← Quay lại trang sách

- 115 & 116 -

Chiếc Vauxhall của Maisie và Fred, những người quản lý của bưu điện, có ít công tắc và các loại đèn hiệu nên dễ điều khiển hơn chiếc Fiat của Jessica. Isabel không gặp bất cứ trở ngại nào khi khởi động xe và lái xa khỏi căn nhà ở Haggerston trong khi những tấm rèm nơi khung cửa sổ căn phòng phía trước khẽ nâng lên phía sau cô. Cô lái xe thẳng về phía đông cho tới khi đến được đường A698 nằm giữa Berwick-upon-Tweed và Coldstream, sau đó cô rẽ về phía nam. Quãng đường cô cần phải đi chỉ khoảng ba mươi ki lô mét nhưng đường hầu hết đều rất nhỏ hẹp, quanh co nên cô chỉ có thể giữ tốc độ di chuyển rất chậm.

Cô đã đoán rằng ở mỗi ngã rẽ mình có thể sẽ gặp phải những chốt chặn của cảnh sát, nhưng suốt cả chặng đường đi, cô đều thấy có rất ít các phương tiện giao thông khác, và trong số đó chẳng có chiếc xe cảnh sát nào cả. Đến Coldstream, cô lái xe ra khỏi đường chính và tiếp tục đi về phía nam cho tới khi đến được công viên quốc gia. Cô cố gắng lái càng xa càng tốt, rồi mới tấp xe vào lề đường.

Tranh thủ chút thời gian, cô ăn chỗ thức ăn mà các xơ đã gói vội cho mình. Món bánh mì kết hợp kỳ lạ với mật ong và bánh quy sô cô la đã khiến cô ngờ rằng chính xơ Belinda là người phụ trách việc bếp núc của tu viện.

Có một chiếc xe cảnh sát đỗ gần nơi quả khinh khí cầu và chiếc giỏ của nó rơi xuống. Cô cũng có thể nhìn thấy có ít nhất hai sĩ quan cảnh sát mặc đồng phục gần đó. Có thêm một vài người đứng xem xung quanh, đang nhìn chằm chằm vào những tán cây. Tất cả những mảnh vỡ vụn và cháy sém đều đã được dọn sạch, nhưng họ vẫn cứ nhìn chằm chằm vào nơi mà nữ tu “sát thủ” đã bắt đầu vụ giết chóc của cô ta.

Isabel tìm được một tảng đá lớn và đỗ xe ở đó, cầu mong hoàng hôn nhanh đến và cơn mưa tạnh dần. Xơ Serapis đã cho cô mượn cái ống nhòm mà các nữ tu vẫn thường hay sử dụng để tìm kiếm những con công đi lạc. Cô hướng ống nhòm lên những lùm cây, cố gắng xác định nơi mình đã ngã xuống, làm gãy những nhánh sồi lớn. Một lần, cô đã hướng ống nhòm nhìn về phía những người đang đứng quanh nơi đó, e sợ sẽ nhìn thấy một người đàn ông có mái tóc quăn dài, đội chiếc mũ phớt bằng da. Cô sợ rằng bằng cách nào đó, Patrick Faa sẽ biết được kế hoạch của cô, như những gì mà gã đã biết rõ trong suốt ba ngày qua, và sẽ xuất hiện ở đây, đợi sẵn.

Gã không có đây. Chỉ có một nhóm bốn người đứng ở đó, quan sát khoảng hơn mười lăm phút rồi rời đi. Nửa tiếng sau, lại có thêm một nhóm khác đến. Họ ở đó khoảng năm phút nhưng chỉ chụp rất nhiều tấm ảnh mà thôi. Khoảng lúc sáu giờ có thêm một chiếc xe cảnh sát khác đến, chỉ có duy nhất một sĩ quan cảnh sát ngồi trước vô lăng. Các sĩ quan cảnh sát trực ca đứng nói chuyện với anh ta trong khoảng vài phút trước khi chui vào xe riêng của họ và rời khỏi.

Chỉ có một người gác đêm ở đây.

Trời tối dần. Không còn ai khác đến nơi này nữa. Viên sĩ quan cảnh sát vẫn tiếp tục quan sát trong một khoảng thời gian. Anh ta để động cơ xe chạy và bật đèn trong xe. Đến khoảng bảy giờ tối, anh ta tắt động cơ và chiếc xe cứ thế chìm vào trong bóng tối. Đến bảy giờ ba mươi phút, cô không còn nhìn thấy gương mặt anh ta xuất hiện ở ghế lái nữa. Đến tám giờ, cô mạo hiểm di chuyển.

Cô đi đường vòng, men theo một bức tường đá, khi bước đến lùm cây, cô không còn nhìn thấy chiếc xe cảnh sát nữa. Mặc dù vậy, cô vẫn rón rén tiến về phía trước, nấp dưới những bóng cây, chờ đợi những tiếng rít, những tiếng cú, những âm thanh của màn đêm sẽ che lấp bất cứ âm thanh nào mà cô có thể tạo ra.

Khi cô có thể lần nữa nhìn thấy ẩn hiện những tia màu trắng, vàng và xanh lam trên thân chiếc xe cảnh sát, cô biết chắc mình đã đến rất gần rồi. Khi nghe thấy tiếng nhạc vọng đến, cô biết chắc mình đã an toàn. Anh ta sẽ không thể nghe thấy cô được.

Trèo lên luôn dễ hơn trèo xuống. Rất dễ để có thể tìm được những mấu mắt và những gờ sần ở phần gốc cây, chỉ cần một mấu như vậy thôi cũng đã đủ để giúp cô có thể với tới cành cây đầu tiên rồi. Cũng dễ dàng hơn để nhìn thấy nơi cô đang hướng đến, thậm chí là trong bóng tối gần như đen kịt thế này. Cô dễ dàng khom người, luồn qua những nhánh cây gần nhất. Càng trèo lên cao, tán cây càng trở nên rậm rạp. Thỉnh thoảng, chiếc áo khoác cô mặc trên người lại bị vướng vào những nhánh cây, nhưng cô vẫn có thể gỡ nó ra một cách dễ dàng.

Khi đến được chỗ những cành cây bị gãy thì cô biết chắc mình đã tìm thấy nơi đó rồi. Ngước mắt nhìn lên, cô gần như có thể nhận ra được dấu vết mà mình đã tạo ra khi rơi xuống đất. Cô nâng người lên một nhánh cây to và đủ vững chắc để giữ cho cô không bị ngã và ngước nhìn lên.

Trong khoảng vài phút hoặc lâu hơn một chút, cô không thể tìm được nó. Cô xoay người sang trái, rồi sang phải, cúi xuống và lại nghển cổ lên tìm kiếm. Đến khi cô gần như phải thừa nhận rằng chuyến đi của mình đã trở thành công cốc, rằng cô chẳng thể nào tìm được bằng chứng mà mình cần, nhưng cô vẫn ngước lên và kiểm tra thêm lần nữa.

Ở đó. Ngay bên ngoài tầm với của cô, cô có thể nhìn thấy một góc của chiếc ốp điện thoại màu ngọc lam nhỏ xíu. Điện thoại di động của Jessica vẫn còn ở đây. Cô dùng một tay để bám chắc vào cành cây, tay kia cô với ra để lấy nó.

Chiếc điện thoại đã “chết”.

Cô xoay qua xoay lại chiếc điện thoại trong tay, ấn lên những cái nút bất kỳ. Chẳng có gì thay đổi cả. Chiếc điện thoại đã bị hỏng khi rơi xuống. Nó đã trở thành vật vô giá trị. Thế nhưng, cô lại nghe được tiếng nói của Jessica vang lên trong đầu mình.

Đồ ngốc, nó chỉ bị hết pin mà thôi. Chiếc điện thoại không sao hết.

Đúng rồi, điện thoại di động chạy bằng pin mà. Chiếc điện thoại này đã nằm ở đây gần ba ngày rồi. Những bức ảnh mà Jessica đã chụp được, về viên phi công đã chết, về việc Patrick Faa đang truy đuổi họ, vẫn được lưu giữ trong đó. Cả tin nhắn cuối cùng mà em ấy gửi cho Neil cũng vậy. Isabel nhét chiếc điện thoại vào trong túi áo và bắt đầu trượt xuống khỏi cây, thật chậm rãi và cẩn thận.

Men theo đường cũ để rời khỏi lùm cây, cô vội vã trở lại chiếc xe của mình. Cô tiếp tục lái xe đi, cho đến khi nhìn thấy tín hiệu trên chiếc điện thoại di động mà xơ Eugenia đã đưa cho mình. Cô tấp xe vào lề đường và lấy ra tấm danh thiếp mà mẹ Hildegard đã đưa cho cô.

“Thanh tra Maldonado.” Cô nói khi nghe được một giọng nam trầm vang lên bên kia đường dây. “Tôi là Isabel.”

116

Cách nhà thờ không xa, Isabel tìm thấy một bãi đậu xe nhỏ. Sau khi bỏ chiếc điện thoại vào ngăn đựng găng tay và khóa lại, cô đi bộ về nhà thờ. Những thanh bản lề trên cánh cổng phát ra tiếng kêu cót két, báo hiệu cho bất cứ ai đang chờ đợi bên trong về sự xuất hiện của cô.

Con đường dẫn thẳng đến cửa chính của nhà thờ công giáo St Ninian, tại Wooler. Những cánh cửa của nhà thờ được khảm các dấu hiệu đặc trưng màu xanh lam và bao quanh phía sau nhà thờ hầu hết là các ngôi mộ.

Cô bước lên phía trước, biết rõ rằng những người khác có thể thông thuộc địa hình nơi này hơn cô nhiều. Vòng ra phía sau, nơi cây cối che chắn phần lớn những ánh đèn đường, cô mạo hiểm bật đèn pin lên. Dù sao thì nếu như họ đang đợi cô, họ cũng sẽ biết cô đang ở đây thôi.

Cô quét ánh đèn pin một lượt qua khu vực sân nhà thờ, tìm kiếm những ngôi mộ nhô lên. Những ngôi mộ vẫn còn mới. Ở trong góc dưới cùng, tại dải đất hẹp nằm giữa nhà thờ và bức tường sân, là một ngôi mộ phủ đầy những bông hoa trông còn rất mới.

Lớp cỏ phủ trên mộ đã dày thêm theo thời gian, những ngọn cỏ dại đầu tiên đã mọc. Ánh đèn pin của Isabel chiếu đến những bông hoa cúc dại, rồi đến những chiếc lá có hình răng cưa của một cây bồ công anh. Tuy vậy thì những bông hồng cắm trong chiếc bình bằng đất sét dường như chỉ mới xuất hiện chưa đến một tuần, và những viên bi cẩm thạch đính trên tấm bia mộ như phát ra ánh sáng lấp lánh. Dưới ánh đèn, những bông hồng trông có vẻ sẫm màu hơn, gần như đã ngả sang màu đen. Cô chiếu thẳng đèn pin vào những dòng chữ khắc trên tấm bia đá khi có tiếng bước chân lạo xạo phát ra ngay phía sau. Những tiếng bước chân của một người duy nhất.

Anh ta đến một mình. Điều đó có nghĩa là cô gặp rắc rối rồi.