra. Nhưng không động đến da. Ông quay lại Parker.

“Ít nhất là hai. Chúng ta còn sót viên đạn thứ hai.” “Có thể vẫn nằm trong người,” Dr. Jones nói.

“Có thể vậy.” Hannah đáp. “Nhưng chết tiệt là tôi chẳng thấy lỗ đạn ra hay vào nào. Bắp thịt đã bị cái lạnh làm co lại hết rồi. Parker này, tôi muốn biết chỗ Thống đốc đứng hay ngồi ở đó một lần nữa. Xác định chính xác xem. Trường hợp này, vị trí là rất quan trọng.”

Xác Thống đốc trở lại nhà lạnh. Camera lại quay. Các câu hỏi lại đổ xuống như mưa. Và ông lại mỉm cười. “Thưa các ông các bà, tất cả đều thuận lợi. Tuy nhiên, bây giờ còn quá sớm để có thể nói gì.”

“Nhưng chúng tôi đã tìm ra một đầu đạn,” Parker tự hào nói. Các camera chĩa cả vào anh ta.

Hannah bỗng nghĩ tên sát nhân đã giết nhầm người. Thế này thì hóa ra một cuộc hợp báo mất rồi. Mà ông thì chưa muốn hợp hành gì lúc này. “Sẽ có một tuyên bố đầy đủ vào chiều nay,” ông nói. “Còn bây giờ chúng tôi phải làm việc đã. Xin cám ơn các ngài.”

Ông hối Parker lên chiếc Land-Rover của cảnh sát trở về dinh Thống đốc để yêu cầu Bannister gọi Nassau bằng hệ thống liên lạc mới, xin một máy bay với cáng, xe đẩy, bao đựng xác, và hai trợ lý, vào trưa nay. Đoạn ông tiễn Dr. Jones ra xe. Lúc đó chỉ có họ với nhau.

“Bác sĩ, xin cho biết có kẻ nào trên đảo này biết được thực sự những gì đang diễn ra và tất cả những ai đang sống ở đây?”

Dr. Catactacus Jones cười. “Có tôi. Nhưng thôi, tôi không dám nêu tên một ai cả. Hơn nữa, tôi cũng mới từ Barbados trở về đây được chục năm. Để hiểu được lịch sử của những đảo này, ông nên đến gặp Missy [3] Coltrane. Bà ấy giống như... bà nội của xứ Barclays. Nếu muốn biết: một người có thể đoán ra kẻ sát nhân, thì chính là bà ấy.’’!

Chú thích:

[1] Missy = Cô – Lối phát âm của dân đảo

Đọan bác sĩ lái chiếc Austin May Flower méo mó đi khỏi. Hannah bước tối chỗ ông cháu bác sĩ, “Chánh thanh tra,” Hannah lịch sự ngỏ lời, “ông có vui lòng ra sân bay kiểm tra giúp tôi, qua ông sĩ quan cửa khẩu không? Xem ai đã rời đảo từ khi xảy ra vụ án? Có bất kỳ ai không? Trừ các phi công, đến rồi đi, nhưng không rời khỏi sân bay.”

Thanh tra Jones hớn hở thực hiện ngay.

Chiếc Jaguar của Thống đốc ở sân trước, đang được lái xe Oscar Stone lau chùi. Parker và những người trong đội thì ở sau nhà tìm viên đạn thất lạc. Hannah bỗng hỏi.

“Oscar? Anh biết Missy Coltrane không?”

“Ồ, có chứ, thưa ngài. Bà ấy thật đáng kính.”

“Anh biết bà ấy ở đâu chứ?”

“Vâng, thưa ngài, ở trên đỉnh núi Spyglass.”

Hannah xem giờ. Mười một rưỡi, và rất nóng.

“Bà ấy có nhà giờ này không?”

Oscar coi bộ bối rối. “Dĩ nhiên là có, thưa ngài.”

“Đưa tôi đến gặp, được chứ?”

Chiếc Jaguar lượn quanh thành phố rồi trèo lên sườn dốc thoai thoải của núi Spyglass. Đó là chiếc xe kiểu Mark IX đời cũ, quá cổ rồi, với da có mùi thơm và gỗ ốc chó lên nước bóng loáng. Hannah ngồi sau, ngắm phong cảnh.

Họ lướt qua những vườn ngô, xoài, đu đủ. Những ngôi nhà gỗ dựng gần mặt đường, phía trước là mấy mét sân bụi bặm đầy gà qué. Những trẻ nhỏ da nâu nghe tiếng xe chạy, vội túa ra lề đường, hăng hái vẫy. Hannah vẫy trả.

Họ băng qua bệnh viện trẻ em màu trắng, gọn gàng mà Marcus Johnson tài trợ. Hannah liếc nhìn lại phía sau và thấy Port Plaisance đang đờ đẫn trong cơn nóng nực. Ồng còn nhận ra được nhà kho mái đỏ trên bến tàu và cạnh đó là nhà lạnh, nơi ông Thống đốc đông cứng nằm, cái sân trải sỏi của quảng trường Nghị viện, tháp nhọn của nhà thờ Anh giáo và mái lợp của khách sạn Quarter Deck. Đằng sau chúng, ở đầu kia thành phố, mờ mờ trong làn bụi là dinh Thống đốc có tường vây quanh. Tại sao, ông nghĩ ngợi, lại có kẻ phải bắn Thống đốc?

Họ lướt qua căn nhà trước đây từng thuộc về Barney Klinger quá cố, leo hai vòng núi nữa vó tới đỉnh. Ở đó có một biệt thự màu hồng, Flamingo House.

Hannah kéo dây của chiếc chuông sắt ngay bên cửa và nghe thấy tiếng lanh canh nho nhỏ vọngra ừt đâu đó. Một cô gái khoảng mười lăm tuổi ra mở cửa, đôi chân đất đen đủi lộ ra dưới chiếc áo choàng vải bông giản dị.

“Tôi muốn gặp Missy Coltrane,” Hannah nói.

Cô bé gật đầu, đưa ông vào phòng khách rộng và thoáng. Những cửa kép mở rộng ra một ban công, có thể nhìn thấy toàn cảnh hòn đảo và cả mặt biển xanh lấp lánh trải rộng tối tận Andros ở Bahamas, tít xa nơi chân trời.

Phòng mát lạnh dù không có điều hòa nhiệt độ, Hannah thấy ngay ở đây không mắc điện. Trên những chiếc bàn thấp có bày ba chiếc đèn dầu bằng đồng đánh bóng. Ngọn gió mát thổi qua ban công, thông sang cửa sổ bên kia. Cả dãy những đồ lưu niệm cho thấy đây là nhà của người cao tuổi. Hannah đi thơ thẩn quanh phòng.

Rất nhiều tranh trên tường, hàng mấy chục tấm, tất cả đều vẽ những con chim vùng Caribbe rất đẹp, bằng màu nước. Chỉ có một bức duy nhất không vẽ chim, mà là chân dung một người đàn ông mặc bộ binh phục trắng tuyền của Thống đốc thuộc địa Anh quốc. Ông ta đang nhìn ra, tóc và ria mép đều điểm bạc, khuôn mặt rám nắng, đầy nếp nhăn, trông dễ mến. Hai hàng cuốn huân chương phủ trên ngực trái áo chẽn. Hannah bước tới gần để đọc dòng chữ nhỏ để dưới tranh. Đó là SIR ROBERT COLTRANE - K.B.E THỐNG ĐỐC CÁC ĐẢO BARCLAYS 1945,

Với những long chim màa trắng trong tay phải, bàn tay trái đặt hờ lên chuôi gươm.

Hannah mỉm cười phiền muộn, Missy Coltrane ở đây nhất định phải là phu nhân Coltrane, vợ góa của ông, cựu Thống đốc. Ông đi thêm chút nữa, tới cái tủ tường trưng bày. Sau lớp kính gắn trên một tấm vải bọc dầy là những kỷ vật chiến tranh của ông cựu Thống đốc được bà vợ góa thu nhặt và trưng bày. Có cả cái dải màu tím sẫm của huân chương Chữ thập Victoria 1917, thưởng cao nhất cho long dung cảm trên chiến trường. Hai bên là Huân chương Chữ thập phục vụ xuất sắc và Chữ thập qụân nhân. Các kỷ vật khác mà người chiến sĩ mang về từ các chiến dịch của mình được gắn xung quanh đó.

“Ồng ấy là người dũng cảm,” một giọng rất trong vang ngay đằng sau ông.

Hannah quay lại, bối rối.

Bà cụ đã vào phòng, rất yên lặng, cặp bánh cao su của chiếc xe đẩy không gây nên tiếng động nào. Bà cụ nhỏ bé và mỏng manh, với mái tóc xoăn trắng như tuyết và cặp mắt xanh sáng ngời.

Đằng sau ghế của bà là người hầu nam, đẩy vào từ vườn, một người có kích thước khổng lồ đến phát hoảng. Bà già quay lại nói với người ấy.

“Cám ơn anh, Firestone. Tôi thế này ổn rồi.”

Hắn gật đầu, rút lui. Bà cụ tự lăn xe vào thêm một chút, đưa tay mời Hannah ngồi và mỉm cười.

“Cái tên to tướng này ấy à? Đó là đứa trẻ bị bỏ rơi, được tìm thấy trên đống rác, trong lốp xe hiệu Firestone. Còn bây giờ, ông chắc là thám tử, Chánh cảnh sát Hannah từ Scotland Yard? Đó là một cấp bậc rất cao đối với những hòn đảo đáng thương này. Tôi có thể làm gì cho ông?”

‘‘Tôi phải xin lỗi vì đã gọi phu nhân bằng Missy với cô hầu gái. Không ai bảo tôi rằng cụ là phu nhân Coltrane.”

“Không cần thế đâu. Ở đây tôi chỉ là Missy thôi. Mọi người đều gọi tôi như vậy. Tôi cũng thích vậy. Thói quen đâu có dễ bỏ. Như ông có thể đã nhận thấy, tôi không phải người Anh, bởi sinh ở Nam Carolina.”

“Cụ ông," Hannah nhìn vào bức chân dung, “đã từng là Thống đốc ở đây.

“Phải. Chúng tôi gặp nhau trong chiến tranh. Robert đã qua cuộc Thế chiến thứ Nhất, và không bị buộc phải ra trận lần thứ hai, nhưng ông ấy cứ ra. Thế là bị thương lần nữa. Khi đó tôi là y tá. Chúng tôi cưới nhau năm 1943 và sống mười năm tuyệt vời bên nhau, cho đến khi ông ấy chết. Có một khoảng cách hai mươi lăm năm giữa tuổi của chúng tôi, nhưng chẳng có ý nghĩa gì. Sau chiến tranh, Chính phủ Anh cử ông ấy làm Thống đốc ở đây. Sau khi ông ấy chết, tôi ở lại nơi này. Khi chết, ông mới sáu mươi sáu tuổi. Do vết thương cũ hồi chiến tranh.”

Hannah tính toán. Vậy là Sir Robert sinh năm 1887, nhận Chữ thập Victoria năm hai mươi tuổi. Bà sẽ là sáu mươi tám tuổi, chưa đến mức phải ngồi xe đẩy. Bà như đọc được ý nghĩ của ông, với cặp mắt xanh sáng ngời.

‘Tôi bị trượt chân ngã,” bà nói. “Mười năm trước. Gãy xương sống. Nhưng ông không đi bốn ngàn dặm để hỏi thăm một bà già ngồi xe đẩy chứ? Tôi giúp gì được nào?”

Hannah giãi bầy.

“Vấn đề là tôi không tìm được động cơ. Kẻ nào đó đã bắn, hoặc cho người bắn Sir Marston, chắc phải căm thù ông đến mức buộc phải hành động như vậy. Cụ biết tất cả dân chúng ở đây. Vậy ai muốn làm điều ấy và tại sao?”

Phu nhân Coltrane nhích chiếc xe đến bên cửa sổ mở rộng và nhìn ra ngoài.

“Mr Hannah, ông có lý. Tôi đã cùng sống bốn mươi lăm năm nên hiểu người dân ở đây, và yêu những hòn đảo này. Yêu cả cư dân của nó. Hy vọng họ cũng yêu mến tôi.”

Bà quay lại nhìn vào mắt ông. “Trong thang bậc sự kiện thế giới, vấn đề của đảo này chẳng đáng gì. Song người dân ở đây có lẽ đã phát hiện ra một điều vượt quá cả thế giới. Đó là họ đã tìm ra cách để sống hạnh phúc. Chỉ có thế - không giầu, không mạnh, nhưng hạnh phúc.

“Bây giờ London muốn chúng tôi độc lập. Và hai ứng cử viên xuất hiện để hoàn tất cho quyền lực: Mr Johnson, người giầu có và hiến cho đảo những món tiền lớn, dù cho vì động cơ gì cũng vậy; và Mr. Livingstone, một nhà xã hội, người muốn quốc hữu hóa tất cả và chia tất cho dân nghèo. Rất đáng kính, dĩ nhiên, cả ông Johnson với dự án phát triển và thịnh vượng, cả ông Livingstone, với kế hoạch chia đều - tôi biết cả hai người này. Biết từ khi họ còn là những đứa trẻ. Biết từ khi họ rời khỏi tuổi mười tám đôi mươi bỏ nhà đi theo đuổi sự nghiệp ở nơi khác. Và giờ họ trở về.”

“Cụ nghi ngờ người nào trong họ?” Hannah hỏi.

“Mr Hannah, đúng hơn là những người bám theo họ. Hãy xem xét đám ấy. Bọn chúng là những kẻ ưa bạo lực, và dân đảo đều biết điều đó. Đã có bao nhiêu chuyện đe dọa, đánh đập. Có lẽ ông nên xem xét chúng.”

Trên đường xuống núi, Desmond Hannah chìm trong suy nghĩ. Một hợp đồng giết mướn? Việc giết Sir Marston có tất cả những dấu hiệu của một chuyện như vậy. Sau bữa trưa ông nghĩ nên nói chuyện với hai ứng cử viên và xem xét số tay chân của họ.

Khi Hannah quay lại phòng khách dinh Thống đốc, một ông béo tròn với mấy lớp cằm trên cổ áo thày tu vụt đứng dậy khỏi ghế? Parker cũng đứng dậy cùng.

‘‘Thưa Sếp, đây là Đức Cha Simon Princa, cha xứ Anh giáo của địa phương. Ông có một số vấn đề thú vị để nói với chúng ta’’.

Hannah ngạc nhiên. Không biết Parker lấy đâu ra cái danh hiệu Sếp. Ông ghét nó. Sir thì có vẻ xuôi tai hơn. Còn Desmond, khi đã đi với nhau nhiều rồi, thì có thể.

“Có may mắn gì với viên đạn thứ hai không?”

“À, chưa - chưa có gì ạ.”

“Tốt nhất là anh cứ ra làm việc đó đi,” Hannah nói và Parker biến mất sau những cánh cửa kiểu Pháp. Hannah đóng chúng lại.

“Nào, thưa ông Prince, có điều gì muốn nói với tôi à?”

“Tên tôi là Quince, không phải Prince. Tất cả những chuyện này thật là tai họa.”

“Dĩ nhiên thế rồi. Đặc biệt là cho ông Thống đốc.”

“Ồ, vâng. Thực ra tôi muốn, à... tôi đến gặp ông với một tin về bạn đồng đạo, không biết có nên nói hay không, nhưng tôi cảm thấy có lẽ cũng thích hợp.”

“Tại sao ông không để tôi đánh giá điều đó khi nghe xong thì có hơn không?” Hannah ân cần khuyến cáo.

Ông cha xứ bình tĩnh lại và ngồi xuống.

‘‘Tất cả những chuyện đó xảy ra hôm thứ sáu vừa rồi,'' ông nói. Ông kể lại câu chuyện về đoàn đại biểu ủy ban Các công dân quan tâm và sự cự tuyệt của Thống đốc.

Khi ông nói xong ; Hannah cau mày.

‘‘Chính xác thì Đức cha Drake đã nói gì?’’ Ông hỏi

‘‘Ông ta nói’’, Quince nhắc lại, ‘‘Chúng ta phải thoát khỏi cái ông Thống đốc này và tự kiếm lấy một ông mới.’’

Hannah đứng dậy. ‘‘Cám ơn ông rất nhiều, thưa ông Quince. Liệu tôi có cần khuyên ông đừng nói thêm với ai về điều này nữa, để mặc tôi xử lý không?

Sau khi ông thày tu đã nhẹ cả người đi khỏi, Hannah cân nhắc rất lâu. Ông không thích những con chim mồi, nhưng bây giờ vẫn phải kiểm tra cái ông thày tu Baptist khó chịu ấy, Walter Drake. Không còn cách nào khác.

Đúng lúc đó Jefferson xuất hiện với khay tôm hùm nguội nhúng nước sốt mayonnaise. Hannah thở dài. Đó cũng là một chút đền bù cho việc phải xa nhà đến bốn ngàn dặm. Và nếu Bộ Ngoại giao trả tiền thì... Ông tự rót cho mình ly Chablis mát lạnh và bắt đầu bữa ăn.

Hannah còn đang ăn, Chánh thanh tra Jones từ sân bay đã trở về. “Không ai rời đảo cả.” ông ta báo cáo, “ít nhất là trong vòng bốn mươi giờ qua.”

“Một cách hợp pháp, nói như thế thì hơn,” Hannah nói. “Còn bây giờ, một vấn đề nữa, Mr Jones. Ông có giữ số đăng ký vũ khí không?”

“Dĩ nhiên có.”

‘‘Tốt lắm. Xin ông kiểm tra lại và đi gặp tất cả những người có vũ khí đã đăng ký trên đảo. Chúng ta tìm một khẩu súng ngắn nòng lớn. Đặc biệt là một khẩu không thể đưa ra xuất trình, hay vừa mới được lau đẫm dầu.”

“Mới lau dầu?”

“Sau khi bắn,” Hannah nói.

“À, vâng, dĩ nhiên rồi.”

“Điều cuối cùng nữa, Chánh thanh tra. Đức cha Drake có khẩu súng nào đăng ký không?”

“Không. Tôi đảm bảo là không.”

Khi ông ta đi khỏi, Hannah yêu cầu gặp trung úy Haverstock. “Có bao giờ anh từng giữ một khẩu súng ngắn hoặc tiểu liên công vụ không?” ông hỏi.

“Ổ, coi kìa, tôi... ngài không thật sự nghĩ rằng...” Viên sĩ quan trẻ trách móc.

“Tôi chỉ nghĩ là nó có thể bị mất cắp, hoặc bị biển thủ, và rồi được đổi bằng một khẩu khác.”

“À, vâng, tôi hiểu rồi. Nhưng không. Tôi không mang súng lên đảo. Chỉ có một thanh gươm kỷ vật thôi.”

“Nếu Sir Marston bị đâm chết, tôi có thể nghĩ đến chuyện bắt giữ anh đấy,” Hannah nhẹ nhàng nói. “Trong dinh Thống đốc có súng ống gì không?”

“Không, theo chỗ tôi biết. Hơn nữa, tên sát nhân từ ngoài vào, đúng không? Hắn đi qua cổng vườn?’’

Hannah đã xem kỹ ổ khóa bị bật ra trên cái cổng thép dẫn vào vườn. Từ chuyện hai móc khóa bị gẫy đến cái khóa vòng loại lớn bị bật cả cần, có thể thấy gần như chắc chắn có kẻ nào đó đã dùng xà beng lớn để đẩy khóa ra. Nhưng đồng thời, với Hannah, việc bẻ khóa cũng có thể là một trò đánh lạc hướng. Nó có thể đã làm trước đó hàng giờ, thậm chí hàng mấy ngày. Ai mà kiểm tra cái cổng làm gì. Nó bị coi là vĩnh viễn đóng kín rồi.

Tên sát nhân có thể đã phá khóa rồi khép kín hai cánh cổng từ trước, sau đó đi qua nhà vào giết ông Thống đốc, và cũng rút lui bằng đường ấy. Cái mà Hannah muốn là đầu đạn thứ hai, hy vọng vẫn mắc trong thi thể, và khẩu súng. Ông nhìn ra mặt biển xanh lấp lánh. Nếu nó bị ném xuống biển, ông sẽ chẳng bao giờ tìm ra.

Ông đứng lên, lau miệng và đi ra tìm Oscar với chiếc Jaguar. Đã đến lúc có vài lời trao đổi với Cha Drake.

Sam McCready cũng đang ăn trưa. Khi bước vào phòng ăn có một phía thông ra hàng hiên của Quarter Deck, các bàn đều chật cả. Trên quảng trường bên ngoài, thấy nhiều người áo sơ mi sặc sỡ, kính đen sẫm ôm mặt đang bố trí chỗ trưng bày một cái rơmooc được trang trí cờ đuôi nheo với vô số áp phích mang hình Marcus Johnson. Con người vĩ đại này sẽ diễn thuyết lúc ba giờ chiều.

Sam nhìn quanh và thấy còn một ghế trống. Ghế đó ở bên chiếc bàn có một người đang ăn. Anh hỏi.

“Hôm nay đông nhỉ. Tôi ngồi cùng bàn được chứ?”

Eddie Favaro chìa tay về phía cái ghế. “Xin mời.”

“Anh đến đây câu cá?” McCready hỏi.

“Phải.”

“Lạ thật,” McCready nói sau khi gọi Seriche, món cá sống vắt chanh tươi. “Nếu tôi không lầm thì anh là cớm.”

Anh không nói đến cuộc điều tra tầm xa của anh tối qua, sau khi quan sát Favaro ở bar, bằng cách gọi cho người bạn ở FBI Miami, và cũng không nói đến câu trả lời nhận được sáng nay.

Favaro đặt vội vại bia xuống, trừng trừng nhìn. “Ông là cái anh quái quỉ nào vậy? Cớm Anh à?”

McCready phẩy tay, vẻ dàn hòa. “Không quyến rũ đến thế đâu. Chỉ là một viên chức dân sự mong muốn được vài ngày nghỉ yên tĩnh, thoát khỏi cái bàn giấy thôi mà.”

“Thế cái gì đã làm ông nghĩ tôi là cớm?”

“Bản năng thôi. Anh có cái gì đó rất là con nhà cớm. Có vui lòng cho tôi biết thực sự anh ở đây làm gì không?”

“Vì cái chết tiệt gì tôi lại phải nói với ông?”

“Bởi vì,” McCready nhẹ nhàng giải thích, “anh đến đây ngay khi Thống đốc bị bắn. Vì thế đấy.”

Rồi anh đưa Favaro xem tờ giấy mang tiêu đề Bộ Ngoại giao, thông báo Mr Fank Dillon là viên chức của Bộ và đề nghị Những người có liên quan hết sức giúp đỡ.

Favaro suy nghĩ. Trung úy Broderick đã nói thẳng anh đi với nhân danh cá nhân, khi đến lãnh thổ của Anh.

“Chính thức thì tôi đi nghỉ,” Favaro nói. “Không, tôi không câu cá. Còn không chính thức, tôi đi tìm xem tại sao một người bạn của tôi bị giết, và kẻ nào giết.”

“Kể tôi nghe đi, có thể tôi giúp được anh đấy.”

Favaro kể Julio Gomez đã chết thế nào. Người Anh vừa nhai miếng cá sống vừa chăm chú nghe.

“Tôi cho là Gomez đã nhìn thấy một kẻ trên đảo Tia Nắng và cũng bị kẻ đó nhìn thấy. Một kẻ mà chúng tôi đã từng chạm trán ở Metro-Dade, là Francisco Mendes, biệt hiệu Bò cạp.”

Tám năm trước, cuộc chiến chống ma túy đã được phát động tại Nam Florida, chủ yếu là vùng Metro-Dade. Trước đó, bọn Colombia vận chuyển cocaine vào, còn các băng Cuba, lưu vong thì phân phối chúng. Sau rồi bọn Colombia quyết định cắt bọn trung gian Cuba đi, để trực tiếp bán cho người sử dụng. Bọn Cuba lập tức phản ứng, và cuộc chiến nổ ra, máu chảy suốt từ đó đến giờ.

Mùa hè 1984, một tên mặc bộ đồ da trắng đỏ, cưỡi chiếc Kawasaki, đỗ ngoài cửa một quầy bán rượu ở trung tâm Dadeland Mali, lôi ra khẩu carbine kiểu Uzi, bình tĩnh xả hết băng đạn vào cửa hàng đang đông khách. Ba người chết và mười bốn bị thương.

Lẽ ra thì tên giết người đã cao chạy xa bay, nhưng cách đó hai trăm mét, có một viên cớm trẻ đi môtô đang dán vé phạt các xe đỗ trái phép. Khi tên giết người vứt bỏ khẩu Uzi đã hết đạn và phi đi, viên cảnh sát đuổi theo, vừa đuổi vừa báo cáo bằng bộ đàm tình hình và đường chạy của hắn. Được nửa đường tới Bắc Kendall Driver, tên chạy xe Kawsaki giảm tốc độ, tạt ra lề đường, rút khẩu Sig Sauer 9mm từ trong áo ra, ngắm bắn vào ngực viên cảnh sát đang lao tới. Khi thấy anh ta nhào xuống đường, tên giết người rồ máy lao đi, đó là theo lời kể của các nhân chứng đã tả rất kỹ về bộ quần áo da và cái xe. Còn mặt hắn thì bị mũ bảo hiểm che kín.

Mặc dù Bệnh viện dòng Baptist chỉ cách đó bốn khối nhà và được cấp cứu ở mức cao nhất, nhưng người cảnh sát đã chết ngay trong đêm. Anh ta hai mươi ba tuổi, để lại người vợ góa và đứa con gái nhỏ.

Nhưng cuộc gọi của anh đã báo động hai xe tuần tra đang ở trong khu vực. Một dặm cách đó, chiếc xe tuần tra đã thấy chiếc môtô chạy hết tốc độ và ép nó vào một vòng cua hẹp đến nỗi tên lái xe ngã bổ nhào. Trước khi kịp đứng đậy, hắn đã bị bắt giữ.

Bề ngoài tên này rất giống người Mỹ La tinh. Thế là nội vụ được trao cho Gomez và Favaro. Suốt bốn ngày đêm họ đối mặt với tên giết người, cố moi ở hắn một lời. Nhưng hắn tuyệt đối không, cả tiếng Anh lẫn tiếng Tây Ban Nha.

Cũng chẳng có dấu tay trên súng, bởi hắn mang găng. Nhưng găng tay đã biến mất và mặc dù tìm kiếm từng gốc cây ngọn cỏ trong vùng cảnh sát cũng không bao giờ còn được thấy chúng nữa. Họ đoán hắn đã ném vào thùng một chiếc xe chạy ngang. Kêu gọi dân chúng giúp đỡ, họ đã tìm ra khẩu Sig Sauer, vứt vào một cái vườn bên đường. Chính khẩu súng đó đã giết viên cảnh sát, nhưng chẳng có dấu tay nào hết.

Gomez tin rằng tên sát nhân là người Colombia. Tiệm rượu vốn là điểm thả cocaine của bọn Cuba. Sau bốn ngày, anh và Favaro đành đặt cho hắn biệt hiệu Bò cạp.

Sang ngày thứ tư, có một luật sư rất cao giá xuất hiện. Y trình ra một hộ chiếu Mehico mang tên Francisco Mendes. Hộ chiếu mới, hợp lệ, nhưng không có dấu nhập cảnh Mỹ. Tên luật sư thừa nhận thân chủ của y có thể nhập cảnh bất hợp pháp và đề nghị cho nộp tiền bảo lãnh. Cảnh sát chống lại đề nghị đó.

Trước tòa, rất nhẹ nhàng, viên luật sư phản đối rằng cảnh sát chỉ bắt được một người mặc áo da trắng - đỏ đi xe Kawasaki, chứ không phải là người đi Kawasaki đã giết viên cảnh sát và những người kia.

“Cái tòa cứt đái đó đã đồng ý cho nộp tiền tại ngoại.” Favaro kể, “Nửa triệu đôla. Trong vòng hai mươi bốn giờ, Bò cạp được ra. Tên đó đã vừa nộp nửa triệu đôla vừa cười nhăn nhở. Một món tiêu vặt thôi mà.”

“Và tin rằng...” McCready hỏi.

“Hắn không chỉ là tên cứng cổ, mà còn là một trong những tay súng hàng đầu của bọn Columbia, nếu không chúng đã chẳng phải lặn lội và trả bằng ấy tiền để lôi hắn ra. Tôi nghĩ Julio đã nhìn thấy hắn ở đây, có thể còn tìm ra chỗ hắn ở nữa, nên bỏ dở cả kỳ nghỉ câu cá của mình để phía Mỹ có thể hợp lập hồ sơ xin dẫn độ từ Anh quốc.”

“Chúng tôi sẽ cho phép ngay,” McCready nói. “Tôi nghĩ chúng ta nên thông báo cho người của Scotland Yard tin này. Hơn nữa, bốn ngày sau Thống đốc cũng bị bắn chết. Thậm chí nếu hai vụ không có gì là liên quan đi nữa thì cũng đủ nghi ngờ để rung hắn ra khỏi hòn đảo này. Đây là một chỗ nhỏ bé.”

“Song nếu tìm thấy hắn thì sao? Liệu có thể quy cho hắn tội gì trên lãnh thổ Anh?” Favaro hỏi.

“Để khởi sự anh hãy mô tả nhận dạng chính xác của hắn. Đó sẽ là cơ sở cho một trát bắt giữ. Thám tử Chánh cảnh sát Hannah có thể là ở một lực lượng khác, nhưng không có ai thích gì những tên giết cảnh sát. Và nếu hắn đưa trình một hộ chiếu hợp lệ thì với tư cách nhân viên Bộ Ngoại giao, tôi sẽ tuyên bố đó là giả mạo, và sẽ cho phép đưa ra trát bắt giữ thứ hai.”

Favaro chìa tay. “Frank Dillon, tôi thích thế. Ta hãy đi gặp người của anh ở Scotland Yard đi.

Hannah ra khỏi chiếc Jaguar và bước tới những cánh cửa mở rộng của ngôi nhà thờ tường gỗ của dòng Baptist. Từ bên trong vọng ra tiếng hát. Ông bước lên bậc, qua cửa và làm quen mắt với ánh sáng mờ mờ bên trong. Nổi bật lên cái giọng nam trầm của Cha Drake trong bè đồng ca.

Hãy cất hộ tôi gánh nặng những tháng, năm...

Không thấy có nhạc đệm, chỉ là những giọng ca hòa với nhau. Viên giáo sĩ Baptist rời bục giảng đi đi lại lại giữa hai hàng ghế, tay vung vẩy khuyên khích ban đồng ca hát ca ngợi Chúa.

Hãy để tôi ẩn trốn nơi người

Hãy để cho máu và nước lã...

Chợt nhìn thấy Hannah nơi bậc cửa, ông im bặt và ra hiệu cho mọi người ngừng hát, giọng ca đột ngột chết lặng.

“Các anh chị em giáo hữu!” Viên giáo sĩ lớn tiếng nói. “Chúng ta bữa nay có một đặc ân. Ngài Hannah, người của Scotland Yard đến cùng chúng ta!”

Đám đông tản ra về các ghế dựa của họ và chằm chằm nhìn người nơi ngưỡng cửa. Đa số là người già và phụ nữ, lác đác vài quý bà trẻ tuổi và cả một đám trẻ con ồn ào, mắt mở thô lố

“Hãy đến cùng chúng tôi, người anh em! Hãy hát cùng chúng tôi. Thu xếp chỗ cho Mr. Hannah.”

Bên cạnh ông, một mệnh phụ to béo mặc chiếc áo dài hoa trao cho Hannah nụ cười và bước tới đưa ông quyển thánh ca của bà.

Hannah cần nó thật. Ông đã quên hết lời ca, lâu quá rồi còn gì. Cùng nhau, họ hát hết bài thánh ca đầy kích động. Hành lễ xong, mọi người ra về, mỗi người đều được Cha Drake mồ hôi đầm đìa đứng chào ở cửa.

Cuối cùng Cha Drake ra hiệu cho Hannah theo ông vào căn phòng đựng áo lễ, ở một bên nhà thờ.

“Tôi không thể mời ông bia, Mr Hannah. Nhưng tôi sẽ rất vui sướng chia sẻ món chanh lạnh này với ông.”

Ông lấy nó ra từ một phích đá và rót hai ly. Nước thơm mùi chanh tươi, và rất ngon.

“Và tôi có thể làm gì cho người của Scotland Yard?”

“Cho biết ông ở đâu lúc năm giờ chiều hôm thứ ba.”

“Dạy hát thánh ca ở đây, trước mặt năm mươi con người công giáo,” Cha Dreke đáp. “Nhưng sao?”

Hannah nhắc lại câu nói của ông ta sáng thứ sáu tuần trước ở bậc thềm dinh Thống đốc. Drake mỉm cười. Viên thám tử vốn chẳng nhỏ bé gì, thế mà ông thày tu còn cao hơn ông đến hai inches [1]

“À, chắc là ông Quince nói với ông chứ gì?” Ông ta nói cái tên ra như nhai phải một cục sạn.

“Tôi không nói thế,” Hannah đáp.

“Ông không cần phải chối. Đúng, tôi có nói những lời ấy. Và ông nghĩ tôi đã giết Thống đốc Moberley? Không, thưa ngài, tôi là người thích an lành. Tôi không động đến súng ống. Tôi không động đến mạng người.’’

“Vậy thì ông định ám chỉ gì, Mr Drake?’’

“Tôi chỉ định ám chỉ rằng không tin ông Thống đốc sẽ chuyển thỉnh cầu của chúng tôi tới London. Tôi định nói chúng tôi phải rút hết ngân quỹ nghèo nàn của mình ra, cử một người đến London xin cử một Thống đốc mới, người có thể hiểu và chuyển lên những thỉnh cầu của chúng tôi.’’

“Thỉnh cầu gì?”

“Một trưng cầu dân ý, Mr Hannah ạ. Ở đây đang xảy ra cái gì đó tồi tệ. Những người lạ đã chen vào đây, những kẻ đầy tham vọng muốn làm chủ mọi việc của chúng tôi. Chúng tôi vẫn sống hạnh phúc từ trước tới nay. Không giàu, nhưng thỏa mãn. Nếu chúng tôi có một cuộc trưng cầu, thì tuyệt đại đa số sẽ bỏ phiếu để ở lại với Anh quốc. Điều đó có sai trái gì không?’’

“Không sai trái gì thật,” Hannah công nhận. “Nhưng tôi không làm ra chính sách.”

“Thống đốc cũng vây. Nhưng ông ta vẫn cứ mang cái chính sách đó đến, dù cho biết là nó sai đi nữa.’’

“Ông ta không có cách nào khác,” Hannah nói. “Ông ta có trách nhiệm của mình.”

Drake gật đầu trong khi uống nước chanh, “Đó chính là điều mà những người đóng đinh Chúa Christ đã nói.”

Hannah không muốn bị lôi kéo vào tranh luận về chính trị hay tôn giáo, ông có vấn đề tên sát nhân của ông rồi. “Ông không thích Sir Marston, đúng không?”

“Đúng, xin Chúa tha tội cho tôi.”

“Còn vì lý do nào khác với những nhiệm vụ mà ông ta phải làm ở đây không?”

“Ông ta là kẻ đạo đức giả và một tên thông dâm. Nhưng tôi không giết ông ta. Chúa Trời cho đi thì Chúa Trời đòi lại, Mr Hannah ạ. Chúa trông thấy tất cả. Tối hôm thứ ba đó là Chúa đòi Sir Marston Moberley về.”

“Chứa trời thì ít khi sử dụng khẩu súng ngắn cỡ nòng lớn lắm,” Hannah nói. Trong một thoáng ông nghĩ đã bắt chợt được một gợi ý thoáng qua trong cái nhìn của Drake. “Ông nói thông dâm. Điều đó có nghĩa gì vậy?”

Cha Drake nhìn ông sắc sảo. “Ông không biết sao?”

“Không.”

“Myrtle, cái cô thư ký đi vắng đó. Ông chưa gặp sao?”

“Chưa.”

“Cô ta to béo, khỏe mạnh, đầy sức sống.”

“Rõ rồi. Cô ta đi thăm bố mẹ ở Tortola chứ gì?”

“Không,” Drake nhẹ nhàng đáp, “cô ta đang ở Bệnh viện đa khoa Antigua, chờ đẻ.”

Ôi trời, Hannah nghĩ. Ông chỉ mới nghe nói đến cô ta. Chưa từng nhìn thấy ảnh. Cha mẹ người da trắng, cũng sống ở Tortola.

“Cô ta... tôi biết nói thế nào nhỉ...?”

“Da đen?” Drake oang oang. “Phải, dĩ nhiên cô ta da đen. Một cô da đen lớn con và nồng nhiệt. Kiểu mà Sir Marston Moberley thích.”

Và Lady Moberley biết, Hannah nghĩ. Lady Moberley phờ phạc khốn khổ, bị bao năm nhiệt đới và những cô thổ dân này xô đẩy đến chỗ phải uống rượu giải sầu. Không nghi ngờ gì nữa, bà đã phải nhẫn nhịn. Mà có khi không cũng nên. Có khi bà bị lôi đi quá xa, như lần này chăng.

“Giọng ông nghe hơi có vẻ Mỹ,” Hannah nói khi đứng dậy. “Ông có thể cho tôi biết tại sao được không?”

“Có nhiều trường dạy giáo lý Baptist tại Mỹ, và tôi học ở đó.”

Hannah trở về dinh Thống đốc. Trên xe, ông điểm qua danh sách những kẻ tình nghi.

Trung úy Haverstock hiển nhiên biết cách sử dụng một khẩu súng nếu anh ta có được, nhưng không có động cơ rõ ràng nào, trừ phi anh ta chính là cha đứa con của Myrtle, và Thống đốc đe dọa bãi nhiệm anh ta.

Lady Moberley thì có nhiều lý do nhưng bà phải có một người giúp đỡ thì mới bẻ gẫy được cái khóa cổng thép đó. Trừ khi bà móc xích vào cái Land-Rover mà kéo.

Cha Drake nữa, mặc dù nói rằng mình ưa hòa bình. Tất cả những ai có khí chất đó đều có thể bị đưa đi quá xa.

Ông cũng nhớ lại lời khuyên của bà cụ Coltrane về việc xem xét bọn người xúm quanh các ứng cử viên. Phải, ông cần phải làm vậy. Nhưng vì động cơ gì chứ? Sir Marston đang chơi hộ chúng ván cờ của chúng, đưa các đảo về độc lập, với một trong hai nhóm người là Thủ tướng mới. Trừ khi một nhóm nghĩ rằng ông ta ủng hộ nhóm kia.

Khi ông về tới dinh Thống đốc, đã có một núi tin tức đáng chờ.

Chánh thanh tra Johnson đã kiểm tra số đăng ký vũ khí của mình. Chỉ sáu khẩu súng có khả năng bắn được, trên đảo. Ba khẩu thuộc về những người ngụ cư, đó là những quý ngài về hưu - hai Anh và một Canada. Chúng đều là súng ngắn mười hai phát, để bắn bồ câu núi. Khẩu thứ tư là súng trường, của tay thuyền trưởng tàu đánh cá Jimmy Dobbs để bắn cá mập nếu có con quỷ dữ nào đó tấn công thuyền. Khẩu thứ năm chỉ để triển lãm, không bao giờ bắn, thuộc về một tay ngụ cư nữa, người Mỹ, đã định cư ở đây. Súng vẫn nằm trong hộp, có nắp kính đậy, còn nguyên niêm phong. Khẩu thứ sáu là của chính Jones, vẫn bỏ trong hòm có khóa, chìa ở trạm cảnh sát.

“Chết tiệt,” Hannah rủa. Dù là khẩu súng nào được sử dụng đi nữa, nó cũng không phải là loại được đăng ký.

Thám tử Parker thì báo cáo về cái vườn. Nó đã được tìm kiếm từ đầu đến cuối, từ đỉnh đến đáy. Không có đầu đạn thứ hai. Hoặc là nó đã chạm vào xương trong thân mình Thống đốc, bị lệch khi trở ra và bay qua tường vây để biến mất vĩnh viễn; hoặc, nhiều phần chắc chắn hơn, nó vẫn nằm trong xác Thống đốc.

Bannister đã nhận được tin từ Nassau. Một máy bay sẽ hạ cánh lúc bốn giờ, chờ khoảng một tiếng, để đưa tử thi về giải phẫu ở Bahamas. Dr. West sẽ hạ cánh xuống đó sau vài phút nữa, để chờ giải phẫu.

Đến ba giờ, lại có hai người nữa đợi Hannah trong phòng vé.

Hannah hạ lệnh kiếm một kẻ đã sẵn sàng để chở thi thể ra sân bay. Sau đó Hannah ra gặp các vị khách mời.

Người có tên là Frank Dillon tự giới thiệu mình và giải thích rằng tình cờ ông ta lên nghỉ trên đảo và cũng tình cờ ông gặp người Mỹ ở bữa trưa. Ông ta đưa tờ giấy giới thiệu và Hannah đọc, không mấy hài lòng. Bannister từ Cao ủy ở Nassau chính thức cử đến là một chuyện; còn một viên chức ở tận London tình cờ đi nghỉ mà lại định nhảy vào cuộc săn tìm thủ phạm giết người thì thật chẳng khác nào một con hổ ăn chay. Rồi ông quay sang người Mỹ, anh ta thú thật rằng mình cũng là thám tử.

Tuy nhiên, thái độ của Hannah đã thay đổi khi Dillon kể câu chuyện của Favaro.

“Anh có ảnh tên Mendes đó không?” Ông hỏi.

“Không, không có ở đây.”

“Liệu có thể kiếm nó trong hồ sơ cảnh sát ở Miami?”

“Có, và có thể gửi nó cho người của ngài ở Nassau.”

“Thế thì làm đi,” Hannah nói. Ông liếc đồng hồ. “Tôi sẽ kiểm tra tất cả đăng ký hộ chiếu từ ba tháng trở lại đây. Xem liệu có tên Mendes nào hay bất kỳ một cái tên có chất Mỹ Latinh nào đã lên đảo. Còn bây giờ, xin lỗi, tôi phải ra xem việc đưa thi hài lên máy bay như thế nào.”

“Đã khi nào ông nghĩ tới việc nói chuyện với các ứng cử viên chưa?” McCready hỏi khi họ đi ra.

“Rồi,” Hannah đáp, “Việc đầu tiên của sáng mai. Trong khi chờ kết quả giải phẫu đến.”

“Ông có phiền nếu tôi đi cùng?” McCready hỏi. “Tôi hứa sẽ không nói một lời. Nhưng, này, cả hai đều là chính khách hay là không?

‘‘ Thôi được’’ Hannad miễn cưỡng đáp băn khoăn rằng cái tay Frank Dillon này thực ra làm việc cho ai?

Trên đường tới sân bay, Hannah nhận ra cái áp phích đầu tiên của ông đã được dán vào chỗ trống trên tường, giữa các áp phích của hai ứng viên, nơi còn có thể tìm được chỗ. Có quá nhiều giấy được dán lên Port Plaisance, ở đó, tường như được phủ một lớp giấy.

Các áp phích của chính quyền, in ở một nhà in địa phương được Thanh tra Jones che chở, trả bằng ngân quỹ tòa Thống đốc, hứa sẽ trao phần thưởng một ngàn đôla Mỹ cho ai biết kẻ nào đã ở trong ngõ hẻm cạnh vườn dinh Thống đốc vào lúc khoảng năm giờ chiều thứ ba.

Một ngàn đôla Mỹ là số tiền đáng kinh ngạc đối với người dân ở Port Plaisance. Chắc nó sẽ làm một ai đó xuất hiện - một ai đã nhìn thấy một cái gì hoặc một người nào. Và ở Tia Nắng, tất cả mọi người đều biết nhau.

Tại sân bay, Hannah chứng kiến việc chuyển thi thể lên máy bay cùng với Bannister và bốn người của đội pháp lý Bahamas. Bannister nhận trông coi sao cho toàn bộ những mẫu vật thu được sẽ được chuyển bằng chuyến bay tối về London, để sáng mai sẽ được một xe từ Scotland Yard đến lấy, đưa về phòng giám định pháp lý của Bộ Nội vụ ở Lambeth. Ông rất ít hy vọng nó sẽ làm sáng tỏ thêm điều gì; vấn đề là ông muốn có viên đạn thứ hai và Dr West sẽ tìm nó cho ông khi mổ tử thi ở Nassau, tối nay.

Vì đang ở sân bay, Hannah để lở mất cuộc mít tinh của Johnson ở quảng trường Nghị viện, cả giới báo chí cũng vậy, đã xúm vào đám mít tinh từ đầu, nhưng nhìn thấy đoàn xe cảnh sát đi qua cũng vội theo ra sân bay.

McCready thì không bị lỡ. Anh đứng trên hàng hiên của khách sạn Quarter Deck vào đúng lúc ấy.

Một đám lộn xộn khoảng hai trăm người đã tụ họp lại để nghe người mang lại phồn vinh cho họ diễn thuyết.

McCready nhận ra có đến nửa tá những tên mặc sơ mi sặc sỡ, kính đen, len lỏi trong đám người, phân phát những mẩu giấy và những lá cờ nhỏ mang hai màu xanh, trắng của ứng cử viên. Còn những mẩu giấy là đôla.

Đúng ba giờ mười, một chiếc Ford Fairlane trắng, chắc là chiếc xe lớn nhất đảo, lướt vào quảng trường và đỗ ngay bên sàn diễn. Mr Marcus Johnson chui ra xe, leo lên bậc thang, vung hai tay trong động tác của võ sĩ quyền anh thắng cuộc. Khơi mào bởi những tên mặc áo sặc sỡ, tràng vỗ tay vang lên. Một số vẫy cờ. Vài phút sau, Marcus Johnson đã hăng hái diễn thuyết.

“Và tôi hứa với quý vị, các bạn của tôi, tất cả quý vị đều là bạn của tôi, khi có được tự do, thịnh vượng sẽ tràn đến đảo của chúng ta như sóng biển. Sẽ vô khối công việc ở khách sạn, ở bến tàu mới, ở quán rượu, quán cà phê, ở những nhà máy chế biến cá biển xuất khẩu. Ở tất cả những chỗ đó, của cải sẽ như nước. Và của cải đó sẽ đổ vào túi các bạn, các bạn thân mến ạ, chứ không phải vào tay những kẻ ở tận London.”

Hắn dùng loa để tất cả mọi người ở quảng trường cùng nghe rõ. Nhưng có một người không cần dùng đến loa đã ngắt lời hắn. Một giọng trầm rất sâu vang lên từ bên kia quảng trường, át cả lời diễn giả.

“Johnson!” Cha Drake oang oang. “Chúng tôi không muốn ông ở đây! Ông ở đâu thì hãy về đấy và mang cả bọn tay chân ông theo cho rảnh mắt.”

Tất cả bỗng lặng ngắt. Đám đông bàng hoàng chờ trời sập xuống. Chưa từng ai dám ngắt lời Marcus Johnson.

Nhưng trời không sập. Không một lời, Johnson buông loa xuống và trèo lên xe ôtô. Hắn nói một câu gì đó và chiếc xe chồm lên, theo sau là xe chở tay chân.

“Ai nói đấy?” McCready hỏi người bồi cũng đứng ở hàng hiên.

“Đức cha Drake, thưa ngài,” Anh ta coi bộ khiếp đảm.

McCready trầm tư. Anh đã nghe giọng này ở đâu rồi, và đã nhớ lại được. Đó là ba mươi năm trước, ở trại Catterick, vùng Yorkshire. Đang trên thao trường, anh về phòng gọi cho Miami bằng điện thoại bảo mật.

Đức cha Walter Drake bị trừng phạt một cách lặng lẽ. Có đến bốn tên, và chúng rình lúc ông rời nhà thờ về để tấn công bằng gậy đánh bóng chầy và cẳng chân. Chúng đánh rất nặng tay, cứ quật gậy và xỉa giầy vào thân người đã nằm dưới đất. Khi xong việc, chúng để mặc ông nằm đấy Có thể ông đã chết chúng cũng cóc cần. Nhưng ông không chết.

Nửa giờ sau, ông tỉnh lại và cố bò đến một nhà gần nhất. Họ vội gọi cho bác sĩ Caracatus Jones.

Tối hôm đó, trong bữa ăn, Desmond Hannah có một cú điện thoại. Ông phải rời khách sạn đến dinh Thống đốc để nhận. Đó là điện của Dr. West gọi từ Nasau.

“Coi, tôi biết rằng họ đã cố giữ gìn thi thể,” ông bác sĩ pháp y nói, “Nhưng cái xác này cứng như một khúc gỗ. Đóng băng lại rồi.”

“Người địa phương đã làm hết sức mình.”

“Thì tôi cũng vậy. Nhưng ít nhất phải mất hai mươi bốn giờ nữa mới tan được băng.”

“Cố gắng càng nhanh càng tốt vậy,” Hannah thở dài. “Tôi cần cái viên đạn chết tiệt ấy vô cùng.”

Chú thích

[1] Inch: Đơn vị đo của Anh, mỹ bằng 2,54cm