← Quay lại trang sách

Chương 02 SỐ 21 QUẢNG TRƯỜNG RUSSEL

Bà Hobson (tên Valérie), trong chiếc váy tím bằng vải taffera , tiến gần cửa sổ và nhìn ra quảng trường Russel vẫn đang say giấc trong dáng vẻ yên ả của buổi sớm mai. Ánh sáng mờ ảo của đèn đường báo trước một ngày mới mù sương, do đó bác sĩ Hyde không thèm mở miệng, nhưng ông Andreyew sẽ làm ngập nhà với tiếng cười vang vọng..

Bà Hobson đã thay đồ xong, dọn giường và rời phòng trong chiếc váy lụa sột soạt. Bà luôn dậy từ sáu giờ sáng để mở khóa các tủ, bàn về thực đơn với cô đầu bếp và hối thúc cô hầu phòng.

Cầu thang tối tăm và yên lặng, nó có mùi lạnh lẽo như từ một cái giếng. Dù bà thích nhất là được coi như hình mẫu thanh tao yểu điệu nữ tính, nhưng bà Hobson không quan tâm đến bóng tối và không gian tĩnh lặng!

“Chào buổi sáng, Daphné.” Bà nói khi bước vào nhà bếp, tay cầm một chùm chìa khóa. “Mary đâu rồi?”

Nữ đầu bếp lảo đảo thân hình một trăm ký của mình ra khỏi bếp lò, nơi bà ta đang nhóm lửa: “Chào buổi sáng, thưa bà. Cô ấy vẫn đang ngủ, thưa bà. Đám thanh niên này, ngay cả những người thổi kèn túi cũng chẳng đánh thức được chúng nó dậy!”

Nhưng lập luận này dường như không ảnh hưởng đến bà Hobson, bởi bà ngay lập tức đi về phía cánh của: “Tôi đi đây! À này, Daphné, đêm qua bà có nghe thấy gì không?”

“Thưa bà, đêm qua ấy ạ?”

“Ai đó đã xuống tầng trệt, tầm hai giờ sáng, và khoảng một tiếng rưỡi sau mới trở lại phòng... Tôi muốn biết đó là ai!”

“Thưa bà, chắc chắn là bác sĩ Hyde, hoặc ông Collins. Ông ấy càu nhàu suốt vì không thể ngủ được trước lúc bình minh.”

Bà Hobson chuẩn bị ra ngoài. Người đầu bếp hoảng loạn: “Thưa bà, hết cá trích rồi ạ, tôi không biết nên làm món gì cho bữa sáng nữa. Bà nghĩ sao về bánh thận?”

Nhưng bà Hobson đã nhấc váy và bước lên cầu thang. Bà đi rất nhanh, đặt chân vào giữa các bậc thang để không làm phiền người thuê nhà. Tuy nhiên, đến tầng hai, bà bước chậm lại khi qua cửa phòng ông Andreyew. Mùi hương thuốc lá từ phòng ông ta bay ra tận cầu thang.

“Hẳn ông ấy đã hút thuốc từ nửa đêm.” Bà Hobson nghĩ. “Và ngủ với cửa sổ đóng kín.”

Những suy nghĩ sâu kín của bà dừng ở đây, nhưng chúng đưa bà đến một kết luận chẳng cần nói nên lời cũng đủ làm bà ấm lòng: “Ông ấy cần một người phụ nữ thấu hiểu!”

Bà bèn cúi xuống nhặt đôi giày để trước cửa phòng (bà Hobson luôn tự tay giặt đôi giày này) và lên phòng gác mái của Mary.

Cô hầu phòng bé nhỏ nằm quay mặt vào tường và lấy chăn che đến tận mắt, người ta chỉ có thể thấy mái tóc dày rối tung. Bà Hobson mở cửa sổ mái. Khi bà đưa tay về phía giường, một tấm ảnh ngự ở vị trí trang trọng trên bàn trang điểm, giữa một chiếc lược mất răng và một hộp lưu niệm đính vỏ sò, thu hút sự chú ý của bà. Đó là một chàng trai trẻ ăn vận trang trọng kiêu hãnh đứng trước một khu vườn kiểu Pháp. Bà Hobson cầm bức ảnh lên và nhìn đằng sau nó. Chàng trai trẻ, nét chữ và bàn tay thể hiện lòng ngại ngần, gửi lời yêu bằng hai câu cháy bỏng.

“Thưa bà, chào buổi sáng!” Lúc này, một giọng nói khàn nhỏ vang lên. “E rằng tôi đã không nghe thấy tiếng đồng hồ báo thức...”

Bà Hobson quay lại, má đào đỏ ửng. “Đây là cái gì thế?” Bà đáp bằng câu hỏi.

“Ồ! Cái đó ạ? Đó là vị hôn phu của tôi, thưa bà...”

“Từ bao giờ thế?”

“Mới bốn ngày thôi ạ. Tôi muốn báo với bà, nhưng…”

“Ừ, rồi cô quên béng đi mất!”

Giọng bà Hobson dịu đi: “Cậu ta nom dũng cảm đấy.”

“Thưa bà, dũng cảm và tuấn tú ạ, như bà có thể thấy! Đám con gái phát điên vì anh ấy!”

Bà Hobson đặt lại tấm ảnh lên bàn và nắm lấy đôi giày của ông Andreyew mà bà ấy đã để ở bên cạnh “quà lưu niệm từ Brighton”.

“Đủ rồi, Mary!” Bà nghiêm khắc nói. “Tôi cho cô mười phút để thức dậy và mặc quần áo.”

Khoảng bảy giờ, những khách trọ dậy sớm nhất bắt đầu thể hiện dấu hiệu của sự sống và, vào tám giờ, mùi hương của thịt xông khói được chiên thơm ngon lan tỏa khắp ngôi nhà.

Người đầu tiên xuống tầng là một cô gái, cô Pawter. Với chiếc váy vải tuytsi , áo len cổ đứng, giày bệt và gương mặt cởi mở, cô là kiểu cô gái trẻ hiện đại coi công việc như một môn thể thao.

“Chào buổi sáng, bà Hobson!” Cô nàng vui vẻ nói. “Tốt hơn hết là bà nên lên lầu đi thôi. Có người đang cần bà lắm đấy.”

Bà Hobson không thích cô Pawter. Ngoài việc bà thấy cô ấy là người thiên về lý trí hơn tình cảm, bà cũng thấy cô là một đối thủ có thể làm lu mờ những đức tính quý hiếm của bà nhờ tuổi trẻ.

“Thật hả?” Bà bình thản đáp. “Ai cần tôi thế?”

“Bà Crabtree và thiếu tá Fairchild. Bà Crabtree ở trong phòng tắm và không muốn ra khỏi đó. Ông thiếu tá thì ở ngoài và muốn vào. Tôi nói thật với bà, ông ấy đang chửi như kẻ ngoại đạo luôn!”

Nhưng bà Hobson chẳng mảy may ấn tượng trước cảnh tượng tối tăm đó: “Tôi chẳng dại gì mà can thiệp! Bà Crabtree đủ mạnh để tự bảo vệ mình.”

Và bà quay lại câu hỏi mà bà vẫn thắc mắc từ lúc thức dậy: “Đêm qua tôi nghe tiếng ai đó thức dậy lúc nửa đêm. Có phải cô không?”

“Trời ơi, không đâu!” Cô Pawter nói. “Tôi không biết liều thuốc ngủ nào tốt hơn quyển Thống kê về Lịch sử kinh tế hậu chiến của J. K. Brown. Mà tối qua tôi đã đọc hẳn ba trang…”

Bà Hobson cau mày: “Tôi có nên hiểu là cô đã ngủ quên khi đèn còn đang bật không?”

“Phải. Nhưng bà yên tâm! Ý thức tiết kiệm bẩm sinh đã làm tôi bừng tỉnh và tắt đèn chỉ sau mười phút... A! Ông Crabtree đây rồi! Cuối cùng thì ai đã thắng lợi vậy?”

Ông Crabtree là một người đàn ông nhỏ thó, rụt rè “và xảo trá”, thiếu tá Fairchild khẳng định. Ông ta hoàn toàn bị bà vợ lấn át. Tuy trọc lóc và râu ria nhẵn nhụi, ông ta trông như một chú lùn bị bắt cóc khỏi quê hương.

“Chào bà Hobson! Chào cô Pawter!” Ông vừa nói vừa rón rén đến chỗ ngồi của mình.

“Sao rồi?” Cô Pawter hăng hái. “Ông vẫn chưa trả lời chúng tôi.”

“Ồ! Đúng vậy! Xin thứ lỗi... Ông thiếu tá đã phải rút quân rồi.”

“Tôi biết ngay mà!” Cô Pawter phấn khích. “Nhân tiện, bà Hobson này, bà thấy ý tưởng mới của tôi thế nào? Viết sao cho đúng. Viết bằng bút máy H. C. Cautley!”

Cô Pawter làm việc ở phòng quảng bá của công ty I.B.C. và mỗi ngày cô đều nghĩ ra khẩu hiệu mới để mọi người đánh giá.

Bà Hobson không có thời gian trả lời. Hai người đàn ông - bác sĩ Hyde và ông Collins - vừa bước vào phòng ăn. Bác sĩ Hyde cao lớn và khập khiễng. Từ cái nhìn đầu tiên, người ta đoán ông là người ít nói và chán ghét loài người. Người còn lại thấp hơn, có khuôn mặt rất tròn và nụ cười dường như luôn nở trên môi. Mọi người lại chào hỏi nhau và đề tài câu chuyện cũng thông thường hơn.

Nhưng hai người mới đến không tham gia nhiều lắm vào cuộc trò chuyện. Một người chỉ trả lời nhát gừng bằng những từ đơn âm tiết, còn một người thì mắc chứng nói lắp nặng.

“Tám giờ hai mươi rồi!” Cô Pawter bỗng nói. “Tôi phải đi đây!”

Ngay khi cánh cửa vừa đóng lại sau lưng cô, cầu thang bỗng lộn xộn và ba nhân vật mới bước qua ngưỡng cửa phòng ăn. Bà Crabtree, nhanh nhẹn và mập mạp, dẫn đầu, bên cạnh bà là một người đàn ông cao gầy, vẻ ngoài dạn dĩ, mắt sáng và mái tóc đen bạc ở thái dương. Thiếu tá Fairchild, mặt đỏ bừng và sưng húp, đi cuối cùng.

“Ôi! Ông Andreyew...”

Bà Hobson đã đứng dậy: “Ông muốn ăn yến mạch khai vị hay là...?”

Ông Andreyew nắm lấy tay bà chủ nhà như một món đồ trang sức quý giá và đưa nó lên môi: “Bà Hobson à, tôi không ăn yến mạch đâu. Nhưng tôi xin bà hãy ngồi xuống! Tôi sẽ tự nói với Mary.”

Ông Andreyew không khoe khoang mình có họ hàng thân thích dù xa hay gần với Sa hoàng của toàn cõi Nga. Ông cũng chẳng bao giờ yêu cầu người ta chuẩn bị súp borsch [8] cho ông. Và nếu ông có ngâm nga một giai điệu nhỏ, thì cũng chẳng phải bài Đôi mắt huyền [9] , mà chỉ đơn giản là bài Lazy Bones [10] . Bất chấp tất cả, ông vẫn là một người Slav chính hiệu từ đầu đến chân.

Ông vào sảnh, vỗ tay rồi vừa vuốt cằm vừa nói đôi lời với Mary, sau đó quay lại ngồi bên phải bà chủ nhà. Mọi hành động của ông toát lên vẻ duyên dáng khiến người phụ nữ hài lòng.

“Hình như hôm nay có khách thuê mới nhỉ?” Bà Crabtree hỏi. Bà Hobson gật đầu: “Tôi đang chờ ông ta đây.”

“Bà bảo ông ta là người Pháp đúng không? Tôi mê người Pháp lắm đấy!”

Bác sĩ Hyde lên tiếng, thoát khỏi im lặng: “Tôi ngờ là bà sẽ chẳng mê ông ta đâu! Ông ta quá tuổi ngũ tuần rồi, và theo lời đồn, ông ta dự định thực hiện nghiên cứu tại Viện bảo tàng Anh. Chẳng đáng hứng khởi lắm.”

Bà Crabtree bồn chồn trên ghế: “Bác sĩ Hyde, tôi chẳng dám hiểu điều ông muốn nói! Ông hãy nhớ là ông đang nói chuyện với một người phụ nữ đứng đắn!”

Chao ôi! Câu nói này vượt quá sức chịu đựng của thiếu tá Fairchild. “Tôi biết một số người phụ nữ đứng đắn!” Ông dằn mạnh cốc xuống bàn, tuyên bố. “Chẳng có ai dành cả tiếng đồng hồ trong nhà tắm cả!”

Ban đầu, bà Crabtree thấy nghẹt thở, nhưng bà nhanh chóng lấy lại bình tĩnh. “Để biết điều đó, tôi chắc hẳn ông đã phải rình mò họ...” Bà Crabtree ranh mãnh đáp trả. “Như ông đã nhìn trộm tôi sáng nay?”

“Nhìn trộm!” Ông sĩ quan già nổi đóa. “Bà cứ nói thẳng là tôi đã nhòm qua lỗ khóa cho rồi!”

“Trời ơi, tôi không thề là ông đã bỏ lỡ cơ hội đâu!”

Viên thiếu tá bật khỏi ghế và Chúa mới biết điều gì sẽ xảy ra nếu ông Andreyew không hòa giải: “Tôi rất muốn hỏi ông một câu, thiếu tá Fairchild! Ông có thể kể lại cho chúng tôi về thời gian ông đóng quân ở Nagpur không?”

Ai nấy thở phào nhẹ nhõm và mọi người chỉ còn nghe giọng nói hùng hồn của viên thiếu tá cùng tiếng dao cốc va chạm.

Khách trọ nữ thứ ba của bà Hobson - cô Holland - tận dụng cơ hội này và lẳng lặng vào chỗ ngồi bên bàn ăn của mình. Đó là một phụ nữ độc thân đã trải qua cuộc đời không may mắn. Cô tìm niềm an ủi bằng cách viết các câu chuyện cổ tích cho các tạp chí thiếu nhi và nhận nuôi những con mèo bị lạc, và bọn chúng đều rời bỏ cô một cách vô ơn.

“Giờ tôi có thể biết ai là người đã dậy vào giữa đêm qua và hút thuốc trong phòng khách nhỏ một tiếng rưỡi được không?” Bà Hobson nói khi viên thiếu tá tạm ngừng câu chuyện với hổ Bengal và rắn độc vì đói.

Ánh nhìn nghiêm khắc của bà quét quanh bàn. Tất cả mọi người đều đang ở đây, ngoại trừ cô Pawter đã bị hỏi, và thầy Lalla-Poor hiếm khi dậy trước mười giờ.

Ông Collins cười lấy đà: “Tô... tôi... nhận... tội! Tôi... tôi hy vọng. không đánh thức ai!”

“Hóa ra là ông à?” Bà Hobson lạnh lùng. “Ông có thể tự hào vì đã làm tôi sợ đấy! Tôi đã định đi xuống, nhưng…”

Bà đỏ bừng mặt: “ tôi còn đang mặc đồ ngủ và tôi nghĩ ông có thể lên bất cứ lúc nào. Có con ruồi nào đốt ông vậy?”

“Bệnh khó thở... làm tôi không ngủ được. Nên...”

“Tôi đã đưa cách chữa cho ông rồi mà! Ông chỉ cần đắp bọt biển lạnh lên vùng thượng vị trước khi đi ngủ và ngủ sấp là được.”

“Nằm... nằm sấp khiến tôi mơ thấy... ác mộng!”

Nhưng bà Hobson vẫn cố chấp: “Vì ông ăn nhiều quá đấy!”

“Bà nói thế là bất công rồi!” Ông Andreyew can thiệp. "Bà Hobson, nếu bà nấu bớt ngon chút thì chúng tôi sẽ ăn ít đi ngay!”

Ông ta vừa dứt lời thì tiếng chuông cửa vang lên.

“Ồ! Ông Jekyll đã đến!” Bác sĩ Hyde nói, ngăn chặn câu lùa ngây thơ ủng hộ nhà trọ Victoria.

“Tôi nghĩ đó là ông Julie!” Bà Hobson nói. Bà ta đứng dậy và mọi người nghe bà ta tiếp đón một vị khách nói tiếng Anh ngắc ngứ trong sảnh.

Người mới xuất hiện lúc nào cũng thu hút sự quan tâm, dù ở bất cứ đâu. Vì vậy, mọi người đều đặt mắt vào cánh cửa khi bà Hobson quay trở lại cùng với ông Julie.

“Hãy để tôi giới thiệu các khách trọ của tôi cho ông.” Bà nói. “Đây là bà Crabtree, cô Holland, thiếu tá Fairchild, ông Andreyew, bác sĩ Hyde, ông Collins, ông Crabtree...”

Ông Julie không ngừng chào hỏi, có vẻ như ông đang buồn bã về một điều gì đó chỉ mình ông biết. Bộ râu mép muối tiêu, mái tóc lưa thưa, đôi mắt lồi, bộ quần áo xộc xệch, mọi thứ về ông đều u sầu. “Còn cô Pawter và thầy Lalla-Poor nữa.” Bà Hobson kết thúc. “Ông sẽ gặp họ vào bữa trưa."

Thế là, ông Julie nghĩ rằng ông nên mỉm cười, và điều đó khiến ông ấy trông thật tuyệt vọng. “Khuôn mặt ông ấy hiện rõ kết cục của chính mình!” Bà Crabtree đã phải tuyên bố điều đó vào tối cùng ngày, trước xác chết của ông ta.