Chương 6
Họ có tất cả sáu người. Jefferson bưng cà phê cho họ rồi đi, không hỏi họ ở đó làm gì. Đây không phải là công việc của anh ta.
Hai trung sĩ SAS - Newson và Sinclair, đứng dựa vào tường. Họ mặc bộ quần áo rộng vải mềm và đi giầy thể thao đế cao su. Mỗi người đều đeo một túi ở thắt lưng, giống loại túi mà các nhà du lịch vẫn thích đeo để đựng thuốc lá với dầu bắt nắng ở bờ biển, nhưng những túi này không đựng ba cái đồ đó.
Trung úy Haverstock mặc thường phục, ngồi ở ghế dựa, hai chân dài bắt chéo nhau một cách trang nhã. Cha Drake ngồi trên ghế dài, bên cạnh Eddie Favaro, Chánh thanh tra Jones vận cảnh phục xanh thẫm, cúc bạc, đeo đủ mọi phù hiệu, giầy tất đàng hoàng, đứng bên cửa.
McCready cầm tờ sắc chỉ trao cho Haverstock. “Sắc chỉ này từ London gửi đến lúc sáng sớm,” anh nói, “Đọc đi, tìm hiểu, ghi nhớ, và đưa cho mọi người ở đây cùng đọc.”
Haverstock đọc sắc chỉ.
“Vâng, tôi hiểu,” anh ta nói rồi chuyển nó cho người đứng bên. Thanh tra Jones đọc, đứng nghiêm lại, và nói, “Vâng, thưa ngài,” rồi chuyển cho hai trung sĩ. Newson nói, “Đồng ý,” còn Sinclair nói, “Không vấn để gì,” rồi chuyển nó cho Favaro, anh này đọc và lầu bầu, “Sì...” để nhận được cái liếc mắt cảnh cáo của Cha Drake, bèn trao nó cho ông ta, Cha đọc và gầm gừ, “Sáng danh Chúa.”
“Hành động đầu tiên của tôi,” McCready nói, “là trao cho tất cả các ông, chỉ trừ Chánh thanh tra Jones, dĩ nhiên, quyền hành động như cảnh sát đặc biệt. Các ông hành động nhân danh quyền lực Thống đốc. Song tốt nhất là tôi sẽ giải thích cho các ông biết phải làm gì.”
Anh nói trong ba mươi phút. Không ai phản đối. Sau đó anh và Haverstock đi thay quần áo. Lady Moberley vẫn trên giường, dùng bữa sáng nhẹ. Cũng chẳng sao. Bà và Sir Marston ở các phòng ngủ riêng và phòng thay quần áo không bị vướng víu gì. Haverstock chỉ cho McCready biết tủ áo ở đâu và rời khỏi. McCready tìm thấy cái anh cần ngay trong tủ áo; đó là bộ lễ phục của Thống đốc thuộc địa Anh quốc, tuy kích cỡ có quá lớn.
Khi trở lại phòng khách, người du lịch nghèo khổ trong chiếc áo sờn ở sân thượng khách sạn Quarter Deck đã biến mất. Chân anh giờ đi đôi ủng George với đinh thúc ngựa sáng loáng. Chiếc quần bó ống trắng tinh, áo vét cũng trắng, khuy cài kín cổ. Những khuy áo vàng và những cuống huân chương mạ, sáng lấp lánh dưới ánh mặt trời cùng dây chiến thắng và huy hiệu trên mũ Wolsey. Chiếc thắt lưng thì có màu xanh dương.
Haverstock cũng mặc đồ trắng, nhưng mũ sĩ quan có màu xanh thẫm, lưỡi trai đen. Chiếc quân hiệu đại bàng hai đầu của Đội Kỵ binh Cận vệ Nữ hoàng gắn trên mũ. Cuống huân chương cũng lấp lánh trên ngực trái, cùng ngù vải rực rỡ. Một dây da đen bóng loáng thắt ngang lưng cùng với một dây thắt chéo qua ngực, đỡ một bao đạn bằng da đen, lại còn đeo thêm hai huân chương phục vụ.
“Tốt lắm, Mr Jones, ta đi.” McCready nói. “Chúng ta bắt đầu phục vụ Nữ hoàng.”
Chánh thanh tra Jones rất kiêu hãnh. Chưa từng có, ai yêu cầu anh ta phục vụ Nữ hoàng. Khi đoàn xe rời sân trước thì dẫn đầu là chiếc xe Jaguar công vụ do Oscar lái, với một cảnh sát ngồi bên. McCready và Haverstock ngồi đằng sau, vẫn đội mũ trên đầu. Sau đó là chiếc Land- Rover do một cảnh sát viên lái, với Jones ngồi bên. Favaro và Cha Drake ngồi đằng sau.
Trước khi rời dinh Thống đốc, trung sĩ Sinclair đã lặng lẽ tuồn cho Favaro khẩu Colt Cobra đã nạp đạn, và anh dắt nó sau cạp quần, bên trong áo sơ mi mở nút. Viên trung sĩ đưa một khẩu cho Cha Drake nhưng ông lắc đầu.
Hai chiếc xe tải còn lại do hai cảnh sát viên lái. Newson và Sinclair nhảy lên ghế trên. Các cảnh sát còn lại ngồi xe sau cùng.
Chiếc Jaguar chạy thong thả vào Shantytown, một cách đường bệ. Dọc con đường phố dài, dân chúng dừng chân đứng ngó. Hai bóng người trên băng sau ngồi ngay đơ, mắt nhìn thẳng phía trước.
Tại cổng khu nhà có tường bao kín của Mr Horatio Livingstone, McCready ra lệnh cho xe dừng lại. Anh bước xuống. Trung úy Haverstock xuống theo. Một đám chừng trăm người dân Barclays túa ra từ các ngõ nghách xung quanh, miệng há hốc. McCready không gọi, anh chỉ đứng nghiêm trang, ngay trước hai cánh cửa.
Hai trung sĩ Newson và Sinclair chạy đến bên tường. Newson bắt hai tay lại với nhau, Sinclair đặt một chân vào đó và Newson hất anh ta lên. Sinclair vọt qua tường mà không chạm tới những mảnh thủy tinh cắm bên trên. Cửa được mở từ bên trong. Sinclair đứng lại đó trong khi McCready đi vào, cùng Haverstock bên cạnh. Đoàn xe cũng tiến vào với tốc độ người đi bộ.
Ba tên mặc đồ lanh xám chạy được nửa đường tới cổng, thì McCready xuất hiện. Chúng đứng sững nhìn hai bộ quân phục trắng quả quyết đi tới cửa chính. Sinclair đã biến. Newson thì phi qua cánh cổng mở và cũng biến theo.
McCready bước lên những bậc thềm dẫn tới hàng hiên. Đằng sau anh, Haverstock đứng lại nhìn chằm chằm ba bộ đồ xám. Chúng dừng bước ở khoảng cách khá xa. Favaro, Drake, Jones, hai trung sĩ cảnh sát cùng vài ba cảnh sát viên nữa rời xe đi theo họ. Một cảnh sát ở lại gác đoàn xe. Haverstock cũng nhập vào đoàn này. Bây giờ họ có mười người, thêm một ở ngoài xe.
Trong phòng khách lớn, cảnh sát chiếm lĩnh các vị trí gần cửa ra vào và cửa sổ. Horatio Livingstone bước ra. Hắn nhìn sự đột nhập với cơn điên giận không che giấu.
“Các ông không được vào đây! Như thế này là có ý gì?” Hắn gào lên.
McCready chìa ra tờ sắc chỉ. “Ông vui lòng đọc cái này chứ?”
Livingstone đọc và ném xuống sàn một cách khinh bỉ. Jones nhặt lấy, trao lại cho McCready. Anh cất lại vào túi.
“Tôi yêu cầu ông triệu tập các trợ lý người Bahamas của ông lại đây - tất cả, bảy người, mang theo hộ chiếu, nếu ông vui lòng, thưa ông Livingstone.”
“Lấy quyền gì?” Livingstone sủa.
“Tôi là quyền lực cao nhất,” McCready nói.
“Đồ đế quốc!” Livingstone hét. “Mười lăm ngày nữa tôi sẽ cầm quyền ở đây và...”
“Nếu ông từ chối,” McCready nói bình tĩnh, “tôi sẽ yêu cầu Chánh thanh tra Jones bắt giữ ông vì tội ngăn cản luật pháp. Mr Jones, ông sẵn sàng chưa?”
“Sẵn sàng, thưa ngài.”
Livingstone trừng mắt nhìn mọi người. Hắn gọi một tên giúp việc ở phòng bên, ra lệnh. Lần lượt từng tên mặc đồ xám xuất hiện. Favaro thu hồi hộ chiếu của chúng, trao cho McCready. Anh xem từng cái rồi đưa cho Haverstock. Trung úy liếc nhìn, chặc chặc lưỡi.
“Tất cả các hộ chiếu này đều là giả.” McCready nói. “Hộ chiếu thật nhưng nội dung giả.”
“Không đúng!” Livingstone kêu lên. “Hộ chiếu này hoàn toàn có giá trị.”
Hắn nói đúng. Đây không phải hộ chiếu giả. Chúng đã mua với một món tiền đáng kể.
“Không, họ không phải người Bahamas. Tôi bắt giữ họ vì xâm nhập bất hợp pháp vào Barclays và bắt giữ ông về tội giúp đỡ và che giấu họ.”
Một tên vòng tay ra lưng quần, sau lớp áo lanh. Rất nhanh, tay hắn đã sờ ngay được vào báng khẩu súng ngắn trước khi có ai kịp động đậy.
Nhưng hắn đã bị chặn lại bằng một mệnh lệnh vang ra từ cái cầu thang dẫn lên lầu, “Fuera la mano, o seras Fiambre.’’[1]
Hắn tức thời tuân lệnh, bất động. Sáu tên kia cũng theo gương hắn.
Tiếng Tây Ban Nha của Sinclair thì quá trôi chảy rồi. Fiambre nghĩa là món thịt nguội và tiếng lóng Tây Ban Nha nghĩa là xác chết, tử thi.
Hai trung sĩ đứng trên cầu thang, sát cánh nhau. Họ đã vào bằng lối cửa sổ tầng trên. Các túi đeo ở bụng bây giờ rỗng không, nhưng tay họ thì đều cầm khẩu súng ngắn tự động cỡ nhỏ nhưng tin cậy, Heckler and Koch MP5.
“Những người này,” McCready mềm mỏng, “không có thói quen bắn trượt đâu. Bây giờ, hãy ra lệnh cho người của ông đưa hai tay lên.”
Livingstone vẫn im lặng.
Favaro bước tới sau hắn, vòng tay qua ngực gí nòng khẩu Cobra vào mũi hắn. “Cho anh ba giây,” anh thì thào. “Nếu không tôi sẽ bóp cò.”
“Tuân lệnh đi,” Livingstone nghiến răng ken két.
Mười bốn bàn tay giơ lên trời và giữ nguyên ở đó. Ba cảnh sát viên tiến lên thu bẩy khẩu súng ngắn.
“Khám người,” McCready ra lệnh. Hai con dao găm giấu ở bắp chân được phát hiện,
“Khám nhà,” McCready ra lệnh tiếp.
Họ tìm ra rất nhiều vũ khí, một số lượng đôla lớn, một số lớn hơn nữa đồng bảng Barclays và một máy phát sóng ngắn rất mạnh có mã hóa..
“Mr Livingstone,” McCready nói, “tôi có thể yêu cầu ông Jones buộc tội những người này với nhiều tội theo luật Anh quốc như hộ chiếu giả, nhập cảnh trái phép, mang súng không đăng ký... rất nhiều tội. Nhưng tôi sẽ trục xuất bọn họ như những ngoại kiều không được hoan nghênh. Đi ngay - trong vòng một giờ. Còn ông, nếu muốn, ông có thể ở lại dây, một mình. Bởi vì, dù sao ông cũng sinh ra ở đây. Nhưng ông vẫn bị truy tố bởi tội giúp đỡ và che giấu họ.
“Tôi tán thành như thế,” Cha Drake gầm gừ.
Livingstone gật đầu.
Xếp thành hàng, đám tay chân của hắn được dẫn ra chiếc xe tải thứ hai đỗ sẵn ngoài hàng hiên. Chỉ một tên cố gắng chống lại. Hắn định chạy trốn nhưng lập tức bị một cảnh sát viên chặn lại và quật ngã.
Thanh tra Jones hành động rất nhanh. Anh ta tháo khỏi thắt lưng một cái dùi cui bằng gỗ nhựa ruồi mà các thế hệ cảnh sát Anh quốc đều gọi là cái nhựa ruồi. Chỉ nghe một tiếng cộc khi thanh gỗ giáng xuống đầu tên chạy trốn. Hắn ngã quỵ, tối tăm mặt mũi.
“Đừng làm thế,” Chánh thanh tra Jones khuyên hắn.
McCready xếp cả bọn chúng ngồi trên sàn xe, tay để sau gáy, trong khi trung sĩ Newson quay người lại từ ghế đằng trước, chĩa súng vào. Đoàn xe chạy khỏi Shantytown để đến cảng cá. McCready cho chạy rất chậm để người dân Barclays có thể nhìn thấy những gì đang xảy ra.
Ở cảng cá, chiếc Gulf Lady vẫn chờ, máy chưa khởi động. Phía sau, nó kéo theo cái thùng rác có gắn thêm cặp mái chèo.
“Mr Dobbs,” McCready nói. “Ông đưa các quý vị này tới nơi tới chốn nhé.”
Có đến hơn một ngàn dân Barclays bu quanh vịnh khi chiếc Gulf Lady quay mùi hướng ra khơi.
“Một việc vặt phải làm nữa, thưa các ngài, tôi tin là vậy,” McCready nói và từ trên cầu cảng, anh bước tới chiếc Jaguar, bộ lễ phục trắng lấp lánh rẽ đám người đứng xem thành một vệt trắng.
Cổng sắt rèn của khu lãnh địa Marcus Johnson khóa im ỉm. Newson và Sinclair lại làm ảo thuật vượt qua tường mà không chạm chân vào nó. Vài phút sau, từ phía trong, có tiếng động cơ điện ầm ì và cánh cổng mở rộng.
Bên trong, phía bên phải, là một trạm gác nhỏ có bảng điều khiển và điện thoại. Nằm gục cạnh đó là một tên vận sơ mi sặc sỡ, với cặp kính đen rơi lăn lóc. Hắn liền được ném lên chiếc xe tải đi cuối hàng, với hai trung sĩ cảnh sát. Newson và Sinclair trườn rất nhanh qua bãi cỏ và biến mất giữa các lùm cây.
Marcus Johnson đang bước theo cầu thang lát đá dẫn xuống gian phòng tiếp khách ở hàng hiên thì McCready bước vào. Hắn ta vội kéo cái áo tắm bằng lụa che kín người.
“Tôi có thể biết thế này là thế nào không?” Hắn hỏi.
“Nhất định rồi,” McCready đáp. “Đọc cái này đi.” Johnson đưa trả lại tờ sắc chỉ.
“Vậy hả? Nhưng tôi không có tội gì cả. Ông đã tự tiện vào nhà tôi. Rồi London sẽ biết, và ông sẽ phải hối hận về việc này, ông Dillon. Tôi có các luật sư của tôi.”
“Được thôi, có thể ông sắp cần đến họ đấy. Bây giờ, tôi muốn phỏng vấn đội giúp việc của ông, Mr Johnson, đội trợ lý, hay đồng đảng gì đó. Và cái người rất lịch sự đón chúng tôi ở cổng ấy. Hãy đưa anh ta vào đây luôn.”
Hai trung sĩ cảnh sát xốc hắn vào và thả xuống.
“Còn bảy người nữa, nếu ông vui lòng, thưa ông Johnson, mang theo cả hộ chiếu.”
Johnson nhấc máy điện thoại lên. Đường dây chết lặng. Hắn thả xuống, nói. “Tôi sẽ gọi cảnh sát.”
“Chính tôi là cảnh sát đây,” Chánh thanh tra Jones đáp. “Xin hãy làm theo yêu cầu của Thống đốc.”
Johnson suy nghĩ một chút rồi gọi với lên gác. Một cái đầu ló ra ở tay vịn tầng trên, Johnson ra lệnh cho nó.
Hai tên mặc áo sặc sỡ đi ra từ hàng hiên đến đứng sau lưng chủ. Năm tên nữa đi từ trên gác xuống. Có những tiếng the thé của đàn bà vọng tới. Hiển nhiên là có tiệc tùng gì đang diễn ra.
Thanh tra Jones thu hộ chiếu của chúng. Còn tên gục trên xôpha thì người ta lôi hộ chiếu ra từ túi quần sau.
McCready xem từng chiếc một.
“Đây không phải hộ chiếu giả,” Johnson nói một cách chắc chắn, “và như ông thấy, tất cả trợ lý của tôi đều nhập cảnh đảo Tia Nắng một cách hợp pháp. Lấy lý do họ mang quốc tịch Jamaica là không thích đáng.”
“Không hoàn toàn như vậy,” McCready nói, “bởi vì tất cả những người này đã che giấu không khai báo những tiền án tiền sự, vi phạm điều bốn khoản B công ước nhập cảnh.”
Johnson chết lặng người. McCready đã bóc trần sự thật ra trước mặt hắn.
“Thực tế,” anh nói đều đều, “tất cả những người này là thành viên của tổ chức tội phạm có tên là Yardoirds.”
Yardoirds có khởi đầu từ những băng nhóm hè phố ở các khu ổ chuột của Kingstone, lấy tên khu cảng nơi chúng nắm quyền hoành hành. Chúng bắt đầu bằng trò cờ gian bạc lận có bảo vệ, và nổi tiếng chơi dữ rồi phát triển thành điểm cung cấp ma túy và cocain chiết suất rồi vươn ra tầm quốc tế. Tên gọi tắt của chúng là Yardies.
Một trong những tên Jamaica đứng gần tường, chỗ có dựa một cây gậy bóng chày, bàn tay hắn lần lần đến đó.
Cha Drake phát hiện được. “Hallelujah, người anh em,” ông nói khẽ và đánh hắn. Chỉ một cú. Nhưng rất nặng. Người ta dạy rất nhiều thứ ở học viện Baptist, nhưng cú đấm đột ngột, ở tầm gần, như một phương sách để cải đạo thì không phải là môn học ở đó. Tên Jamaica trợn ngược mắt rồi đổ nhào xuống sàn.
Sự việc xảy ra giống như một tín hiệu. Bên trong sáu tên Yardies còn lại sờ tay vào thắt lưng bên dưới áo sơ mi.
“Đứng yên! Không được động đậy!”
Newson và Sinclair đã chờ cho đến khi phòng trên lầu chỉ còn lại bọn đàn bà, mới xông vào qua đường cửa sổ. Giờ họ đang đứng ở sàn trên, súng liên thanh bao quát cả phía dưới. Các bàn tay đều sững lại ngang chừng.
“Chúng không dám bắn đâu,” Johnson gầm gừ. “Chúng chỉ đánh thôi.”
Favaro lướt ngang sàn đá hoa cương đến sau Marcus Johnson, dùng tay trái nắm họng, tay phải ấn nòng khẩu Colt vào thắt lưng hắn.
“Có thể,” anh nói, “nhưng mày sẽ đi trước.”
“Đưa tay lên đầu, nếu các ngài vui lòng,” McCready nói mềm mỏng nhưng đầy hàm ý dọa nạt.
Johnson nuốt giận, gật đầu. Sáu tên Yardies giơ hai tay lên trời rồi theo lệnh, đứng úp mặt vào tường. Hai trung sĩ cảnh sát đến thu súng của chúng.
“Tôi cho là,” Johnson gắt gỏng, “Ông sẽ gọi tôi là một Yardbird. Nhưng tôi là công dân của đảo này, là một nhà doanh nghiệp có tên tuổi.”
“Không,” McCready vẫn nhẹ nhàng. “Anh thì không. Anh buôn bán cocain. Đó chính là cách anh tạo ra tiền bạc của mình. Anh chạy ma túy cho Carten Medellin. Kể từ khi rời đảo này, từ một thằng nhóc nghèo kiết, anh đã chủ yếu sống ở Columbia, hay thành lập những công ty ma ở châu Âu và Bắc Mỹ để rửa tiền. Và bây giờ, nếu anh vui lòng, tôi muốn được gặp giám đốc điều hành người Columbia của anh, Señor Mendes.”
“Chưa bao giờ tôi nghe cái tên này. Không có ai như vậy,” Johnson đáp.
McCready gí một bức ảnh vào mũi hắn.
Trong mắt Johnson thấy lóe lên một cái.
“Señor Mendes này này, hay bất kỳ hắn tự gọi mình là gì đi nữa, bây giờ.”
Johnson vẫn im lặng. McCready ngước lên, gật đầu với Newson và Sinclair, họ được xem ảnh rồi. Cả hai lập tức biến mất. Vài phút sau, có hai tiếng nổ ngắn và tiếng phụ nữ kêu gào.
Ba người đàn bà có dáng Mỹ Latinh xuất hiện nơi đầu cầu thang và chạy xuống. McCready ra lệnh cho hai cảnh sát dẫn họ ra bãi cỏ và giữ ở đó. Sinclair và Newson xuất hiện, đẩy một người đi trước. Hắn gầy, da tái xám với mớ tóc rất đen. Hai viên trung sĩ đẩy hắn xuống cầu thang, còn họ ở lại trên đó.
“Tôi có thể buộc những người Jamaica của anh một loạt tội theo luật pháp ở đây,” McCready nói với Johnson, “nhưng tôi đã giữ sẵn chín ghế trên chuyến bay chiều nay tới Nassau. Tôi nghĩ anh sẽ thấy cảnh sát Bahamas rất vui lòng tiễn các anh tới máy bay đi Kingston, nơi các anh đang được ngóng đợi. Khám nhà.”
Họ tìm thấy hai ả điếm nữa nấp dưới gầm giường, rất nhiều vũ khí và một số rất lớn đôla Mỹ trong một cặp ngoại giao. Phòng Johnson thấy vài chục gam bột trắng.
“Nửa triệu đôla,” Johnson rít lên với McCready. “Để tôi đi, và đó là của ông.”
McCready trao cặp cho Cha Drake. “Đem phân phát cho các cơ sở từ thiện của đảo,” anh nói. Drake gật đầu. “Và đốt chỗ cocain này đi.” Một trong số cảnh sát mang những gói đó ra ngoài.
“Đi thôi,” McCready nói.
Bốn giờ chiều hôm đó, một máy bay tầm ngắn từ Nassau tới đỗ trên đường băng, cánh quạt vẫn quay. Tám tên Yardbird, tất cả đều bị còng tay, bị giải lên đó bởi hai trung sĩ cảnh sát Bahamas đến để nhận chúng. Marcus Johnson, hai tay cũng bị còng ra sau, đứng chờ đến lượt lên máy bay.
“Có thể sau khi bị Kingston dẫn độ đến Miami, anh sẽ được gửi lời đến Señor Ochoa, hay Señor Escobar hoặc bất cứ kẻ nào mà anh làm việc cho hắn,” McCready bảo. “Nói với hắn rằng toan tính chiếm Barclays thông qua một kẻ đại diện là khá khôn ngoan đấy. Để mà sở hữu lực lượng cảnh vệ bờ biển, hải quan và cảnh sát của chính phủ mới; để cấp hộ chiếu ngoại giao tùy thích; để tự do gửi các hành lý ngoại giao đến Mỹ; để xây dựng các nhà máy chế biến và kho cất giữ ma túy hoàn toàn tự do ở đây; để tổ chức các ngân hàng rửa tiền mà không bị trừng phạt... tất cả đều cực kỳ thông minh. Rồi ngoài ra, tha hồ mà thu lợi từ cấc sòng bạc cao cấp, nhà chứa. Nhưng nếu nhắn tin được, nhớ nói rằng không xong đâu nhé. Không thể trót lọt trên đảo này đâu.”
Năm phút sau, chiếc máy bay đường ngắn phần thân trông giống một cái hòm, đã bốc lên cao, nghiêng cánh lượn vòng về phía bờ biển Andros.
McCready bước tới chỗ chiếc Cessna sáu chỗ ngồi đỗ bên cạnh nhà máy bay. Các trung sĩ Newson và Sinclair đã ngồi ở hàng ghế sau, túi đồ nghề đặt bên chân, họ trở về Fort Bragg. Ghế trước họ là Francisco Mendes mà tên họ thực ở Comlombia là gì không biết. Tay hắn bị trói vào khung ghế. Hắn nhoài người ra cửa sổ để mở và nhô xuống đất.
“Ông không được phép dẫn độ tôi,” hắn nói bằng thứ tiếng Anh chuẩn xác. “Ông chỉ có thể bắt tôi và đợi người Mỹ yêu cầu dẫn độ. Thế là hết.”
“Như thế thì phải mất hàng tháng,” McCready nói. “Ông bạn của tôi, ông không hề bị bắt mà chỉ bị trục xuất.” Anh quay lại với Eddie Favaro. “Tôi hy vọng anh vui lòng cho ông bạn này đi nhờ tới Miami. Dĩ nhiên là khi tiếp đất, anh có thể đột nhiên nhận ra ông bạn này là một người bị lực lượng Metro-Dade truy nã. Sau đó thì chỉ còn là việc của chú Sam.
Họ bắt tay và chiếc Cessna, vài giây sau đã ở cao trên biển, hướng đến Florida.
McCready chậm bước tới chiếc Jaguar, nơi Oscar đang đợi. Đã đến lúc trở về dinh Thống đốc đổi lại quần áo và treo bộ lễ phục vào tủ.
Khi anh về đến nơi, thám tử, Chánh thanh tra Hannah đang trong phòng Sir Marston Moberley nhận cú điện thoại từ London. McCready lên thang gác rồi trở xuống với bộ quần áo mùa hè nhàu nát. Hannah đang vội vã ra khỏi phòng, gọi Oscar và chiếc Jaguar.
Alan Mitchell đã làm việc tới tận chín giờ tối thứ hai đó, trước khi gọi tới đảo Tia Nắng. Lúc đó mới là bốn giờ chiều. Hannah hối hả chộp lấy ống nghe. Ông ta đã đợi cú phone này suốt cả buổi chiều nay.
“Rất đặc biệt,” chuyên gia đạn đạo nói. “Một trong những viên đạn lạ lùng nhất tôi từng thấy. Chắc chắn là chưa bao giờ thấy một viên đạn như nó trong vụ giết người nào trước đây.”
“Có gì lạ vậy?”
“À thì, bắt đầu bằng nó nhé. Rất là cổ, ít nhất cũng bảy mươi năm. Người ta đã không sản xuất loại chì có thành phần như thế này từ đầu những năm 1920. Thuốc súng cũng thế. Có một chút còn bám vào đầu đạn mà. Đó là loại thuốc súng sản xuất năm 1912 và chấm dứt đầu những năm 1920.”
“Thế còn súng?” Hannah gặng.
“Vấn đề là ở chỗ ấy.” Nhà khoa học ở London đáp. “Khẩu súng hoàn toàn phù hợp với loại đạn được sử dụng. Viên đạn mang một dấu hiệu không thể nhầm lẫn được, cũng như vân tay. Hoàn toàn đơn nhất. Ở đây nó mang bẩy vết xước, xoắn chiều phải. Vệt rãnh của nòng súng. Không có một loại súng nào khác để lại bẩy vết xoắn sang phải. Đáng nói chứ, hả?”
“Tuyệt diệu. Chỉ một khẩu duy nhất có khả năng bắn phát đạn đó. Tuyệt lắm. Alan, nào khẩu nào thế?’
“Còn khẩu nào nữa, Webey 4.55, dĩ nhiên rồi. Không khẩu nào giống nó.”
Hannah không phải chuyên gia về súng ống. Ông không thể nào, chỉ nhìn qua mà phân biệt được Webley 4.55 với Colt.44 Magnum. Vốn dĩ, nó đâu phải là thứ ông thích xem.
“Hay lắm, Alan. Cho tôi biết đi, khẩu Weley 4.55 có gì đặc biệt nào?’
“Ở tuổi tác của nó ấy. Một thứ đồ cổ chết tiệt. Lần đầu tiên được đưa ra năm 1912, chấm dứt khoảng năm 1920. Đó là một khẩu nòng dài, rất dễ phân biệt. Loại này không được dùng phổ biến lắm vì cái nòng dài, rất vướng. Nhưng chính xác, cũng vì cùng nguyên nhân ấy, chúng được phát cho các sĩ quan Anh trong chiến tranh thế giới thứ Nhất. Anh đã nhìn thấy bao giờ chưa?”
Hannah cảm ơn và buông máy.
“Ơ, có chứ,” ông thở ra, “ta nhìn thấy rồi.’
Ông chạy nhanh ra, và nhìn thấy anh chàng Dillon lạ lùng, người của Bộ Ngoại giao.
“Nếu ông muốn thì cứ dùng phone. Tự do,” ông gọi với lại và leo lên chiếc Jaguar.
Khi Hannah được dẫn vào, Missy Coltrane đang ngồi xe đẩy trong phòng khách, đón ông bằng nụ cười niềm nở.
“Kìa, Mr Hannah, rất vui gặp lại ông, Sao không ngồi xuống để dùng một ly trà?”
“Cám ơn, thưa phu nhân Coltrane, tôi nghĩ mình thích đứng hơn. Tôi e rằng phải hỏi phu nhân vài câu. Đã bao giờ phu nhân nhìn thấy một khẩu súng tay kiểu Webey 4.55?”
“Sao lại thế, tôi cho rằng là chưa bao giờ,” bà cụ đáp hiền lành.
“Tôi xin bầy tỏ sự nghi ngờ điều đó, thưa cụ. Thực ra phu nhân có một khẩu súng như vậy. Súng công vụ của ông chồng quá cố của phu nhân. Trong cái hộp chiến tích ở kia. Và tôi e rằng tôi phải thu giữ nó, như một bằng chứng giết người.”
Ông quay người, bước tới hộp chiến tích có mặt kính. Chúng vẫn đấy; cả huân chương, quân hàm quân hiệu, tuyên dương, phù hiệu... Nhưng đã xáo trộn cả. Đằng sau chúng có thể lờ mờ nhận ra những vết dầu loang trên nền vải bố của một vật kỷ niệm nữa đã được treo ở đó.
Hannah quay lại. “Nó đâu rồi, thưa phu nhân Coltrane?” Ông hỏi nghiệt ngã.
“Ông Hannah thân mến, xin cam đoan rằng tôi chẳng hiểu ông nói gì cả.”
Ông rất ghét chuyện thất bại, nhưng ông có thể cảm thấy vụ này đang dần tuột khỏi tay mình. Khẩu súng, hoặc một nhân chứng, ông cần phải có một trong hai thứ. Ngoài kia, sau cửa sổ, mặt biển xanh đang sẫm màu dần trong bóng chiều. Ở một chỗ nào đó, chìm sâu dưới đáy trong vòng ôm của biển, là khẩu Webley 4.55, ông biết thế. Còn những vết dầu loang thì không thể là bằng chứng trước tòa.
“Nó đã ở đây, thưa phu nhân Coltrane. Hôm thứ năm, khi tôi đến gặp cụ. Nó vẫn còn ở đây, trong hộp.”
“Thế nào, Mr Hannah, nhất định là ông nhầm rồi. Tôi chưa từng thấy một... Wembley nào.” '
“Webley, phu nhân Coltrane. Wembley là nơi người ta đấu bóng đá cơ.” Ông cảm thấy mình đã thua trận này đến sáu - không.
“Ông Hannah, chính xác ra thì ông nghi ngờ tôi điều gì?” Bà cụ hỏi.
“Tôi không nghi ngờ, thưa cụ, mà tôi biết. Tôi biết điều gì đã xảy ra. Còn bằng chứng lại là chuyện khác. Thứ ba tuần trước, cũng vào khoảng giờ này, Firestone đã bưng cả cụ và cái xe đẩy lên bằng đôi tay khổng lồ của anh ta, rồi đặt vào thùng cái xe tải của cụ, giống như đã làm hôm chủ nhật đưa cụ đi mua hàng. Thế mà tôi đã cho rằng cụ không bao giờ rời nhà, nhưng rõ ràng, với sự giúp đỡ của anh ta, cụ có thể đi.
“Anh ta đưa cụ tới cái ngõ đằng sau dinh Thống đốc, đặt cụ xuống và chỉ bằng tay không phá tan cái cổng. Tôi đã nghĩ rằng phải có một xe Land-Rover và dây cáp mới phá được khóa, nhưng dĩ nhiên, với anh ta thì không cần. Đáng lẽ tôi phải nhận thấy thế trong lần trước. Nhưng tôi đã bỏ qua. Mea Culpa. [2]
“Anh ta đẩy xe cho cụ vào vườn và đứng tránh ra, tôi tin là cụ giấu khẩu Webley trong lòng. Có thể nó là một đồ cổ, nhưng nó vẫn được tra dầu thường xuyên và vẫn có đạn bên trong. Với một khẩu nòng ngắn thì chẳng bao giờ cụ bắn trúng được Sir Moberley, kể cả cầm súng bằng hai tay. Nhưng khẩu Webley nòng rất dài, rất chính xác.
“Và cụ thì chẳng lạ lùng gì với chuyện súng ống. Cụ đã gặp gỡ ông chồng trong chiến tranh, như cụ từng kể. Ông ấy đã bị thương và cụ là người chăm sóc. Nhưng đó là một bệnh viện Maquis [3] trên mảnh đất Pháp bị Nazi chiếm đóng. Cụ ông là người của đội hành động Đặc biệt Anh quốc, còn cụ, tôi tin rằng, là người của tổ chức tương đương: Cục phục vụ chiến lược OSS [4] của Mỹ.
“Phát đạn đầu tiên bắn trượt vào tường. Viên thứ hai đã làm được việc của nó, và xuyên vào một giỏ trồng hoa, London đã nhận dạng được nó, hôm nay. Nó rất đặc biệt. Không một khẩu súng nào khác bắn ra được viên đạn đó trừ Webley 4.55, khẩu súng cụ đã cất trong cái hộp này.”
‘‘Trời ơi, ông Hannah tội nghiệp. Câu chuyện nghe hay quá, nhưng ông có thể chứng minh được không?”
“Không, thưa phu nhân Coltrane, tôi không thể, tôi cần phải có khẩu súng, hoặc một nhân chứng. Tôi dám cuộc rằng có cả chục người nhìn thấy cụ và Firestone trong cái ngõ ấy, nhưng sẽ không bao giờ có ai khai ra. Không bao giờ tìm ra được người phản bội phu nhân Coltrane ở Tia Nắng. Nhưng có hai điều cứ làm tôi băn khoăn mãi. Tại sao? Tại sao lại giết ông Thống đốc khó ưa ấy? Hay cụ muốn có cảnh sát đến đây?”
Bà cụ mỉm cười. “Báo chí, ông Hannah ạ. Luôn luôn bơi móc, luôn luôn hỏi han, luôn luôn dò tìm cái đằng sau. Luôn luôn nghi ngờ tất cả những ai làm chính trị.”
“Vâng, dĩ nhiên rồi. Sự bới móc của báo chí.”
“Thế còn điều thứ hai?”
“Ai báo cho cụ biết? Tối thứ ba ấy cụ đã đặt trả lại súng vào hộp. Bây giờ không thấy nữa. Ai đã báo cho cụ?”
“Mr Hannah, khi ông về London, nhớ cho gửi chút tình cảm của tôi theo về nhé. Kể từ hồi bị ném bom, tôi đã không trở lại đó, ông biết đấy. Và chắc là tôi cũng chẳng bao giờ về nữa.”
Desmond Hannah được Oscar lái xe đưa về quảng trường Nghi viện. Oscar sẽ phải rửa chiếc Jaguar kịp để đón Thống đốc mới vào ngày mai. Đó cũng vừa đến thời gian Whitehall phản ứng, ông nghĩ, ông bắt đầu đi qua quảng trường để về khách sạn.
“Chào Ông, Mistan[5] Hannah.”
Ông quay lại. Một người lạ hoàn toàn mỉm cười chào:
“A... chào ông.”
Hai người trẻ tuổi đang nhảy múa trong đám bụi bặm trước cửa khách sạn. Một trong hai người đeo ở cổ chiếc máy cassette. Băng phát một khúc Calypso.[6] Hannah không nhận ra nó. Đó là khúc Tự do đến, Tự do lại đi. Ông chỉ nhận ra bản Con chim màu vàng vang ra từ bar của Quarter Deck. Ông nhớ mấy ngày vừa qua không nghe thấy một bản nhạc trữ tình nào.
Các cánh cửa Nhà thờ Anh giáo đang mở rộng, Cha Quince cúi người trên chiếc organ của mình. Âm thanh mới réo rắt làm sao.
Vào lúc Hannah bước lên thềm khách sạn, ông nhận thấy bầu không khí nhẹ nhõm trên khắp đường phố Nó không phù hợp với tâm trạng của ông. Ông còn phải viết báo cáo, một công việc rất khó chịu. Sau cú điện thoại đêm nay cho London, sáng mai ông sẽ trở về. Chẳng thể làm gì hơn nữa. Ông ghét chuyện để hỏng một vụ, nhưng ông hiểu vụ này không cách gì giải quyết. Ông sẽ trở về Nassau bằng chuyến máy bay chở ông Thống đốc mới đến đây, rồi sẽ bay về London.
Ông băng qua khu vực bar để lên cầu thang, và lại thấy cái tay Dillon đang ngồi nhấp bia. Một tay lạ lùng, ông nghĩ khi bước lên lầu. Lúc nào cũng thấy ngồi đợi một cái gì mà chẳng bao giờ thấy thực sự làm được một việc gì.
Sáng thứ ba, một chiếc Havilland Devon từ Nassau sà xuống đảo Tia Nắng, chở ông Thống đốc mới đến, Sir Crispian Ratray. Từ bóng râm của ngôi nhà để máy bay, McCready quan sát nhà ngoại giao có tuổi, hoạt bát trong bộ đồ vải lanh mềm với những món tóc bạc chờm ra dưới vành mũ Panama màu trắng đang bước xuống máy bay, tiến đến chỗ Ủy ban đón tiếp.
Trung úy Haverstock đã trở về từ cuộc phiêu lưu trên biển, giới thiệu ông với các chức sắc của thành phố, bao gồm cả Dr. Caractacus Jones và ông cháu, chánh thanh tra Jones; Oscar cũng có mặt ở đó với chiếc Jaguar bóng lộn, rồi sau nghi lễ giới thiệu, đoàn xe nho nhỏ ấy chạy về Port Plaisance.
Sir Rattray sẽ chẳng có mấy việc phải làm. Hai ứng cử viên cuối cùng đã rút đơn ứng cử, và đi ngủ. Ông sẽ kêu gọi những ứng cử viên khác. Nhưng chẳng có ai xuất đầu lộ diện đâu - Cha Drake sẽ trông nom việc đó.
Với cuộc bầu cử tháng Giêng bị hoãn, Nghị viện Anh quốc sẽ họp lại và, dưới sức ép của phe đối lập, chính phủ sẽ phải chấp nhận là một cuộc trưng cầu dân ý tổ chức vào tháng Ba, có lẽ thích hợp. Nhưng đến đó là hết, mọi việc trong tuơng lai dừng lại ở đấy.
Desmond Hannah lên chiếc Devon trống trơn để trở về Nassau. Từ trên thang, ông đưa mắt nhìn xung quanh lần cuối. Cái tay Dillon lạ lùng đó, dường như đang ngồi với chiếc cặp và va ly của hắn, chờ đợi một cái gì. Hannah không vẫy tay. Ông định khi nào về London phải đề cập đến Mr Dillon mới được.
Chú thích:
[1]Ra tay, nếu không bạn sẽ trở nên tồi tệ)
[2] Mea Culpa (Latinh): Lỗi tại tôi.
[3] Marquis (Pháp):Rừng núi (Corse)
[4] OSS= L'Office of Strategic Services
[5] Mistan: Mister – Phát âm sai
[6] Calypso: Khúc hát vùng Tây A-1n, thường có lời ngẫu tác