Chương 2
Mặc dù vậy, không có một phản ứng tức thì nào trong ngôi nhà. Vào giờ này, chỉ có hai người đang ở đó. Jefferson lúc đó đang ở chân cầu thang chuẩn bị món nước quả cho bữa tối, bởi bà Moberley là người bài rượu. Sau này anh ta khai rằng khi chiếc máy xay sinh tố được bật điện, tiếng ồn của nó vang hết cả căn bếp và chắc là đúng vào thời gian đó, súng nổ.
Viên sĩ quan tùy tùng của Thống đốc là trung úy Jeremy Haverstock, một chàng trai mặt bấm ra sữa được phái đến từ đội Kỵ binh Cận vệ của Nữ hoàng. Anh ta đang ở trong phòng riêng ở đầu kia dinh, cửa sổ đóng kín và máy điều hòa chạy hết cỡ. Anh ta cũng đang, như là sau này khai, mải mê với chương trình âm nhạc của Radio Nassau, nên anh chẳng nghe thấy gì hết.
Đến lúc Jefferson vào vườn hỏi ý Sir Marston về món colet cừu thì tên sát nhân hiển nhiên đã biến qua cái cổng sắt từ lâu. Jefferson chỉ còn thấy ông chủ mình nằm vật ra đó, cánh tay vẫn đang ở tư thế mà viên đạn thứ hai đã quật ông xuống, một vết nâu sẫm vẫn còn loang ra trên ngực áo sơ mi màu xanh đậm.
Đầu tiên Jefferson nghĩ ông chủ bị ngất bèn chạy tới nâng lên. Khi đã thấy lỗ đạn xuyên vào ngực ông, anh ta sững lại, rồi chạy như điên đi tìm trung úy Haverstock. Viên sĩ quan trẻ đến sau đó vài giây, vẫn đang mặc quần sooc đấm bốc.
Haverstock xem xét thi thể mà không chạm tay tới, xác định Sir Marston đã chết hẳn, rồi ngồi vào chiếc ghế của ngài cố Thống đốc để cân nhắc xem phải làm gì.
Một sĩ quan chỉ huy trước kia đã viết về trung úy Haverstock thế này, “Có giáo dục tuyệt vời, nhưng không được tuyệt vời thông minh" làm như anh ta là con ngựa của kỵ binh chứ không phải là một sĩ quan. Nhưng ở một trung đoàn Kỵ binh Cận vệ người ta thường có kiểu đánh giá như thế này: một con ngựa hay thì khó lòng thay thế được, còn một sĩ quan cấp thấp thì không được như thế.
Haverstock ngồi trên ghế sát cạnh cái thi thể và suy nghĩ về nội vụ, trong khi Jefferson cứ đứng trố mắt ra trên bậc thềm vào nhà. Viên sĩ quan trẻ nhận định (a) anh ta đang có trong tay xác ông Thống đốc (b) có kẻ nào đó đã bắn ông ta rồi chạy trốn (c) anh cần phải thông báo điều này cho cấp trên. Nhưng rắc rối là cấp trên cao nhất của anh ta chính là ông Thống đốc, hoặc đã từng là vậy. Đúng lúc ấy, Lady Moberley về đến nhà.
Jefferson nghe thấy tiếng lạo xạo dưới bánh xe chiếc Jaguar Limousine công vụ trên lối đi rải sỏi và chạy vội ra đón. Cách báo tin của anh ta rất rõ ràng, mặc dù không được mấy tế nhị. Anh ta đón bà ở sảnh và nói. “Ôi, Lady, Thống đốc bị bắn, chết rồi.”
Lady Moberley chạy ra vườn và gặp ngay Haverstock đang bước lên bậc. Anh dìu bà về buồng ngủ và an ủi khi bà nằm xuống. Bà coi bộ hoang mang nhiều hơn là đau khổ, dường như lo lắng rằng tối thiểu bây giờ Bộ Ngoại giao cũng sẽ rối beng lên vì cái chết của chồng mình.
Sau đó, Haverstock phái Jefferson đi tìm ông bác sĩ duy nhất của đảo, cũng là người giám định những cái chết bất thường trên đảo, và Chánh thanh tra Jones, tình cờ lại chính là cháu viên bác sĩ-phán quan kia. Anh ta ra lệnh cho viên quản gia đang quẫn trí là không được nói gì với họ, chỉ đơn giản yêu cầu họ khẩn cấp tới Dinh Thống đốc.
Đó là một yêu cầu vô ích. Jefferson khốn khổ đã kể chuyện cho Chánh thanh tra Jones trước các cặp mắt trố ra của cảnh sát viên, và cho Dr. Caractacus Jones, trước mặt người nhà ông ta. Giống như ngọn lửa rồ dại, tin tức được lan truyền khắp nơi ngay khi ông chú và ông cháu lên đường tới Dinh Thống đốc.
Khi Jefferson đi rồi, trung úy Haverstock ngồi suy nghĩ xem nên báo về London cách nào. Dinh Thống đốc không được trang bị các phương tiện thông tin hiện đại và bảo mật, bởi người ta nghĩ là không cần thiết. Ngoài điện thoại thông thường, các điện tín của Thống đốc đều phải qua cao ủy Anh ở Nassau-Bahamas trước khi đến London, và phải sử dụng hệ C2 đã quá cổ. Thiết bị đó đang nằm trên chiếc bàn kê sát vách trong phòng riêng Thống đốc.
Thực ra, nó là một máy Telex thông thường mà tất cả các thông tín viên trên toàn thế giới đều biết và đều kinh khiếp. Liên lạc với Nassau bằng cách đánh thang mã gọi thông thường và chờ bên kia trả lời sẵn sàng. Sau đó Telex sẽ được mã hóa nhờ một cái hộp nữa đặt bên cạnh. Bất kỳ điện tín nào cũng sẽ được đánh Tường minh ra giấy trước mặt người gửi và được tự động giải mã ở đầu Nassau. Trên đường truyền, nó ở dạng mật mã.
Nhưng phiền một nỗi là để khởi động máy Lập mã, phải đưa vào máy những đĩa xẻ rãnh tương ứng với ngày trong tháng. Những đĩa đó được cất trong két của Thống đốc, luôn luôn khóa kín. Thư ký riêng của người chết, Myrtle, có tổ hợp số mở két nhưng cô ta lại vừa đi thăm cha mẹ ở Tortola trong quần đảo Virgin. Khi Myrtle đi vắng, Thống đốc vẫn tự gửi các điện tín đi. Ông cũng biết tổ hợp số mở két, nhưng Haverstock thì không.
Cuối cùng Haverstock đành gọi cho cao ủy ở Nassau qua điện thoại công cộng và nói thẳng ra vụ việc. Hai mươi phút sau, ông Bí thư thứ nhất hối hả gọi lại cho anh để khẳng định sự việc, lắng nghe lời trình bầy và yêu cầu anh mau mau niêm phong Dinh Thống đốc và giữ pháo đài cho đến lúc tiếp viện đến từ London hay Nassau. Ông này sau đó điện một bức vào loại tuyệt mật cho Bộ Ngoại giao. Lúc đó đã là sáu giờ, và ở Caribbe, bóng tối đã xuống dày. Ở London thì là mười một giờ đêm và điện được đưa tới tay quan chức trực đêm. Ông ta gọi viên trưởng phòng Caribbe tại nhà riêng ở Chobham và cả guồng máy bắt đầu chuyển động.
Ở Tia Nắng, tin tức truyền đến cảng Plaisance trong vòng hai giờ và tại đó, một người chơi radio nghiệp dư, trong cuộc gọi buổi tối thường lệ của mình, đã chuyển nó cho một tay tài tử khác ở Chevy Chase gần Washington. Tay tài tử radio người Mỹ này lại có máu báo chí, liền gọi ngay cho Associated Press. Mặc dù đầy ngờ vực nhưng cuối cùng AP vẫn phát bản tin, bắt đầu bằng, “Thống đốc của nhóm đảo Caribbe thuộc địa của Anh quốc có tên Barclays có tin đã bị bắn chết bởi một tên sát nhân không rõ tung tích vào lúc chập tối hôm nay, theo tin của một nguồn tin chưa được xác định ở nhóm đảo nhỏ nay."
Bản tin được phó biên tập trực đêm viết, tay này đã cuối xuống tấm bản đồ lớn, với một kính phóng đại mạnh, để tiếp tục giải thích hòn đảo này nằm ở đâu và thế nào.
Ở London, khi chỉ một vài giờ nữa là sáng, Reuters đã có được cầu chuyện đó từ kẻ kình địch với mình và cố gắng lấy được lời khẳng định của Bộ Ngoại giao. Ngay trước bình minh, Bộ này thừa nhận có nhận được một báo cáo như thế và các biện pháp cần thiết đã được áp dụng.
Các biện pháp đó bao hàm cả việc đánh thức một loạt người đang ngủ vùi ở nhà của họ tại khắp trong và ngoài London. Các vệ tinh của Cơ quan tình báo quốc gia Mỹ bỗng nhận thấy xuất hiện dòng thông tin radio dày đặc giữa London và cao ủy ở Nassau và thông báo xuống cho Cục An ninh quốc gia ở Fort Meade. Cục này thông báo cho CIA, nhưng họ đã biết do đọc tin của Associated Press. Cả một nền công nghiệp giá trị khoảng một tỷ đôla chạy hết công suất chỉ ba giờ sau khi một tay tài tử radio với chiếc máy phát tự lắp lấy trong một cái lều ở sườn núi Spyglass tán gẫu với anh bạn hắn ở Chevy Chase.
Tại London, Bộ Ngoại giao báo động cho Bộ Nội vụ và đến lượt mình, họ dựng dậy Sir Peter Imbert, Giám đốc Cảnh sát đô thành, yêu cầu cử ngay thám tử cao cấp đi. Giám đốc đánh thức Simon Crawshaw của đội Đặc nhiệm và anh ta đánh thức viên chỉ huy nhóm Trọng án của đội.
Sĩ quan chỉ huy Braithwaite gọi cho phòng Dự bị, RO, thường trực hai bốn trên hai bốn, hỏi. “Những ai nằm trong khung?” Đây là một phòng nhỏ có nhiệm vụ duy trì một danh sách những thám tử cao cấp có thể huy động lập tức khi có những việc cấp bách để trợ giúp giới chức cảnh sát bên ngoài phạm vi đô thành. Viên thám tử ở đầu danh sách sẽ sẵn sàng sau một giờ. Người tiếp theo sẽ sau sáu giờ và người thứ ba - sau hai mươi bốn giờ.
Viên trung sĩ trực của phòng Dự bị xem xét bản phân công trước mặt anh ta ở New Scotland Yard, trả lời.
“Chánh Cảnh sát, thám tử Craddock, thưa ngài.” Rồi mắt anh ta gặp phải dòng ghi chú bên lề danh sách. “Không, thưa ngài, tôi xin lỗi, ông ta phải có mặt làm nhân chứng ở Old Bailey vào mười một giờ trưa nay.”
“Vậy thì ai?” Viên chỉ huy to tiếng hỏi từ nhà riêng ở West Drayton, ngay bên ngoài sân bay Heathrow.
“Mr Hannah, thưa ngài.”
“Và ai là thám tử phụ tá cho ông ta?”
“Wetherall, thưa ngài.”
“Yêu cầu ông Hannah gọi cho tôi. Ngay bây giờ.”
Lúc đó là sau bốn giờ sáng một chút, một buổi sáng tháng Mười Hai tối đen, lạnh giá, chuông điện thoại réo trên chiếc bàn cạnh giường ở khu Croydon đánh thức Chánh cảnh sát, thám tử Desmond Hannah. Ông lắng nghe những chỉ dẫn từ Phòng Dự bị, rồi làm theo ngay.
“Bill? Des Hannah đây. Có chuyện gì vậy?” Ông nghe trong năm phút rồi hỏi, “Bill, cái đảo Tia Nắng ấy ở chỗ quái nào?”
Trở lại chuyện Tia Nắng, Dr.Caractacus Jones phải dùng đèn pin để khám xét tử thi và tuyên bố đã chết hẳn, rồi chẳng biết làm gì nữa. Ông là bác sĩ thực hành đa khoa chứ đâu phải chuyên gia pháp y. Ông trông nom sức khỏe chung chung cho dân cư trên đảo, và có một vài đồ giải phẫu đơn giản để điều trị những vết cắt hoặc vết bầm dập. Ông đã từng đỡ đẻ vài ca, và hàng chục lần rút lưỡi câu ra khỏi ai đó. Là bác sĩ, ông có thể cấp chứng tử, là phán quan, ông có thể cấp chứng táng - nhưng ông chưa từng mổ cái xác Thống đốc nào, và không hề định làm việc ấy, bây giờ. Những vết thương nặng hay ốm đau nặng cần điều trị phức tạp đều được đưa đến Nassau, nơi có bệnh viện hiện đại. Còn ông, thậm chí cái nhà xác cũng không.
Trung úy Havestock từ phòng riêng đi ra, thông báo.
“Nassau nói sẽ có một sĩ quan cao cấp của Scotland Yard đến. Hãy giữ nguyên hiện trường.”
Chánh thanh tra Jones cắt cảnh sát gác cửa trước để ngăn đám người hiếu kỳ đã bắt đầu lấp ló, rồi đi quanh vườn và phát hiện ra cái cửa sắt mà kẻ sát nhân hiển nhiên đã vào từ đó. Nó đã được hắn kéo kín lại khi đào tẩu nên Haverstock không nhận ra. Thanh tra Jones lập tức cắt một người nữa gác ở đó với nhiệm vụ là cấm mọi người đến gần, bởi có thể có những vân tay Scotland Yard cần.
Trong bóng tối ngoài cổng sắt, viên cảnh sát được cắt gác ngồi xuống, dựa lưng vào tường và ngủ thiếp ngay.
Trong vườn, thanh tra Jones ra lệnh, “Tất cả mọi thứ đều phải giữ nguyên cho tới khi có lệnh mới. Tử thi cũng phải để nguyên tại chỗ.”
“Đừng có ngốc thế, cháu,” chú ông ta, Dr.Jones nói. “Nó sẽ thối ra đấy. Mà đã bắt đầu rồi.”
Ông ta nói đúng. Trong cái nóng của Caribbe, các xác chết thường rữa ra trong vòng hai mươi bốn giờ. Không có cách nào giữ được. Ruồi đã bu đầy mặt và ngực ông Thống đốc tử nạn. “Phải cho vào nhà lạnh thôi.” Cuối cùng, Dr. Jones nói như kết luận, và ai cũng thấy đúng.
Nhà lạnh ở tận dưới bến tàu, chạy bằng điện của máy phát thành phố. Haverstock xốc vai người chết, còn Chánh thanh tra Jones nhấc chân. Lady Moberley thì tự nhấc đầu nhìn ra cửa khi ông chồng quá cố của bà được khiêng qua sảnh, miệng kêu “Ôi... ôi... ôi” rồi lại nằm xuống.
Rồi họ nhận ra không thể cứ khiêng Sir Marsbon thế này đến tận bến tàu. Thùng xe Jaguar được người ta nghĩ đến nhưng lại bỏ ngay vì quá nhỏ và không lịch sự lắm.
Cuối cùng, chiếc Land-Rover của cảnh sát hóa ra lại thích hợp. Người ta dọn một chỗ trống ở đằng sau và ông cố Thống đốc được nằm thoải mái ở đó, vai dựa vào lưng ghế trên, còn chân thì thò ra ngoài khiến Dr. Jones phải ấn chúng vào trong để đóng cửa sau.
Với thanh tra Jones cầm lái và trung úy Haverstock ở ghế bên, chiếc Land-Rover chạy đi, kéo theo hầu hết dân cư cảng Plaisance chạy theo. Ở đó, Sir Marston được đặt nằm một cách trọng thể giữa đống nước đá, nhưng ngài cố Thống đốc của Nữ hoàng ở nhóm đảo Barclays không thấy lạnh, và qua đêm đầu tiên ở thế giới bên kia kẹp giữa con cá Marlin với con cá ngừ. Đến sáng thì cả ba cái xác trông đều na ná nhau.
Sáng hôm sau, lúc bảy giờ, khi những ngón tay đầu tiên của mặt trời chạm vào vòm mái nhà thờ Westminster, Chánh cảnh sát, thám tử Hannah đã ngồi với Chỉ huy cảnh sát Braithwaite trong phòng làm việc của ông này ở New Scotland Yard.
“Anh cất cánh trưa nay, trên chuyến bay thường lệ của BA[1] từ Keathrow đến Nassau,” Chỉ huy nói. “Đã thu xếp được chỗ ngồi ở khoang hạng nhất. Chuyến này đã hết chỗ, tức là phải bớt hai hành khách cho bay chuyến sau.”
“Còn đội đi theo thì sao?” Hannah hỏi. “Họ ngồi ở hạng hai hay hạng tiết kiệm?”
“À, đội đi theo hả? Thế này, Des ạ, họ sẽ được bổ sung từ Nassau. Bộ Ngoại giao sẽ thu xếp việc đó.”
Desmond Hannah thấy bốc lên mùi của một âm mưu. Ông đã năm mốt tuổi, vốn là một cớm đời cũ, chuyên bắt bọn trộm vặt, rồi leo từng bước, từ một cảnh sát viên chuyên tuần tra trên đường phố London, giúp các bà già qua phố, hướng dẫn dùm khách du lịch... đến cấp Chánh cảnh sát. Ông chỉ còn một năm nữa là về hưu và có lẽ sẽ tiếp nhận số phận giống như bạn bè ông, là làm trưởng phòng bảo vệ cho một công ty nào đó, đỡ căng thẳng hơn.
Ông biết mình sẽ chẳng bao giờ lên đến cấp Chỉ huy cảnh sát, và bốn năm trước ông được chuyển về tổ án mạng của nhóm Trọng án thuộc đội Đặc nhiệm, cái chỗ mà ai cũng biết là một nghĩa địa khổng lồ. Vào thì béo tốt, lúc ra chỉ còn nắm xương. Nhưng ông thích mọi việc phải đâu vào đấy. Trong bất cứ nhiệm vụ nào, kể cả ở ngoại quốc, một thám tử điều tra án mạng phải có một đội tháp tùng ít nhất gồm bốn người: một phân tích hiện trường, một thí nghiệm, một ảnh và một vân tay. Thường vẫn vậy.
“Tôi muốn lấy người ở đây, Bill.”
“Không được đâu, Des. Tôi e điều khiển vụ này sẽ là Bộ Ngoại giao. Bên Nội vụ cho biết thế. Và họ thì tính đến từng xu. Cao ủy Nassau đã thu xếp để cảnh sát Bahamas cung cấp lực lượng ông cần. Tôi chắc họ cũng rất vững.”
“Họ làm cả giải phẫu tử thi sao?”
“Không, chúng tôi sẽ cử Ian West đến Nassau làm việc đó. Tử thi hiện vẫn ở trên đảo. Ngó qua xong, anh hãy cho vào bao nilon, gửi đến Nassau. lan bay sau anh hai mươi bốn giờ, và khi đến, sẽ bắt tay vào việc ngay được.”
Hannah càu nhàu, dù đã nguôi đi được một chút. Ít nhất là với Dr. Ian West, ông đã có trong tay một nhà pháp y loại bậc nhất thế giới.
“Thế sao Ian không đến thẳng đảo Tia Nắng và giải phẫu ở đó?” Ông hỏi.
“Ở đó thì đến nhà xác cũng chẳng có.”
“Thế thì xác hiện để ở đâu?’
“Tôi cũng không biết.”
“Ma quỉ, thế thì đến lúc tôi tới nó phải rữa ra hết rồi,” Hannah nói, đâu biết khi đó Sir Marston chẳng những không thể rữa ra mà còn cứng lại như đá. Dr. West sẽ không thể đưa lưỡi dao mổ vào người ông được. “Nếu có được đầu đạn nguyên hay đầu đạn dội trở lại, tôi muốn việc phân tích đạn đạo sẽ được làm ở đây,” ông nói thêm. “Đầu đạn có thể kết nối toàn bộ vụ việc.”
“Được. Nói với người của Cao ủy Nassau là chúng ta cần gửi nó về đây trong túi thư ngoại giao. Bây giờ sao anh không đi ăn cái gì cho ấm bụng trước khi lên đường? Xe sẽ đợi anh lúc chín giờ. Thanh tra của anh sẽ mang túi điều tra án mạng đến và sẽ gặp anh ngoài xe.”
“Thế còn báo chí?” Trước khi đi Hannah còn hỏi.
“Kêu gào ầm ĩ, tôi e thế. Nhưng chưa báo nào đăng tải vụ việc. Tin mới lộ ra một hai giờ trước đây. Nhưng điện tín cứ sôi sùng sục lên vì nó. Có trời mà biết chúng lấy tin ở đâu mà nhanh vậy. Thế nào cũng có vài thằng nhà báo khốn kiếp loanh quanh ở sân bay để leo lên cùng chuyến đó cho mà xem.”
Trước chín giờ chút xíu, Desmond Hannah đã xuất hiện, nhìn quanh tìm Harry Wetherall, thanh tra của ông từ ba năm nay. Chẳng thấy đâu, lại thấy một anh chàng mặt đỏ tía, trạc ba mươi tuổi, bước vội đến. Anh ta xách theo túi án mạng, là một va li nhỏ chứa giẻ lau, vải, bao vỏ, chai lọ, túi nilon, nạo, nhíp cặp, que tăm... những dụng cụ để phát hiện, thu nhặt và giữ gìn dấu vết.
“Mr Hannah?” Anh ta hỏi.
‘‘Anh là ai?”
“Thanh tra Parker, thưa ngài.”
“Thế Wetherall đâu?’’
“Anh ấy ốm. Cúm châu Á hay gì đó. Phòng dự bị bảo tôi đi thay. Thật tuyệt vời khi được làm việc với ngài.”
‘Trời đánh Wetherall! Hannah nghĩ. Đồ chết tiệt!
Trên xe ra sân bay, Parker (chắc tên là Peter) chỉ nói về Caribbe, bởi đã đến đó hai lần, với Câu lạc bộ Y học.
“Ngài đã tới đó bao giờ chưa, thưa ngài?” Anh ta hỏi.
“Chưa.” Hannah chỉ đáp vậy.
Ở Heathrow, ông và Parker đang được chờ đón. Kiểm tra hộ chiếu chỉ là hình thức. Túi án mạng không phải đưa qua máy soi, vì nó có thể gây những chú ý không cần thiết. Một nhân viên sân bay dẫn hai người vòng qua các khâu thủ tục, vào thẳng phòng đợi hạng nhất.
Hiển nhiên báo chí đã hiện diện, dù Hannah không thấy họ đâu, cho đến tận khi lên máy bay. Hai hãng tin đã dùng tiền thuyết phúc các hành khách nhường chỗ cho họ để đi chuyến sau. Vài hãng khác lên được hai chuyến bay Miami buổi sáng, trong khi cơ quan chủ quản thì tìm cách thu xếp những máy bay cho thuê từ Miami đến Tia Nắng. Các nhóm Camera của BBC TV News và British Satellite Broadcasting cũng hướng cả về Barclays, dẫn đầu là phóng viên ảnh của năm tờ báo lớn khác nữa, cũng có mặt trong cuộc hỗn chiến.
Trong phòng đợi, Hannah bị một anh chàng trẻ tuổi, thở hổn hển, tự giới thiệu là người của Bộ Ngoại giao chặn lại, chìa ra một tập hồ sơ dày cộm.
“Chúng tôi tập hợp tư liệu gốc cho ông.” Anh ta nói và trao hồ sơ. “Địa lý, kinh tế, dân cư Barclays... đại loại như vậy. Và dĩ nhiên, cả về tình hình chính trị hiện nay.”
Hannah thót tim lại. Một tên giết người thông; thường thì có thể giải quyết xong ngay trong vài ngày. Nhưng nếu là vấn đề chính trị... thì biết đến bao giờ
Máy bay cất cánh, anh chàng Parker không kìm được phấn chấn gọi sâmpanh uống rồi hào hứng trả lời các câu hỏi về bản thân. Hai mươi tám tuổi - trẻ so với chức DI [2]- vợ là nhân viên một hãng bất động sản, tên Elaine, sống ở Dockland, một vùng mới với nhà cửa hiện đại, gần Canary Wharf. Ham thích riêng của anh chồng là chiếc Morgan 4+4 thể thao, còn Elaine lái chiếc Ford Escort GTI.
“Loại có mui gập, dĩ nhiên,” Parker nói thêm.
“Dĩ nhiên rồi,” Hannah lầm bầm.
Parker gia nhập cảnh sát từ trường đại học và sau một khóa sĩ quan ngắn hạn, đã phục vụ một năm ở vùng phụ cận trước khi theo khóa huấn luyện đặc biệt của trường Cao đẳng cảnh sát Bramshill, rồi làm việc bốn năm ở Ban Kế hoạch.
Hannah đóng tập hồ sơ lại và nhẹ nhàng hỏi. “Thế anh đã điều tra mấy vụ án mạng rồi?”
“À, nói cho chính xác thì đây là lần đầu, nên tôi rất mừng được tham gia vụ này. Nhưng vào lúc rỗi, tôi vẫn đọc về tội phạm học. Tôi cho rằng việc tìm hiểu đầu óc bọn tội phạm là rất quan trọng.”
Desmond Hannah quay nhìn ra cửa sổ với nỗi khốn khổ thực sự. Ông đang có trong tay một Thống đốc chết, một cuộc bầu cử đã đến chân, một đội trợ giúp pháp lý Bahamas và một tân binh DI hăm hở tìm hiểu đầu óc bọn tội phạm. Sau bữa trưa, ông ngủ gà ngủ gật suốt, thậm chí còn cố quên giới báo chí, cho đến tận Nassau.
Tập san tin tức Associated Press của tối hôm trước thì quá chậm so với các tờ báo Anh ở London, do nó bị thiệt mất năm giờ, nhưng với tờ Miami Herald thì lại rất kịp thời, bởi tin đến ngay trước khi tờ này kịp lên khuôn.
Bảy giờ sáng, McCready đang ngồi ở ban công nhấm nháp ly cà phê đầu tiên của ngày, mắt nhìn ra mặt biển xanh ngọc, thì nghe thấy tiếng sột soạt quen thuộc của tờ Herald phía ngoài.
Anh mở cửa nhặt tờ báo rồi lại trở ra ban công. Bản tin của hãng AP nằm ở cuối trang nhất, nơi mẩu tin về một con tôm hùm to kỷ lục bị cắt bớt để nhường chỗ. Đó là một tin do AP phát, đề cập tới những vụ việc chưa được khẳng định, với cái tít ngắn: THỐNG ĐỐC ANH BỊ GIẾT? McCready đọc lại vài lần.
“Khá là bẩn thỉu,” anh lẩm bẩm và đi cạo râu, đóng bộ. Đúng chín giờ, anh bước vào tòa lãnh sự Anh ở Miami, và giới thiệu mình là Mr Frank Dillon ở Bộ Ngoại giao, phải chờ nửa giờ ông lãnh sự mới đến để xin gặp riêng. Đến mười giờ, anh đã có cái mình cần, một đường dây bảo mật đến sứ quán ở Washington. Anh trao đổi hai mươi phút với trưởng trạm SIS, một đồng nghiệp vốn rất biết anh từ hồi ở London và vừa cùng anh tham dự Seminar (Hội thảo) của CIA.
Đồng nghiệp ở Washington xác nhận câu chuyện và bổ sung thêm vài chi tiết mới từ London gửi tới.
“Tôi muốn nhào vô vụ này,” McCready nói.
“Nhưng có phải việc của chúng ta đâu?”
“Đúng thế, nhưng rất đáng xem. Tôi muốn rút ít tiền và muốn có một máy truyền tin.”
“Hãy đưa máy cho ông lãnh sự, để tôi nói chuyện.”
Một giờ sau, McCready rời tòa lãnh sự với tập đôla kha khá, cặp ngoại giao, điện thoại di động có mã hóa với tầm xa cho phép gọi đến tận tòa lãnh sự Miami để chuyển về Washington một cách an toàn.
Anh về khách sạn gói ghém đồ đạc, trả phòng, và gọi hãng hàng không taxi ở sân bay. Họ đồng ý cất cánh lúc hai giờ chiều để hạ cánh ở Tia Nắng, sau chín mươi phút.
Eddie Favaro dậy sớm. Anh đã xác định nơi có thể bắt đầu công việc: cộng đồng cho thuê thuyền câu ở cảng cá. Dù cho Julio Gomez có làm gì đi nữa thì phần lớn thời gian nghỉ của anh ta chắc chắn là ở đó.
Anh đi bộ tới đó. Không xa lắm. Hầu hết bức tường, gốc cây đều dán áp phích kêu gọi dân đảo đi bỏ phiếu cho ứng cử viên này hay ứng cử viên kia. Mặt của cả hai - một tròn xoe, béo tốt, vui vẻ; một bóng mượt, lịch sự, xanh tái - đều tươi cười trên đó. Tất cả đều được in rất đẹp. Ở một nhà kho gần cảng lại thấy có một khẩu hiện khác, bôi vẽ nguệch ngoạc.
CHÚNG TÔI ĐÒI TRƯNG CẦU Ý DÂN.
Khi anh đi ngang đó, một chiếc Jeep màu đen chở bốn người cũng phóng tới và rít phanh đứng lại. Cả bốn tên đều có vẻ mặt cô hồn, sơ mi sặc sỡ, kính đen che mắt. Bốn cái đầu đen trừng trừng nhìn khẩu hiệu rồi lại trừng trừng nhìn Favaro như thể anh phải chịu trách nhiệm về nó. Favaro nhún vai như muốn nói, chuyện này thì can dự gì đến tôi. Bốn bộ mặt cô hồn vẫn hầm hầm hướng về anh, cho đến khi anh khuất sau góc nhà. Rồi anh nghe tiếng nó chạy đi.
Favaro xuống cảng, bắt đầu dò hỏi, bằng cách chìa ra ảnh Julio Gomez.
Một người nói. “Có đấy, anh ta ở đây tuần trước, đi với Jimmy Dobbs, kia kìa, chiếc Gulf Lady.”
Chẳng có ai trên thuyền. Anh dựa vào cây cọc buộc thuyền, chờ. Như tất cả dân cớm, anh hiểu rõ ý nghĩa việc chờ đợi. Chuyện có được tin tức trong vòng vài giây chỉ xảy ra trong các phim trinh thám, còn trong nghề, anh phải dành hầu hết thời gian cho việc chờ đợi. Jimmy Dobbs xuất hiện lúc mười giờ.
“Ông Dobbs?”
“Vâng, tôi.”
“Chào, tôi là Eddihiee, đến từ Florida. Đây là thuyền của ông?”
“Nhất định rồi. Ông đến đây câu cá?”
“Đấy là sở thích của tôi.Và bạn tôi giới thiệu ông.”
“Tốt quá.”
“Julio Gomez, ông nhớ chứ?”
Khuôn mặt chân thật, cởi mở của người da đen bỗng tối lại. Ông ta vào trong Gulf Lady rút một cần câu cắm ở giá ra, xem xét lưỡi câu và kẹp mồi trong vài giây, rồi trao cho Favaro.
“Ông thích câu cá trích chứ? Có rất nhiều cá trích ngay dưới bến, ở đầu kia kìa.”
Cả hai cùng đi đến đầu kia của đê chắn sóng, cách khá xa đám người. Favaro không hiểu ra sao.
Jimmy Dobbs lấy lại cần câu và khéo léo thả dây câu xuống nước. Ông guồng chầm chậm, để cho cái móc mồi màu sáng động đậy ngay dưới mặt nước. Một con cá trích nhỏ màu xanh lao tới đớp mồi và lảng ra xa.
“Julio Gomez chết rồi,” Jimmy Dobbs nghiêm giọng.
“Tôi biết. Và tôi còn muốn biết tại sao. Anh ấy đã đi câu với ông rất nhiều, tôi nghĩ vậy.”
“Năm nào chả đi. Anh ấy tốt lắm, một tay ngon lành.”
“Gomez có cho ông biết công việc của anh ấy không?”
“Có. Một lần.”
“Ông có kể cho ai không?”
“Không hề. Anh là bạn hay đồng nghiệp của cậu ấy?”
“Cả hai, Jimmy ạ. Cho tôi biết đi, lần cuối ông gặp Julio là khi nào?”
“Ở đây này, tối thứ năm. Chúng tôi đi khơi suốt ngày. Anh ấy dặn tôi đợi sáng thứ sáu, rồi chẳng thấy đâu.”
“Sáng đó anh ấy đến đường băng, đáp vội một chuyến bay về Miami. Và đã chọn lầm máy bay. Nó nổ tung trên biển. Tại sao phải đưa tôi tới tận đây ông mới nói?”
Jimmy Dobbs giật được con cá chó mắt ngựa nặng hai pao rồi trao cái cần câu đang rung lên cho Favaro. Người Mỹ quay guồng. Anh chẳng thành thạo gì. Con cá lợi dụng lúc dây chùng thoát ra khỏi lưỡi câu.
“Có bọn xấu trên đảo.” Ông nói giản dị.
Favaro nhận ra giờ đây đã có thể cảm thấy cái mùi mà anh đã từng ngửi thấy trong thành phố: mùi sợ hãi. Anh từng biết nỗi sợ. Không một cớm Miami nào lạ cái mùi đặc trưng này. Bằng cách nào đó, nỗi sợ giờ đã tràn đến cả thiên đường.
“Khi chia tay ông, anh ấy có vui vẻ không?”
“Có. Còn mang một con cá rất ngon về làm bữa tối.”
“Về đâu?”
Jimmy Dobbs ngạc nhiên. “Về nhà bà Macdonald chứ đâu nữa, bao giờ cậu ta chả ở đấy.”
Bà Macdonald đang đi mua sắm. Favaro quyết định quay lại sau. Trước hết, hãy ra sân bay đã. Anh quay lại quảng trường Nghị viện. Có hai xe taxi ở đó nhưng cả hai lái xe đều đi ăn trưa. Chẳng còn gì để làm, anh về Quarter Deck để ăn, và lấy chiếc ghế ra ngồi ở hiên để canh chừng đám taxi. Xung quanh anh vẫn là sự ồn ào và kích động về vụ giết ông Thống đốc tối qua.
“Họ cử đến một thám tử cao cấp của Scotland Yard,” một người trong nhóm ngồi cạnh Favaro thông báo.
Hai tên bước vào bar. Chúng to lớn dềnh dàng và không nói một lời. Tất cả lập tức im bặt. Hai tên này lột bỏ tất cả những áp phích cổ động cho Marcus Johnson và dán lên áp phích kêu gọi
BỎ PHIẾU CHO LIVINGSTONE, ỨNG CỬ VIÊN CỦA NHÂN DÂN.
Dán xong, chúng bỏ đi.
Anh bồi đến đặt cá nướng và bia lên bàn.
“Họ là ai?” Favaro hỏi.
“Những người cổ động cho Mr Livingston,” người bồi nói một cách nhạt nhẽo.
“Coi bộ mọi người đều sợ họ.”
“Không đâu, thưa ngài.”
Anh bồi quay đi, cặp mắt trống rỗng. Favaro đã từng thấy những biểu hiện tương tự trong các phòng thẩm vấn của Metro-Dade. Phía sau những cặp mắt ấy là tấm mành sập xuống. Nó hàm chứa Không có ai trong nhà.”
Hannah và Parker đặt chân xuống Nassau lúc ba giờ chiều, giờ địa phương. Một quan chức cảnh sát Bahamas lên máy bay, nhận ra hai người của Scotland Yard, bèn tự giới thiệu và chào mừng họ đến Nassau, rồi đưa họ tới chiếc xe Land Rover đang chờ sẵn. Cơn gió đầu tiên thơm ngát song mạnh mẽ và nóng nực ập tới. Trong bộ quần áo mặc từ London, Hannah lập tức đổ mồ hôi.
Hannan và Parker được đưa tới gặp Longstreer, phó cao ủy Anh và một viên chức cấp dưới. Bannister nói có một số vấn đề về vấn đề thông tin. Hình như jo5 không mở được két của Thống Đốc: ‘‘Tôi sẽ đặt một cổ hợp mới đó vậy, ông có thể nói chuyện với Cao ủy ở đây bằng điện thoại vô tuyến, trực tiếp và bảo mật, dĩ nhiên. Và chúng tôi sẽ mang tử thi về luôn, nếu phán quan cho phép.
Anh ta nói nhanh và thiết thực. Hannan thích kiểu đó. Ông gặp bốn người trong nhóm pháp lý do cảnh sát Bahamas cung cấp một cách thiện ý.
Hannah nhìn qua cửa sổ ra ngoài. Ba mươi mét cách đó là chiếc máy bay thuê, mười chỗ ngồi đang đợi đưa ông và nhóm tháp tùng, đến Tia Nắng. Khoảng giữa tòa nhà và cái máy bay, hai đội camera đã chiếm chỗ để rình thời điểm bấm máy. Ông thở dài.
Khi chi tiết cuối cùng đã được sắp xếp, tất cả đi xuống thang. Các micro lập tức gí sát miệng ông, sổ ghi chép mở ra, sẵn sàng.
‘‘Mr Hannah, ông có tin sẽ sớm bắt được thủ phạm?’’
‘‘Đây có phải là một vụ ám sát chính trị không? Cái chết của Sir Marston có liên quan tới cuộc bầu cử không?’’
Óng gặp bốn người trong nhom ^^pá^jr¿o, cầnh sat Bahamas cung câp một cách tl
Hannah nhìn qua cửa sô đó là chiếc máy bay thuê, mưè
Cái chết của Sir Marston có liên quan tới cuộc bầu cử không?”
Ông mỉm cười và không nói gì. Họ đi tới máy bay dưới ánh mặt trời nóng bỏng. Khi họ đã vào máy bay, đám nhà báo chạy vội về các máy bay họ thuê được bằng hàng bó đôla hoặc do tòa soạn của họ ở London đặt trước. Lộn xộn như một bày ngỗng, những chiếc máy bay bắt đầu chạy ra vùng cất cánh. Lúc đó là bốn giờ hai mươi lăm.
Lúc ba giờ rưỡi, một chiếc Cessna nhỏ sà xuống đảo Tia Nắng và hạ cánh trên dải đường băng cỏ của sân bay.
“Một vùng hoang dại tuyệt đẹp!” Viên phi công người Mỹ gào lên với người ngồi cạnh. “Đẹp lắm, nhưng chỉ được cái đó thôi! Tôi muốn nói ở đây nghèo lắm!”
Sam McCready im lặng đồng ý, nhìn dải đường băng bụi bặm đang chạy đến với họ. Bên trái đường băng là ba khu nhà: một nhà sửa máy bay bằng tôn cuốn sóng, một lán thấp có mái tôn màu đỏ (là phòng đợi) và một nhà hình khối vuông có lá cờ Anh bên trên - trạm cảnh sát cửa khẩu. Bên ngoài phòng đợi, một người mặc sơ mi cộc tay đang nói chuyện với một người mặc quần soóc đấm bốc và áo thung. Có chiếc ô tô đỗ bên cạnh đó.
Tiếp đất, máy bay như lọt thỏm vào giữa rừng cọ mọc hai bên đường băng. Viên phi công thả cánh chắn gió, và máy bay chạy chậm dần lại.
“Chắc chứ, tôi nhớ cái máy bay ấy. Thật dễ sợ khi nghe chuyện mấy người khốn khổ ấy chết hết.”
Favaro tìm thấy người khuân vác đã chuyển hành lý lên chiếc Navajo Chief hôm thứ sáu tuần trước. Tên anh ta là Ben, và đưa hành lý lên máy bay là nghề nghiệp của anh. Giống như đa số dân đảo, anh thoải mái, trung thực, sẵn sàng tiếp chuyện.
Favaro đưa ra một bửc ảnh. “Anh có nhận ra người này không?’’
“Chắc. Anh ta đi nhờ máy bay đến Key West.’’
‘‘Sao anh biết?’’
“Đứng ngay cạnh tôi mà.” Ben đáp.
“Trông anh ta có vẻ lo lắng, và rất vội đúng không?”
‘‘Nếu là anh thì cũng thế thôi, anh bạn ạ! Anh ta nói với ông chủ rằng vợ anh ấy gọi điện báo tin con bị ốm. Cô gái thì nói rằng thế thì gay quá và cần phải giúp đỡ. Thế là ông chủ nói anh ta có thể đi cùng với họ đến Key West.”
“Còn có ai ở đó nữa không?”
Ben nghĩ một lúc. “Chỉ có một người nữa giúp chuyển đồ lên máy bay. Chắc là ông chủ thuê, tôi nghĩ vậy.”
“Hắn ta trông thế nào, cái tay giúp đỡ đó?”
“Chưa gặp bao giờ. Da đen, không phải người ở Tia Nắng, sơ mi màu sáng, kính đen. Không nói lời nào.”
Chiếc Cessna dừng bánh trước phòng đợi. Favaro thấy một người áo quần nhàu nhò, vóc dáng vừa phải bước ra. Ông ta lấy va ly và cái cặp ngoại giao khỏi ngăn hành lý, vẫy tay chào phi công và bước vào phòng đợi.
Favaro lơ đãng nhìn. Julio Gomez không hay dối trá, và làm gì có vợ con. Thế thì nhất định là phải cố gắng một cách tuyệt vọng để lên được chuyến bay về Miami. Nhưng tại sao chứ? Biết rõ bạn mình, Favaro tin rằng Julio bị đe dọa. Trái bom không dành cho Klinger, mà là cho Gomez.
Anh cám ơn Ben và bước ra chiếc taxi đang chờ. Khi lên xe, anh nghe một giọng Anh nói bên cạnh, “Tôi biết đòi hỏi thế này là quá đáng, nhưng tôi có thể đi nhờ về thành phố được không? Xe còn ghế trống mà.”
Đó chính là người vừa ra khỏi chiếc Cessna. “Nhất định rồi,” Favaro đáp. “Tôi mời ông.”
“Ông tốt quá,” người Anh nói.
Trong năm phút khi xe chạy vào thành phố, ông tự giới thiệu, “Frank Dillon.”
“Eddie Favaro. Ông đến đây câu cá?”
“Ồ không, cái đó không phải sở thích của tôi. Đến đây để hưởng chút thanh bình thôi.”
“Làm gì có. Đây đang loạn lên. Sắp có cả đám thám tử London đến, lại cả đống nhà báo nữa. Đêm qua có kẻ nào đó bắn chết Thống đốc trong vườn nhà ông ấy.”
“Trời ơi!” Người Anh kêu lên, coi bộ bị sốc thực sự.
Favaro để ông ta xuống cửa Quarter Deck, rồi cho xe đi, rồi đi bộ mấy trăm mét qua nhà bà Macdonald. Trên quảng trường Nghị viện, một người to lớn đang từ trên sàn xe diễn thuyết trước một đám dân chúng. Đó chính là Mr Livingstone. Favaro nghe được những lời oang oang.
“Và tôi nói rằng, thưa các anh các chị, các anh chị phải được chia phần tài nguyên của đảo! Các anh chị phải có phần cá đánh được ở biển, phải có phần trong những ngôi nhà đẹp mà một vài người giầu sống ở trên đồi đang chiếm, phải có phần...”
Đám đông coi bộ không phấn chấn như người đang diễn thuyết muốn. Cái sàn xe được yểm trợ hai bên bởi chính hai tên to lớn đã xé các áp phích ủng hộ Johnson ở khách sạn Quarter Deck lúc trưa và dán áp phích của chúng lên. Có vài tên nữa trong đám đông đang cố tìm cách kích động dân chúng hò reo. Nhưng ai nấy chỉ im lặng nghe. Favaro rảo bước. Bà Macdonald có nhà.
Desmond Hannah đến lúc sáu giờ kém hai mươi, khi trời đã tối. Bốn chiếc khác, đều là máy bay hạng nhẹ, cũng đã hạ cánh và đang sắp bay trở về Nassau trước khi màn đêm buông xuống.
Chúng chở đến những BBC, ITV, Sunday Times rồi Sunday Telegraph, rồi Sabrina Tennant với đội BSB của cô ta, Công ty phát thanh truyền hình vệ tinh Anh quốc.
Hannah, Parker, Bannister và bốn viên sĩ quan Bahamas được trung úy Haverstock và thanh tra Jones đón, một mặc bộ đồ hóng mát màu kem, một vận cảnh phục. Không bỏ lở dịp kiếm vài đôla, cả hai chiếc taxi của Port Plaisance và mấy chiếc xe tải nhỏ lập tức có mặt, rối rít chạy đi chạy lại.
Lúc mọi thủ tục đã làm xong và đoàn diễu hành đã kéo hết về Hotel Quarter Deck, Hannah quyết định sẽ không tiến hành điều tra dưới ánh đèn pin, song cũng ra lệnh phải gác dinh Thống đốc suốt đêm. Thanh tra Jones, có ấn tượng rất mạnh với ý nghĩa được làm việc với một thám tử thứ thiệt của Scotland Yard, đã quát to khi ra các mệnh lệnh cho cấp dưới.
Hannah ăn riêng với Parker và trung úy Haverstock, cho phép ông biết được những điều mắt thấy tai nghe xảy ra tối hôm trước. Sau đó ông lui vào phòng.
Giới báo chí tìm ngay thấy bar rượu, gọi đồ uống, và trả tiền ào ào. Thói đùa cợt chớt nhả của dân làm báo càng tăng lên khi đi làm việc ở nước ngoài. Không ai chú ý tới người mặc bộ đồ mỏng nhàu nát đang uống một mình ở góc bar, lắng nghe họ chuyện trò.
“Anh ấy đi đâu khi ra khỏi đây?” Eddie Favaro hỏi bà Macdonald. Anh ngồi bên cái bàn nhà bếp khi bà chủ tốt bụng bưng mời một chút xúp nâu ốc xà cừ.
“Anh ấy ra Quarter Deck uống bia,” bà đáp.
“Anh ấy có vui vẻ không?”
Giọng du dương như hát của bà vang khắp căn bếp.
“Chúa phù hộ cho anh, Mr Favaro, anh ấy vui vẻ quá là khác, vì đã mang về một con cá rất ngon cho tôi nấu bữa tối mà, nói sẽ quay về lúc tám giờ. Tôi bảo đừng về muộn, không món cá sẽ bị khô mất. Anh ấy bảo sẽ về đúng giờ.’’
“Thế có về đúng không?”
“Không, anh bạn a, muộn mất một giờ, có khi còn hơn ấy. Món cá đả hỏng. Và anh ấy nói vô lý.”
“Nói cái gì? Cái gì... vô lý.’’
“Chỉ nói thế thôi. Coi bộ rất lo lắng. Rồi bảo là thấy bò cạp. Nào, anh ăn hết xúp đi chứ. Món xúp này có được là nhờ long nhân từ của Chúa ở đây.’’
Favaro ớ ra, thìa xúp đang gần tới miệng chững lại. “Anh ấy nói là thấy bò cạp, hay là thấy một con bò cạp?’
Bà nhăn trán cố nhớ.
“Tôi nghĩ là anh ấy nói bò cạp. Nhưng cũng có thể nói một con bò cạp,’’ bà thú nhận.
Favaro ăn hết xúp, cám ơn bà chủ và trở về khách sạn. Bar rượu chật cứng. Anh tìm được một chỗ cách xa đám báo chí. Còn hai ghế, một đã bị người Anh đi nhờ taxi ngồi, ông ta nâng cốc lên chào anh nhưng không nói gì.
Cảm ơn Chúa, Favaro nghĩ, ít nhất lão Ănglê nhàu nát này cũng biết im lặng. Eddie Favaro cần phải suy nghĩ. Anh đã biết bạn anh chết như thế nào, và nghĩ rằng anh có thể biết tại sao. Nhờ sự tình cờ, hay bằng một cách bí mật nào đó, ở đây, trên hòn đảo thiên đường này, Julio Gomez đã nhìn thấy – hoặc nghĩ đã nhìn thấy – tên giết người máu lạnh ghê gớm nhất họ từng gặp trên đời.
Chú thích:
1 BA: (British Airways) Viết tắt của hãng hàng không Anh quốc.
[2] DI: viết tắt của Detectic Inspector, tạm dịch Thám tử phụ tá.