Chương 5
Tại Kingston sáng hôm đó, Sean Whittaker đã có một gặp gỡ đáng nhớ. Tối qua xuống sân bay muộn nên anh ta đi thẳng về nhà. Quá bảy giờ sáng hôm sau, một cú điện thoại đầu tiên gọi tới. Giọng Mỹ.
“Chào ông Whittaker. Hy vọng tôi không làm ông mất giấc ngủ?”
“Không, không hề. Ai gọi đậy?”
“Tên tôi là Milton. Chỉ là Milton thôi. Tôi cho là ông có một số bức ảnh mà có thể ông muốn tôi xem.”
“Điều đó còn phụ thuộc vào chính cái người mà tôi cho xem ấy,” Whittaker đáp.
Có tiếng cười nhỏ bên kia đầu dây. “Thế sao ta không gặp nhau nhỉ?”
Milton hẹn ở một nơi công cộng. Người Mỹ trông chẳng như một trưởng trạm DEA [1] ở Kingston mấy, khác hẳn với tưởng tượng của Whittaker. Phong độ tự nhiên của ông ta có phần giống như một sinh viên đại học.
“Xin thứ lỗi cho tôi,” Whittaker nói, “nhưng ông có định sử dụng chúng một cách lương thiện không?”
“Nào, hãy ra xe của tôi,” Milton bảo.* Họ tới sứ quán Mỹ. Milton tuy có văn phòng riêng bên ngoài, nhưng cũng có đặc quyền ra vào đây. Anh chìa thẻ ra, rồi đưa Whittaker vào một phòng trống.
“À,” Whittaker nói, “ông là một nhà ngoại giao Mỹ.”
Milton chẳng buồn cải chính, mỉm cười và yêu cầu cho xem các bức ảnh. Anh xem kỹ tất cả nhưng chỉ chú ý đến một cái.
“Vậy là hắn ta ở đây.” Anh nói.
Anh lôi ra tập hồ sơ, chọn lấy bức ảnh dán ở trang đầu hồ sơ đó đã chụp cách đây vài năm, hiển nhiên là chụp qua một lỗ nhỏ khoét ở rèm. Nhưng người trong ảnh thì cũng chính là người trong bức mới chụp.
“Muốn biết hắn là ai không?” Anh hỏi Whittaker. Đó là câu hỏi thừa. Tay phóng viên người Anh so sánh hai tấm ảnh và gật đầu.
“Okay, ta hãy bắt đầu,” Milton đọc lên nội dung hồ sơ, những gì anh thấy cần đọc ra. Whittaker ghi lấy ghi để.
Người của DEA rất tỉ mỉ. Hồ sơ cho biết những chi tiết nghề nghiệp, những cuộc gặp gỡ, các trương mục ngân hàng, các chiến dịch hoạt động, các mật danh được sử dụng, các chuyến chạy hàng, lợi nhuận thu được. Ghi xong, Whittaker ngồi phịch xuống.
“Phù, tôi có thể nêu tên ông là nguồn tin chứ?”
“Tôi không thể cho phép nói cụ thể là Mr Milton. Cứ nói là các nguồn tin cấp cao của DEA. Nói thế tiện hơn.”
Tiễn Whittaker ra, trên bậc lên xuống, anh khuyên “Sao ông không đến sở cảnh sát Kingston với số ảnh còn lại? Có thể người ta rất mong chúng đấy.”
Ở trụ sở cảnh sát, một Whittaker đầy sửng sốt được dẫn tới ủy viên cảnh sát Foster, trong một phòng lớn, gắn điều hòa nhiệt độ. Sau khi đón mừng Whittaker, ủy viên nhấn phím đàm thoại nội bộ gọi chỉ huy Gray lên gặp. Vài phút sau, viên trưởng phần ban hình sự bước vào, cắp một cặp đầy hồ sơ.
Hai người Jamaica nghiên cứu những bức ảnh của Whittaker chụp tám tên vệ sĩ bận sơ mi sặc sỡ. Mặc cho chúng đeo kính râm ôm sát mặt, chỉ huy Gray chẳng hề bối rối. Mở tập hồ sơ, ông nhận diện hết tên này đến tên khác. Whittaker ghi nhận mọi điều.
“Tôi có thể nêu tên hai quý ông là nguồn tin được không?” Anh ta hỏi.
“Nhất định rồi,” Ủy viên đáp. “Tất cả bọn chúng đều có vô số tiền án tiền sự. Có ba tên hiện đang bị truy nã ở đây. Ông có thể nêu tên tôi. Chúng tôi chẳng có gì phải giấu cả. Cuộc gặp gỡ này cũng được ghi nhận vào báo cáo.”
Vào giữa trưa, Whittaker viết xong câu chuyện, rồi sử dụng tuyến liên lạc thường xuyên truyền ảnh và bài về London, rồi nhận một cú điện thoại dài từ chủ bút tin tức ở London và được đảm bảo là bài viết sẽ được đăng ngày mai. Chi phí cho chuyến đi của anh ta không ai dám thắc mắc gì. Bây giờ không phải lúc thắc mắc.
Ở Miami, Sabrina Tennant lấy phòng nghỉ tại Hotel Sonesta Beach theo như lời khuyên có từ tối hôm trước và nhận điện thoại lúc tám giờ sáng. Cuộc gặp được hẹn tại một tòa nhà cơ quan ở trung tâm Miami. Đó không phải trụ sở CIA, mà là một nhà an toàn nào đó.
Cô được dẫn vào gặp một người, người này đưa cô tới phòng chiếu phim, ở đó, ba cuộn băng video của cô được chiếu cho hai người đàn ông ngồi xem. Họ không giới thiệu tên và không hề nói câu nào.
Xem xong, cô được dẫn trở lại phòng ban đầu, được mời cà phê và để ngồi một mình. Khi người nhân viên đầu tiên trở lại phòng, ông ta đề nghị cô gọi ông là Bill rồi yêu cầu cô cho xem những ảnh chụp hôm qua ở bến tàu.
Trên video, người quay phim đã không tập trung vào đội vệ sĩ của Horatio Livingstone, nên chúng chỉ xuất hiện như những hình bóng ngoài rìa. Nhưng ở tập ảnh thì chúng bị chụp tận mặt. Bill mở tập hồ sơ và cho cô xem những tấm ảnh khác của chính bọn này. Ông hỏi
“Tên này, tên đứng bên xe ôtô. Hắn xưng tên gì?’
“Mr Brown.”
Bill cười. “Cô biết tiếng Tây Ban Nha nó là gì không?’
“Không.”
“Là Moreno, và trường hợp này, Hernan Moreno.”
“Tôi có thể xin các ông những ảnh này để so sánh với ảnh của tôi không?’
“Tôi sẽ sao cho cô,” Bill đáp, “và sẽ giữ bản copy các ảnh của cô.”
Người quay phim của cô vẫn đợi trong taxi. Lén lút, anh ta chụp vài bức ảnh tòa nhà, nghĩ mình đang chụp ảnh cơ quan CIA. Nhưng anh ta nhầm.
Khi họ trở về Sonesta Beach, Sabrina Tennant trải các bức ảnh ra - của cô, và của hồ sơ của CIA - trên cái bàn rộng trong phòng tiệc mà cô mượn được, và cho quay toàn bộ chúng. Cô dựng một cảnh với tấm phông ở tường phòng tiệc và bức ảnh Tổng thống Bush, mượn của viên quản lý. Nó sẽ gây ấn tượng như là một phòng bí mật của CIA.
Muộn hơn chút nữa, cô tìm ra một vịnh nhỏ, không người, ở phía trên xa lộ số Một của Mỹ và cô làm một cảnh nữa, lấy nền là cát trắng, những cây cọ đu đưa và mặt biển xanh, một bản sao của bãi biển Tia Nắng.
Đến trưa, cô thiết lập một đường liên lạc vệ tinh với London và chuyển qua đó toàn bộ tư liệu cho BSB. Cô nói chuyện rất lâu với chủ bút tin tức trong khi đội dựng phim bắt đầu ghép các cảnh. Khi xong việc, một câu chuyện tư liệu dài mười lăm phút đã hoàn thành, gây ấn tượng như là Sabrina Tennant đã đến Caribbe chỉ với một ý định trong đầu: khám phá.
Ông chủ bút thay đổi tứ tung trình tự chương trình Countdown phát hôm chủ nhật và gọi cho cô ở Florida.
“Nó phá phách ghê quá. Tuyệt lắm, em yêu.”
McCready cũng đang rất bận. Anh dành một phần buổi sáng để nói chuyện với London và phần còn lại, với Whashington, qua máy đàm thoại xách tay.
Ở London, anh tìm Tư lệnh Lực lượng Đặc nhiệm không lực SAS ở doanh trại Quận công xứ York, King’s Road, Chelsea. Viên tướng trẻ, dày dạn, lắng nghe.
“Tôi đồng ý,” ông ta nói. “Tôi có hai người đang giảng ở Fort Bragg bây giờ. Nhưng tôi phải xin phép đã.”
“Không kịp. Xem họ còn phép không?”
“Tôi nghĩ rằng còn.”
“Thế thì tôi sẽ mời họ, cả hai, ba ngày nghỉ ngơi, tắm nắng ở dây. Là khách riêng của tôi. Quá đẹp còn gì.”
“Sam, anh là tên ranh ma chó chết. Để tôi liệu xem có thể làm được gì. Còn họ sẽ được nghỉ phép. Song, chỉ được tắm nắng thôi, nghiêm cấm làm gì khác.”
“Quên đi,” McCready đáp.
Chỉ bảy ngày nữa là Giáng sinh, Port Plaisance tấp nập chuẩn bị cho kỳ nghỉ lễ vào chiều thứ bảy ấy.
Dù trời nóng, nhiều quầy kính cửa hàng vẫn trang trí bằng những bức vẽ chim cổ đỏ, cây nhựa ruồi, những thông Giáng sinh và tuyết bằng Polystyrène. Rất ít người dân đảo từng nhìn thấy chim cổ đỏ, hoặc bụi cây nhựa ruồi, chưa nói đến tuyết, nhưng truyền thông Anh từ thời Victoria bao đời nay lại tin theo giả thuyết Chúa Jésus sinh ra giữa tất cả những thứ đó, cho nên chúng phải có đủ để tạo nên một khung cảnh Giáng sinh.
Bên ngoài nhà thờ Anh giáo, Mr Quince, được các cô gái nhỏ hăng hái giúp đỡ, đang trang trí một hoạt cảnh bên dưới mái rơm. Một búp bê nhựa được đặt trong máng, và lũ trẻ bầy những hình gia súc có sừng, cừu, lừa và chó chăn cừu bên cạnh.
Còn ở ven thành phố, Cha Draker đang tập cho đội đồng ca hát bài thánh ca. Giọng trầm sâu lắng của ông giờ không thể cất cao nổi. Bên dưới tấm áo chùng đen, nửa thân trên bị cuốn chật bởi lớp băng của Dr. Jones để che đỡ cho bộ sườn bị dập và giọng ông vang lên rè rè, đuối hơi. Con chiên liếc nhìn nhau đầy ý nghĩa. Mọi người đều biết chuyện gì xảy ra với ông tối thứ năm. Chẳng có gì giữ được bí mật lâu ở Port Plaisance này.
Lúc ba giờ, một chiếc xe thùng méo mó dừng lại ở quảng trường Nghị viện. Từ chỗ ngồi của lái xe bước ra là thân hình khổng lồ của Firestone. Anh ta đi vòng ra sau, mở cửa và nhấc Missy Coltrane xuống, cùng với xe đẩy và nhiều thứ khác. Nhẹ nhàng, anh ta đưa bà đi dọc phố chính để bà mua đồ. Chẳng có dân báo chí nào ở đó. Đa số bọn họ, chán nản, đã đi bơi ở Conch Point.
Xe lăn rất chậm, đi đến đâu bà cũng được không biết bao người chào hỏi. Bà chào lại từng người, hỏi thăm những người bán hàng, gọi tên họ, không quên một ai.
“Chào cụ, Missy Coltrane.”
“Chào anh, Jasper... chào anh, Simon... Chào cậu, Emmanuel.” Bà hỏi thăm tất cả phụ nữ, trẻ con, chúc mừng người gặp may, thông cảm với người bị tai nạn. Bà mua bán như thường lệ, và những người bán hàng mang đồ ra tận cửa cho bà chọn.
Bà trả tiền, lấy từ một cái ví nhỏ để trong lòng, và từ túi xách tay lớn, bà lấy những viên kẹo nhỏ, dường như không bao giờ hết, để phân phát cho đám trẻ tranh nhau mang những túi đồ cho bà, hy vọng kiếm thêm suất nữa.
Bà mua quả tươi và rau; dầu hỏa thắp đèn, diêm, dược thảo, gia vị, thịt và dầu thực vật... Đường đi của bà qua hết khu buôn bán, đến cảng. Ở đó, bà chào hỏi những người đánh cá và mua hai con cá hanh cùng với một con tôm hùm to mà khách sạn Quarter Deck đặt trước. Nếu Missy Coltrane muốn thì bà sẽ có ngay, khỏi bàn cãi. Khách sạn Quarter Deck sẽ lấy tôm nhỏ và ốc xà cừ vậy.
Trở về quảng trường Nghị viện, bà gặp Chánh cảnh sát, thám tử Hannah đang bước ra khỏi khách sạn, đi cùng thám tử Parker và một người Mỹ tên là Favaro. Họ ra đường băng đón chuyến bay bốn giờ từ Nassau đến.
Bà chào cả ba, mặc dù chưa từng gặp hai người kia. Firestone nhấc bà lên, đặt vào xe rồi lái đi.
“Ai vậy?” Favaro hỏi.
“Một bà cụ già sống ở trên núi kia,” Hannah đáp.
“Ồ, tôi đã nghe về bà ấy,” Parker nói, “người như biết tất cả về các đảo này.”
Hannah cau mày. Bởi cuộc điều tra đang bế tắc, ý nghĩ đã mấy lần hiện ra trong đầu ông là Missy Coltrane có thể biết nhiều hơn những gì đã nói ra với ông về cái kẻ đã giết Thống đốc. Tuy nhiên, lời khuyên của bà cụ về đám tùy tùng của hai ứng cử viên thật hết sức lạ lùng. Ông ta đã gặp cả hai người và cái bản năng cảnh sát của ông mách bảo rằng không cần quan tâm đến họ Giá họ có động cơ để giết người thì lại khác.
Chiếc máy bay từ Nassau đến hạ cánh sau bốn giờ một chút. Viên phi công mang một gói của cảnh sát Metro- Dade gửi cho Mr Favaro. Viên thám tử Miami đến tự giới thiệu và nhận gói. Parker, với cái lọ đựng đầu đạn để trong túi áo vét, leo lên máy bay.
“Sẽ có một xe đến đón anh ở Heathrow vào sáng mai,” Hannah dặn. “Đi thẳng tới Lambeth. Tôi muốn viên đạn đến tận tay Alan Mitchell càng sớm càng tốt.”
Máy bay cất cánh, Favaro đưa Hannah xem các bức ảnh Fracisco Mendes, biệt hiệu Bò cạp. Hannah nghiên cứu chúng. Cả thảy có mười ảnh, chụp một người gầy, lầm lì, mái tóc đen bóng mượt và cái miệng mỏng vô cảm. Đôi mắt, nhìn thẳng vào ống kính, thì trống rỗng. “Một thằng chó đẻ, rất bẩn mắt.” Hannah nói. “Hãy mang cho Chánh tranh tra Jones.”
Ông ta đang ở trạm cảnh sát trên quảng trường Nghị viện. Tiếng hát thánh ca từ nhà thờ Anh giáo và tiếng cười đùa từ bar của Quarter Deck cùng vọng tới. Đám báo chí đã trở lại.
Jones lắc đầu. “Không, chưa gặp hắn bao giờ, ông ạ. Không có trên các đảo này.”
“Tôi không nghĩ Julio có thể nhầm tên này,” Favaro nói, “chúng tôi đã đối diện hắn suốt bốn ngày đêm mà.”
Hannah có vẻ đồng ý với ý kiến đó. Có thể anh ta đã nhìn thấy hắn ở một chỗ tệ hại, chính là trong dinh Thống đốc. Biết đâu vụ giết người này chẳng là một hợp đồng giết mướn. Nhưng tại sao...?
“Ông có thể xác minh việc này chứ, Mr Jones? Chìa ảnh cho mọi người xem. Hắn bị nghi là đã được trông thấy ở bar của Quarter Deck thứ năm tuần trước. Biết đâu vài người khác cũng trông thấy hắn. Bất kỳ ai thấy hắn ra khỏi bar này, bất kỳ ai thấy hắn vào một bar khác...”
Thanh tra Jones gật đầu, biết công việc của mình.
Hannah xem đồng hồ. Parker chắc phải đến Nassau cả tiếng rồi, bây giờ đang ngồi chuyến bay đêm về London đây. Tám tiếng bay, năm tiếng sai biệt múi giờ, anh ta sẽ hạ cánh khoảng bảy giờ sáng, giờ London.
Alan Mitchell, nhà khoa học thông minh sáng láng lãnh đạo Labo đạn đạo Bộ Nội vụ ở Lambeth đã nhận lời giúp ông làm việc luôn với viên đạn, trong ngày chủ nhật. Ông ta sẽ test nó bằng mọi phương pháp đã biết và sẽ gọi cho Hannah vào chiều chủ nhật, với kết quả tìm được. Lúc đó Hannah sẽ biết chính xác ông cần tìm khẩu súng nào. Cái đó sẽ thu hẹp diện nghi vấn. Một kẻ nào đó nhất định đã bị người ta nhìn thấy từng sử dụng súng này. Đây là cộng đồng nhỏ xíu mà.
Hannah bị ngắt quãng khi đang ăn bữa tối vì một cú phone từ Nassau.
“Tôi e máy bay cất cánh sẽ chậm một giờ,” Parker nói. “Mười phút nữa mới bắt đầu. Ngài nên báo cho London.”
Hannah xem đồng hồ. Bảy rưỡi. Ông rủa, rồi trở lại với món cá nướng. Nó đã nguội ngắt.
Ông đang lấy chìa khóa buồng tại quầy tiếp tân lúc mười giờ thì chuông điện thoại ở quầy reo.
“Tôi vô cùng xin lỗi, thưa ngài,” Parker nói.
“Anh đang ở cái chỗ chết tiệt nào vậy?” Hannah gào.
“Nassau, thưa sếp. Ngài thấy đấy, chúng tôi đã cất cánh lúc bảy rưỡi, bay qua biển được bốn lăm phút mới phát hiện ra một động cơ bị hỏng nhẹ, và phải quay trở lại. Các kỹ sư đang sửa máy bay. Sẽ không lâu đâu.”
“Lúc sắp cất cánh anh gọi lại cho tôi nhé, để tôi còn báo cho London.”
Ông bị đánh thức lúc ba giờ sáng.
“Kỹ sư đã phát hiện ra chỗ hỏng,” Parker nói. “Một cuộn rơle đèn báo động đã bị đứt dây. Ở động cơ ngoài.”
“Parker,” Hannah nói chậm, “ai đó có đái vào thùng xăng nữa tôi cũng cóc cần. Vấn đề là chữa xong chưa?”
“Rồi, thưa ngài.”
“Vậy anh sắp bay chứ gì?”
“À, không hẳn vậy. Ngài biết đấy, bay ngay lúc này để tới London, sẽ không bảo đảm sức khỏe cho phi hành đoàn, nên họ phải nghỉ ngơi đã.”
“Còn đội bay dự bị? Cái đội bay đến chiều qua, cách đây mười hai giờ ấy. Họ chắc đã nghỉ ngơi đầy đủ?”
“Vâng, cho tìm họ rồi. Có điều, họ nghĩ sẽ được nghỉ ba mươi sáu giờ nên viên đội trưởng đã đi chơi qua đêm với bạn, không tìm ra nổi.”
Hannah đưa ra vài lời nhận xét chẳng mấy tốt đẹp về cái hãng hàng không được coi là nổi tiếng trên thế giới mà chủ tịch của nó, Lord King, nếu nghe thấy, chắc khó mà chấp nhận được.
“Không còn cách gì khác ư?” Ông hỏi.
“Ngoài cách đợi đến khi đội bay nghỉ ngơi xong.”
Hannahbước ra cửa. Chẳng có taxi, cũng chẳng có Oscar. Ông đi bộ đến Dinh Thống đốc, đánh thức Jefferson và được mở cửa cho vào. Trong bóng đêm ẩm ướt, ông thấy mình đẫm mồ hôi. Ông gọi về London để báo cho Mitchell, nhưng nhà khoa học đã ra khỏi nhà năm phút trước đó. Bây giờ là bốn giờ sáng ở Tia Nắng tức chín giờ ở London. Ông đợi một tiếng, cho đến tận lúc gọi được cho Mitchell để thông báo Parker không thể đến đó trước buổi tối. Alan Mitchell có vẻ chẳng hài lòng lắm.
Parker gọi lại vào giữa trưa chủ nhật.
“Sao?” Hannah nói mệt mỏi.
“Tốt rồi, thưa sếp. Họ có thể bay được rồi.”
“Hay lắm.” Ông xem giờ.
Tám giờ bay, cộng thêm năm tiếng sai biệt múi giờ, nếu Alan Mitchell chịu làm việc qua đêm thì ông sẽ có câu trả lời vào giờ ăn sáng thứ hai.
“Vậy là bay bây giờ chứ gì?” Ông hỏi.
“Không hoàn toàn như vậy. Ngài biết đấy, nếu bay bây giờ thì sẽ hạ cánh lúc một giờ sáng ở Heathrown. Điều đó không được phép. Do tiếng ồn, tôi e vậy.”
“Vậy họ định ra sao?”
“Giờ cất cánh thông thường ở đây là sáu giờ chiều, hạ cánh sau bảy giờ sáng ở Heathrown. Họ định thế đấy.”
“Nhưng thế thì sẽ có hai máy bay lớn cùng cất cánh.”
“Vâng, thưa sếp. Nhưng sếp đừng lo. Cả hai đều kín chỗ nên hãng hàng không cũng chẳng thiệt hại gì.”
“Vậy thì cảm ơn Chúa!” Hannah cắn cẩu đáp và buông máy. Hai mươi bốn giờ, ông nghĩ, hai mươi bốn giờ chết người. Có ba thứ trong đời mà người ta phải chịu đựng: cái chết, thuế má và các hãng hàng không.
Lúc đó ông thấy Dillon đang bước lên bậc thềm khách sạn, cùng với hai chàng trai nom gọn ghẽ, rắn chắc. Chắc đấy là khẩu vị của hắn, Hannah nghĩ một cách dữ tợn. Ông đang trong tâm trạng không lấy gì làm vui.
Bên kia quảng trường, một đám con chiên của Mr Quince, đàn ông vận đồ đen gọn gàng, đàn bà trang sức lộng lẫy trông giống những con chim rực rỡ, đang kéo ra khỏi nhà thờ sau buổi lễ sớm, những cuốn kinh nguyện trong bàn tay đi găng trắng, những quả tròn bằng sáp đung đưa nơi mũ rơm. Đó chính là một sáng chủ nhật hầu như bình thường trên đảo Tia Nắng.
Ở những vùng nông thôn Anh quốc, mọi sự lại chẳng được êm đềm như vậy. Tại Checques, nơi có ngôi nhà miền quê của Thủ tướng Anh nằm trên thửa đất trải dài một ngàn hai trăm acres ở Buckingham Shire, bà Thatcher dậy sớm như thường lệ và lướt qua bốn hộp màu đỏ đựng các loại văn kiện của nhà nước trước khi cùng ăn sáng với Denis Thatcher bên ngọn lửa reo vui trong lò sưởi.
Bà mới đọc xong, chợt có tiếng gõ cửa, rồi Bí thư báo chí Bernard Ingham bước vào, tay cầm tờ Sunday Express.
“Có một tin tôi nghĩ bà Thủ tưởng bà muốn biết sớm.” “Có ai nữa đang chống lại tôi ư?” PM [2] tươi cười hỏi.
“Không ạ,” con người xứ York Shire có cặp mày rậm đáp, “đây là tin về Caribbe.”
Bà Thủ tướng đọc bài in trên trang nhất rồi cau mày. Có cả ảnh; nào Marcus Johnson trên diễn đàn ở Port Plaisance và thêm nữa, ảnh y mấy năm trước, chụp qua một khe rèm, nào ảnh tám vệ sĩ của y, tất cả đều chụp ở quảng trường Nghị viện hôm thứ sáu, cùng với đám ảnh lấy được ở cảnh sát Kingston. Những tuyên bố dài dòng của Một nguồn tin cao cấp của DEA vùng Caribbe và của ủy viên Foster thuộc cảnh sát Kingston chiếm phần lớn nội dung bài báo đi kèm.
“Thế này thì khủng khiếp quá!” PM kêu lên. “Tôi phải nói chuyện ngay với Douglas.”
Bà vào phòng làm việc riêng để gọi điện.
Bộ trưởng Ngoại giao của Nữ hoàng, Mr Douglas Hurd, đang ở nhà nghỉ vùng quê do cơ quan cấp: một biệt thự tên gọi Chevening, nằm trong quận Kent. Ông này đã đọc qua Sunday Time, Observer và Sunday Telegraph, nhưng chưa sờ đến Sunday Express.
“Chưa, Margarer, tôi chưa đọc,” ông nói, “nhưng tôi đang có nó đây.”
‘‘Tôi sẽ chờ!” PM nói.
Bộ trưởng Ngoại giao, vốn là một nhà văn tên tuổi, rất biết cách đánh giá một bài báo. Bài này dường như có được nguồn tư liệu cực kỳ vững chắc.
“Vâng, tôi đồng ý. Thật nhục nhã nếu đó là sự thực... Vâng, vâng Margaret, tôi sẽ bắt tay vào ngay sáng nay và sẽ yêu cầu bang Caribbe kiểm tra xem.”
Nhưng các viên chức nhà nước cũng chỉ là con người - điều này thì đâu có thường xuyên công bố trước đại chúng bao giờ - và họ còn vợ, con, gia đình. Với sáu ngày nữa đến Giáng sinh, Nghị viện thì đã nghỉ, các Bộ cũng chỉ còn rất ít nhân viên làm việc. Tuy nhiên, đến sáng thứ hai sẽ vẫn có người trực và vấn đề ông tân Thống đốc thì khi đó mới có thể bắt đầu.
Bà Thatcher cùng gia đình đi lễ sáng chủ nhật và về nhà lúc hơn mười hai giờ một chút. Một giờ, họ ăn trưa với vài người bạn, có cả bí thư báo chí Bernard Ingham.
Chính là viên cố vấn chính trị Charles Powell của bà đã xem chương trình Countdown của BSB lúc mười hai giờ. Ông thích Countdown. Nó thường có những tin tức nước ngoài khá hay, và với tư cách cựu nhân viên ngoại giao, đó chính là lĩnh vực ông quan tâm. Khi đọc dòng chữ tít của chương trình và sực nhớ tới bản báo cáo mới đọc về vụ scandal ở Caribbe, ông nhận phím Record ở đầu video đặt bên dưới TV.
Hai giờ, bà Thatcher đứng dậy, bởi không thấy thú vị gì việc tiêu phí quá nhiều thời gian cho chuyện ăn uống. Khi bà rời phòng ăn, thì Charles Powell vẫn đang luẩn quẩn chờ đợi. Trong phòng đọc của bà, ông ta đặt băng vào máy và cho chạy. Bà im lặng xem. Rồi lại điện thoại gọi cho Chevening lần nữa.
Mr Hurd, một chủ gia đình tận tụy, dẫn con trai cùng cô con gái nhỏ đi dạo ngoài đồng nội vừa trở về, đang đói ngấu trước đĩa thịt bò rán, thì bà Thatcher gọi đến.
“Không, tôi cũng không xem được buổi đó, Margaret.”
“Tôi có một băng ghi hình,” Thủ tưởng nói, “hoàn toàn chấn động. Tôi sẽ gởi nó cho anh, và anh nên xem ngay rồi gọi lại cho tôi.”
Một giao thông viên rồ xe trên xa lộ M25 trong bóng chiều mờ mờ của một ngày tháng Mười hai buồn thảm từ một ngoại ô London, đến Chevening lúc bốn giờ rưỡi.
Bộ trưởng Ngoại giao gọi lại cho PM lúc năm giờ hơn. “Đúng đấy, Margaret, thật là chấn động.” Ông nói.
“Tôi cho là chúng ta cần có một Thống đốc mới ở đó,” PM nói, “Không phải là sang năm, mà ngay bây giờ. Chúng ta cần tỏ ra là nhạy bén, Douglas ạ. Anh có biết còn ai khác biết được những chuyện này không?”
“Tôi sẽ làm ngay đây,” ông đáp.
Thứ trưởng thường trực bị lôi khỏi ghế bành trong nhà ông ta ở Sussex để gọi điện đi khắp nơi. Đến tám giờ tối thì sự lựa chọn đã rơi vào Sir Crispian Rattray, một nhà ngoại giao đã nghỉ hưu và cựu Cao ủy ở Barbados. Ông ta vui lòng nhận, và đồng ý đến Bộ Ngoại giao sáng hôm sau để cầm bổ nhiệm chính thức và nghe dặn dò, rồi sẽ bay chuyến gần trưa từ Hearthrow, hạ cánh xuống Nassau chiều thứ hai. Ông sẽ tham khảo tình hình qua Cao ủy ở đó, ngủ đêm. rồi tới Tia Nắng (bằng máy bay thuê) vào thứ ba để thâu tóm quyền hành trong tay.
“Sẽ không kéo dài đâu,” ông bảo với Lady Rattray khi thu xếp đồ đạc. “Hỏng hết cả cuộc săn gà lôi đỏ, nhưng đành phải thế. Có lẽ tôi phải hủy bỏ việc ứng cử của hai tên bất lương này, và coi sóc cuộc bầu cử với hai ứng viên mới. Rồi họ sẽ được nhận độc lập, tôi sẽ kéo lá cờ cũ xuống, London sẽ gửi tới một viên cao ủy, dân đảo sẽ tự điều hành mọi việc của họ và tôi có thể về nhà, Một hay hai tháng thôi, không thể hơn. Thật tiếc những con gà lôi đỏ.”
Lúc chín giờ sáng chủ nhật ở Tia Nắng, McCready tìm thấy Hannah đang ăn sáng ở sân thượng khách sạn.
“Ông có phiền không nếu tôi sử dụng cái điện thoại mới ở dinh Thống đốc để gọi London?” Anh hỏi. “Tôi phải thông báo cho họ biết việc tôi trở về.”
“Xin cứ tự nhiên.” Hannah coi bộ mệt mỏi, râu chưa cạo, giống như những người phải thức dậy lúc nửa đêm.
Chín giờ rưỡi, giờ trên đảo, McCready đã gọi được cho Denis Gaunt. Những gì người phó của anh thông báo cho anh biết về Sunday Express và chương trình Countdown đã khẳng định những gì anh muốn cho xảy ra, thì đã thực sự xảy ra.
Từ một hai giờ sáng, cả loạt các chủ bút tin tức ở London đã gắng liên lạc với các phóng viên của họ ở Port Plaisance với các tin mà tờ Sunday Express đã tung ra ở bài báo dài hai trang, và đòi họ phải có một bài viết theo khẩn cấp. Sau bữa trưa, giờ London, số cuộc gọi tăng gấp đôi. Họ cũng vừa xem chương trình Countdown. Nhưng không cuộc gọi nào thực hiện được.
McCready đã dặn người trực tổng đài ở Quarter Deck rằng tất cả các ngài nhà báo đều cực kỳ mệt mỏi và tuyệt đối cấm quấy rầy họ dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Chính anh là người được chọn để nhận điện thoại cho họ và anh sẽ nhắn lại. Một tờ một trăm đôla đã chấm dứt những thắc mắc. Người nhân viên tổng đài đã thông báo cho các người gọi ở London rằng bạn của ông ta đi vắng nhưng sẽ được nhắn lại nội dung, ngay khi có mặt. Các lời nhắn, sau đó, được chuyển cho McCready và anh đã im chúng đi. Cái thời điểm tung ra báo chí còn chưa đến.
Lúc mười một giờ trưa, anh đến sân bay đón hai viên trung sĩ SAS từ Miami tới. Họ đang giảng bài cho các đồng rghiệp của mình trong lực lượng mũ nồi xanh của Mỹ ở Fort Bragg, Carolina Bắc thì được lệnh nghỉ phép ba ngày và đến trình diện ông chủ trên đảo Tia Nắng. Hành lý của họ chẳng nhiều nhặn gì nhưng có một túi đồ nghề, bọc trong cái khăn tắm. CIA đã rất lịch sự để đảm bảo cho họ không bị khám xét ở hải quan Miami, và McCready giơ tấm thư giới thiệu của Bộ Ngoại giao đảm bảo quyền miễn trừ cho họ ở Port Plaisance.
Kẻ Lừa Dối đưa họ về khách sạn và bố trí họ ở cạnh phòng anh. Họ giấu túi kẹo, tức đồ nghề, dưới đệm giường, khóa cửa và đi bơi rất lâu. McCready đã cho biết khi nào anh cần họ: mười giờ sáng mai tại dinh Thống đốc.
Ăn trưa xong, McCready đi gặp Cha Walter Drake, trong căn nhà nhỏ của ông, đang nghỉ ngơi với tấm thân bầm dập. Anh tự giới thiệu và hỏi thăm sức khỏe ông ta.
“Ông thuộc nhóm của Mr Hannah?” Drake hỏi.
“Không hoàn toàn như vậy. Có khác một chút. Tôi chỉ theo dõi sự kiện còn ông ta thì điều tra án mạng. Tôi quan tâm nhiều hơn đến khía cạnh chính trị của mọi việc.”
“Ông là người của Bộ Ngoại giao?” Drake hỏi tiếp.
“Về một phương diện nào đó. Sao ông lại hỏi vậy?”
“Tôi không thích cái Bộ Ngoại giao của ông. Các ông đang phản bội lại nhân dân tôi.”
“Thế bây giờ ta thay đổi đề tài đi,” McCready nói cho thầy tu biết anh muốn gì ở ông ta.
Cha Drake lắc đầu. “Tôi là người tu hành, ông nên tìm người khác làm việc đó.”
“Mr Drake, hôm qua tôi gọi Washington. Một ai đó bảo rằng chỉ có bảy người Barclays đã từng phục vụ trong quân đội Mỹ. Một trong số đó được nêu tên là Drake W.”
“Người khác,” Cha Drake gầm gừ.
“Người đó nói, rằng người tên Drake W. đó là trung sĩ thủy quân lục chiến Mỹ, đã hai lần phục vụ ở Việt Nam rồi trở về với một Ngôi sao Đồng và hai Trái Tim Đỏ. Tôi không biết chuyện gì đã xảy ra với ông ta?”
Ông cha đạo to lớn vùng đứng dậy, đi ra cửa, nhìn ngang nhìn ngửa những dãy nhà ván hai bên nhà mình.
“Người khác,” ông ta gầm lên, “thời gian khác, không gian khác. Bây giờ tôi chỉ làm công việc của Chúa thôi.”
“Ông hãy nghĩ là có thể làm cái điều mà tôi đề nghị?”
Con người to lớn ấy nghĩ một lát, rồi gật. “Có thể.”
“Tôi cũng nghĩ vậy,” McCready nói. “Tôi hy vọng sẽ gặp ông ở đó. Tôi cần tới mọi sự trợ giúp có thể. Mười giờ sáng mai, dinh Thống đốc.”
Anh thả bộ tới bến cảng. Jimmy Dobbs đang làm việc trên Gulf Lady. McCready mất ba mươi phút với ông ta và họ thỏa thuận một chuyến thuê thuyền cho hôm sau.
Anh thấy nóng nực và nhơm nhớp khi về đến dinh Thống đốc, trước năm giờ chiều. Jefferson mời ly trà đá trong khi anh ngồi chờ trung úy Jeremy Haverstock trở về. Viên sĩ quan trẻ đang chơi tenis với vài dân ngụ cư khác ở một biệt thự trên núi.
Câu hỏi McCready dành cho anh ta rất đơn giản: “Anh có ở đây lúc mười giờ sáng ngày mai không?”
Haverstock nghĩ một chút. “Có, tôi nghĩ vậy.”
“Tôi,” McCready nói. “Anh có mang theo bộ lễ phục nhiệt đới không?”
“Có,” tay kị binh đáp. “Chỉ mới mặc một lần. Trong buổi chiêu đãi chính thức ở Nassau cách đây sáu tháng.”
“Tuyệt diệu,” McCready nói. “Bảo Jefferson là cẩn thận, đánh bóng dây da và khuy đồng đi.”
Haverstock hoang mang tiễn anh ra cổng trước. “Tôi cho rằng ông đã nghe được những tin tốt lành rồi chứ?” Anh ta hỏi. “Về cái ông thám tử công tử bột của Scotland Yard tìm thấy viên đạn trong vườn hôm qua. Còn nguyên vẹn. Parker đã lên đường về London với nó.”
“Khá lắm,” McCready nói. “Tin rất hay.”
Anh đi ăn tối với Eddie Favaro lúc tám giờ ở khách sạn. Khi uống cà phê anh hỏi, “Mai anh định làm gì?”
“Trở về,” Favaro đáp. “Tôi chỉ được phép một tuần. Phải về làm việc sáng thứ ba.”
“À, phải. Mấy giờ bay?”
“Đã thuê sẵn một taxi hàng không lúc giữa trưa.”
“Không thể chậm đến bốn giờ được à?”
“Được chứ. Nhưng sao?”
“Bởi vì tôi cần anh giúp đỡ. Mười giờ, ở dinh Thống đốc nhé? Đừng đến chậm. Thứ hai là ngày bận rộn lắm.”
McCready thức dậy lúc sáu giờ, một bình minh đỏ tía đã rạng lên trên ngọn những cây cọ quảng trường Nghị viện. Trời se lạnh. Anh tắm rửa, cạo râu và đi ra quảng trường, nơi có chiếc taxi thuê sẵn đang chờ. Công việc đầu tiên là phải đến chào tạm biệt một bà cụ.
Anh ngồi với bà một tiếng, từ bảy đến tám giờ, uống cà phê, ăn bánh sừng bò còn nóng và nói lời tạm biệt.
“Xin đừng quên tôi, thưa phu nhân Coltrane!”
“Đừng lo, tôi không quên đâu. Và hãy gọi là Missy nhé.” Bà cụ chìa tay. Anh nghiêng mình hôn tay bà.
Tám rưỡi, anh đã có mặt ở quảng trường Nghị viện và bước vào phòng làm việc của Chánh thanh tra Jones. Anh đưa tờ thư giới thiệu của Bộ Ngoại giao.
“Xin có mặt ở dinh Thống đốc lúc mười giờ,” anh nói. “Mang theo hai trung sĩ, bốn cảnh sát viên, chiếc Land- Rower của ông và hai xe tải. Ông có súng công vụ chưa?”
“Có, thưa ngài.”
“Xin mang theo luôn.”
Cùng thời điểm đó, đang là một giờ rưỡi ở London. Nhưng ở phòng Đạn đạo của Labo pháp lý Bộ Nội vụ, Mr Alan Mitchell chẳng nghĩ gì đến việc ăn trưa cả. Ông vẫn dán mắt vào kính hiển vi.
Bên dưới thấu kính là đầu đạn nằm giữa hai thanh kẹp ở hai đầu. Mitchell nghiên cứu những vết xước chạy suốt chiều dài viên đạn chì, xoáy vòng trên mặt kim loại. Đó chính là những vệt mà nòng súng để lại khi viên đạn bị bắn đi. Có đến lần thứ năm trong ngày, ông nhẹ nhàng xoay viên đạn, tìm những vết xước khác, vết “Đặc trưng,” chúng chính là những vệt riêng của một nòng súng, cũng giống như vân ngón tay của con người.
Cuối cùng ông cũng huýt lên một tiếng sáo và đi tìm cuốn tra cứu của mình. Ông có cả một thư viện những thứ đó, vì Alan Mitchell được thừa nhận rộng rãi là một chuyên gia vũ khí đáng nể nhất châu Âu.
Còn có những phép thử khác phải làm. Ông biết rằng đâu đó cách đây bốn ngàn dặm qua biển, có một thám tử đang nóng lòng sốt ruột chờ đợi kết quả giám định, nhưng ông không vội được. Ông phải chắc chắn, tuyệt đối chắc chắn. Đã có quá nhiều vụ bị thất bại trước tòa chỉ vì các chuyên gia bên bị đã bác bỏ được những bằng chứng mà các nhà khoa học pháp lý đưa ra để buộc tội.
Mc Cready để chiếc taxi ở cổng vào dinh Thống đốc và nhấn chuông gọi. Jefferson để anh vào. McCready giải thích mình phải gọi một cuộc điện thoại nữa qua đường dây quốc tế mà Bannister lắp đặt, và đã được phép của Mr Hannah. Jefferson dẫn anh vào phòng làm việc và đi khỏi.
McCready phớt lờ cái máy điện thoại mà đến thẳng bên bàn. Trong giai đoạn đầu của cuộc điều tra, Hannah đã lướt qua tất cả các ngăn kéo với chìa khóa của ông Thống đốc đã chết, và sau khi đã chắc chắn không hề có một gợi mở nào cho vụ sát nhân, ông ta đã khóa tất cả lại.
McCready không có chìa khóa, nhưng đâu cần. Anh đã cậy ổ khóa từ lần trước và đã tìm thấy cái anh muốn. Chúng nằm ở cái ngăn kéo dưới cùng, bên trái. Có hai, nhưng anh chỉ- cần một.
Đó là một tờ giấy rất trang trọng, sờ vào mát lạnh và mịn màng như giấy da. Phía trên tờ giấy, chính giữa, dập nổi và mạ nhũ vàng trên nền tuyết nhung, là huy hiệu của Hoàng gia. Con sư tử và con kỳ lân đỡ một tấm khiên chia làm bốn mảnh với các huy hiệu của Anh quốc, xứ Xcốt, xứ Uên và Ailen.
Bên dưới, bằng chữ đen, là những câu sau:
TA, ELIZABETH ĐỆ NHỊ CỦA VƯƠNG QUỐC ANH VÀ BẮC AILEN VÀ TẤT CẢ CÁC LÃNH THỔ VÀ LÃNH THỔ PHỤ THUỘC BÊN KIA BIỂN, NHỜ ƠN CHÚA TRỜI, NAY BỔ NHIỆM (để trống) LÀM (để trống) CỦA TA Ở VÙNG LÃNH THỔ (để trống).
Bên dưới sắc lệnh là một chữ ký facsimile mà người ta có thể đọc, “Elizabeth R.” -
Đó là sắc chỉ của Hoàng gia. Khống chỉ. McCready lấy bút từ hộp mực của Sir Marston Moberley và điền vào những chỗ trống…, dùng chữ viết lối khắc đồng đẹp nhất. Viết xong anh thấm khô và dùng dấu Thống đốc đóng lên.
Bên ngoài, trong phòng khách, các khách khứa của anh đã tập hợp đầy đủ. Anh liếc nhìn cái sắc chỉ lần nữa và nhún vai. Anh vừa tự bổ nhiệm mình làm Thống đốc nhóm đảo Barclays chỉ trong một ngày.
Chú thích:
[1] DEA ( Drug Enforcement Administration ): Cơ quan chống ma túy Mỹ.
[2] P M = Prime Minister: Thủ tướng