Chương 3 MÙA HÈ NĂM 1979
Cô thận trọng mở mắt. Lý do là bởi đầu cô đang đau như muốn vỡ ra, đau tới từng chân tóc. Nhưng điều kỳ lạ là khi mở mắt ra rồi cô cũng không thấy có gì khác biệt, vẫn là bóng tối dày đặc. Trong một lúc hoảng loạn, cô nghĩ rằng mình đã bị mù. Chắc có gì không ổn với món bia tự nấu mà cô uống hôm qua. Cô đã nghe nhiều chuyện về việc này – nhiều thanh niên đã bị mù sau khi uống các loại bia rượu rẻ tiền. Nhưng vài giây sau khung cảnh xung quanh bắt đầu lờ mờ hiện ra, và cô hiểu rằng thị lực của mình vẫn ổn – cô chỉ đang ở một nơi quá tối mà thôi.
Cô nhìn lên để kiểm tra xem mình có thấy được bầu trời đầy sao không, hoặc có thể là cả ánh trăng nữa, nếu cô đang nằm đâu đó ngoài trời, nhưng cô nhận ra ngay rằng mùa hè không bao giờ tối tăm thế này. Lẽ ra cô phải nhìn thấy ánh sáng siêu thực của một đêm hè Bắc Âu.
Cô chạm vào bề mặt đang nằm và bốc lên một nắm đất cát, rồi lại để cát chảy qua những ngón tay mình. Có mùi đất mùn rất mạnh, một mùi thơm bệnh hoạn, cô cảm thấy như đang ở dưới lòng đất. Cơn hoảng loạn dấy lên trong cô, cùng với nỗi sợ không gian hẹp. Không biết nơi này rộng chừng nào, cô tưởng tượng những bức tường đang từ từ tiến lại gần mình. Cô bóp cổ mình khi cảm thấy như thể không khí sắp tuôn hết ra ngoài, nhưng rồi cô buộc bản thân phải bình tĩnh lại, hít thở sâu để tránh hoảng loạn.
Trời lạnh, và cô hiểu ngay là cô gần như đang trần truồng, chỉ mặc mỗi quần lót. Toàn thân cô đau nhói, cô run rẩy, tự vòng tay ôm lấy mình và co đầu gối lên sát cằm. Đợt sóng hoảng loạn đầu tiên đã mở đường cho nỗi kinh hoàng khủng khiếp mà cô cảm thấy đang gặm nhấm xương tủy mình. Thế nào mà cô lại ở đây? Và tại sao? Ai đã cởi quần áo của cô? Điều duy nhất lý trí nói với cô là có lẽ cô sẽ không muốn biết câu trả lời đâu. Một tai họa đã xảy đến với cô nhưng cô lại không biết đó là chuyện gì – điều này nhân lên nỗi kinh hoàng khiến cô trở nên tê liệt.
Một vệt sáng xuất hiện trên tay cô và cô tự động ngước mắt lên nhìn về phía nguồn sáng. Một vệt sáng nứt ra trên nền đen thẫm như nhưng. Cô buộc mình đứng dậy và la hét kêu cứu. Không có tiếng trả lời. Cô đứng kiễng chân và cố gắng vươn tới nguồn sáng, nhưng thậm chí còn không chạm được đến gần. Thay vào đó, cô cảm thấy có nước nhỏ giọt trên mặt mình. Những giọt nước trở thành một tia nước chảy đều đều và cô chợt nhận ra mình đã khát đến thế nào. Không nghĩ ngợi gì cô há miệng uống. Lúc đầu nước chảy xuống mặt cô, nhưng ngay sau đó cô đã biết cách hứng những giọt nước và tham lam uống. Rồi dường như có một màn sương bao phủ tất cả, và căn phòng bắt đầu quay cuồng. Và sau đó, chỉ còn bóng tối.
Linda dậy sớm nhưng rồi lại cô ngủ tiếp. Đêm qua thức khuya với Stefan, và cô cảm thấy thiếu ngủ đến rũ cả người. Nhưng đây là lần đầu tiên trong hàng tháng trời cô nghe thấy tiếng mưa rơi trên mái nhà. Căn phòng mà Jacob và Marita đã dành cho cô nằm ngay dưới nóc nhà, và tiếng mưa trên mái ngói nghe ầm ầm như dội vào hai bên thái dương cô.
Đồng thời, cũng từ rất lâu rồi mới có một buổi sáng cô thức dậy trong một phòng ngủ mát mẻ thế này. Cái nắng nóng cứ giữ nguyên liên tục trong gần hai tháng, phá kỷ lục mùa hè nóng nhất trong vòng một trăm năm qua. Lúc đầu, cô đã chào đón ánh mặt trời rực rỡ, nhưng niềm vui thích với điều mới lạ đã tiêu tan từ cách đây vài tuần. Thay vào đó, cô bắt đầu ghét mỗi sáng thức dậy với tấm khăn trải giường ướt sũng mồ hôi. Nên giờ đây không khí trong lành và mát mẻ lại càng khiến cô thích thú hơn. Linda bỏ tấm chăn mỏng ra và để cho cơ thể mình cảm nhận được nhiệt độ dễ chịu. Trái với thói quen, cô quyết định dậy trước khi có ai đó xua cô ra khỏi giường. Cũng tốt nếu như hôm nay cô không phải ăn sáng một mình như mọi khi. Trong căn bếp dưới lầu, cô có thể nghe thấy tiếng bữa sáng đang được dọn ra, cô liền choàng một cái áo kimono ngắn và xỏ chân vào đôi dép lê.
Trong bếp, mọi người có vẻ ngạc nhiên khi thấy cô dậy sớm. Cả nhà đã tập trung đầy đủ: Jacob, Marita, William và Petra, cuộc trò chuyện của họ dừng lại một chút khi Linda ngồi phịch xuống cái ghế trống và bắt đầu phết bơ vào bánh mì.
“Thật vui khi em đã đổi tính, muốn ăn sáng cùng mọi người, nhưng anh sẽ cảm kích hơn nếu em mặc thêm ít quần áo trước khi xuống nhà. Phải nghĩ đến bọn trẻ chứ.”
Jacob lên mặt đạo đức giả khiến cô thấy phát ốm. Muốn làm anh ta khó chịu hơn nữa, Linda để tấm áo kimono mỏng trật ra một chút phô một bên ngực qua chỗ hở ở cổ áo. Khuôn mặt anh ta trắng bệch vì tức giận, nhưng vì lý do nào đó mà anh ta bỏ qua và không tiếp tục cuộc chiến. William và Petra say sưa nhìn cô. Cô làm mặt xấu với chúng, khiến chúng bật cười khúc khích. Bọn trẻ thật sự rất dễ thương, cô phải thừa nhận như vậy, nhưng Jacob và Marita sẽ làm hỏng chúng sớm thôi. Khi bọn trẻ đã được dạy dỗ cho ngoan đạo, chúng sẽ không còn lại chút vui thú gì trong đời nữa.
“Nào các con thôi đi. Ở bàn ăn phải ngồi thẳng lưng. Bỏ chân con ra khỏi ghế, Petra, ngồi như một cô gái đã lớn xem nào. Và ngậm mồm vào khi ăn, William. Bố không muốn nhìn thấy con đang nhai cái gì.”
Nụ cười biến mất trên mặt bọn trẻ và chúng ngồi thẳng lên giống như hai chú lính chì với đôi mắt trống rỗng. Linda thở dài với chính mình. Đôi khi cô không thể tin rằng cô và Jacob thực sự là người cùng một nhà. Không có cặp anh chị em nào lại khác nhau nhiều hơn cô và Jacob – cô nhận thấy thế. Thật quá bất công khi anh ta là con cưng của bố mẹ, luôn được tung hô lên tận mây xanh, trong khi anh ta chẳng làm được gì ngoài việc chế nhạo cô. Có phải là lỗi của cô không khi cô đã ra đời ngoài ý muốn, rất lâu sau khi họ đã quyết định ngừng sinh con? Hay là căn bệnh của Jacob từ nhiều năm trước khi cô ra đời đã khiến họ không muốn sinh thêm con nữa? Đương nhiên cô hiểu mức độ nghiêm trọng của sự thật là anh ta đã bị bệnh nặng gần chết, nhưng tại sao cô lại phải chịu tội vì chuyện đó? Cô có phải là người gây bệnh cho anh ta đâu.
Jacob vẫn tiếp tục được nâng niu chiều chuộng, ngay cả sau khi anh ta đã hoàn toàn bình phục. Cứ như thể bố mẹ coi mỗi ngày trong đời anh ta là một món quà của Chúa, trong khi đời cô chỉ khiến họ gặp toàn rắc rối và khó khăn. Rồi còn tình thân giữa ông nội và Jacob. Cô chắc chắn rằng giữa họ có một mối liên kết đặc biệt, sau những gì ông nội đã làm cho Jacob, nhưng vậy đâu có nghĩa là không còn chỗ cho những đứa cháu khác của ông. Tất nhiên, ông nội đã qua đời trước khi cô được sinh ra, nên cô không bao giờ phải đối mặt với sự thờ ơ của ông, nhưng Stefan cho cô biết rằng ông nội không ưa gã và Robert, và họ nhận thấy mọi sự quan tâm đều dành cả cho thằng anh họ Jacob. Chắc chắn điều tương tự cũng sẽ xảy ra với cô nếu ông nội vẫn còn sống.
Nước mắt nóng hổi dâng lên trong mắt cô vì tất cả những sự bất công ấy, nhưng Linda đã cố kìm lại như rất nhiều lần trước đó. Cô không định khiến cho Jacob hài lòng khi nhìn thấy nước mắt của cô hoặc cho anh ta một cơ hội khác để đóng vai vị cứu tinh của thế giới. Cô biết rằng những ngón tay anh ta đang ngứa ngáy muốn đưa cuộc sống của cô vào con đường đúng đắn, nhưng cô thà chết còn hơn là trở thành một tấm thảm chùi chân giống như anh ta. Những cô gái ngoan thì sẽ được lên thiên đường, nhưng cô còn định đi xa hơn, xa hơn thế nhiều. Cô thà đâm sầm xuống đất còn hơn sống một cuộc đời èo uột như ông anh, yên tâm rằng tất cả mọi người đều yêu quý mình.
“Hôm nay em có kế hoạch gì không? Chị cần em giúp việc nhà một chút,” Marita nói.
Chị ta vừa phết bơ vào mấy lát bánh mì cho con vừa hỏi Linda. Chị ta là một bà mẹ tận tụy, hơi thừa cân và có bộ mặt tẻ nhạt. Linda luôn nghĩ rằng Jacob đã có thể cưới được một chị vợ khá hơn. Hình ảnh anh trai và chị dâu trên giường chợt nảy ra trong tâm trí cô. Cô chắc chắn rằng họ đã nghiêm túc làm chuyện đó mỗi tháng một lần, khi đèn tắt và chị dâu cô mặc một cái váy ngủ kín đáo, dài đến tận mắt cá chân. Hình ảnh đó khiến cô cười rúc rích, và những người khác ném cho cô một cái nhìn chỉ trích.
“Này, Marita hỏi em đấy. Hôm nay em có thể giúp chị việc nhà được không? Đây không phải là một cái nhà trọ, em biết đấy.”
“Được rồi, được rồi, em đã nghe thấy chị ấy hỏi ngay lần đầu rồi. Anh không cần phải cằn nhằn thế. Với cả câu trả lời là không, hôm nay em không thể giúp gì được. Em phải…” Cô tìm một cái cớ tử tế. “Em phải kiểm tra xem Scirocco thế nào. Hôm qua nó đi hơi khập khiễng một chút.”
Lý do của cô bị đáp lại bằng những cái nhìn hoài nghi, và Linda trưng ra vẻ mặt gây gổ nhất của mình, sẵn sàng cho một cuộc chiến. Nhưng lại là ngạc nhiên – hôm nay không ai cảm thấy muốn làm khó cô, bất chấp đó là lời nói dối hiển nhiên. Chiến thắng – và cả một ngày tản bộ nữa – đã thuộc về cô.
Cái mong muốn đi ra ngoài và đứng dưới mưa, ngửa mặt lên trời và để nước chảy ào ào trên người thật không thể cưỡng lại được. Nhưng có những chuyện mà hiển nhiên một người trưởng thành không thể cho phép mình thực hiện, đặc biệt là khi anh ta đang làm việc, và Martin buộc phải kiềm chế con bốc đồng trẻ con của mình. Nhưng thời tiết thật tuyệt vời. Cái nóng ngột ngạt giam giữ họ suốt hai tháng qua đã bị cơn mưa tốt lành xả trôi đi. Qua cửa sổ để mở, anh có thể ngửi thấy mùi mưa. Mưa bắn tung tóe lên phía bàn gần cửa sổ, nhưng anh đã chuyển hết giấy tờ đi rồi, nên cũng chẳng sao. Để có thể hít thở không khí mát lành thì thế cũng đáng.
Patrik đã gọi điện báo anh ngủ quên, nên Martin thành ra người đến sớm nhất. Tâm trạng mọi người ở đồn đã xuống rất thấp sau khi những sai lầm nghiêm trọng của Ernst bị phát hiện ngày hôm qua, nên thật tốt khi có thể ngồi ở đây trong yên bình và tĩnh lặng mà tập trung suy nghĩ về những diễn biến mới nhất của vụ án. Anh không hề ghen tị với Patrik về cái nhiệm vụ thông báo cho thân nhân người phụ nữ, nhưng anh hiểu rằng biết được sự thật chính là bước đầu tiên trong quá trình chữa lành nỗi đau buôn. Có thể họ còn không biết rằng cô đã mất tích, nên tin này sẽ là một cú sốc. Bây giờ điều quan trọng nhất là xác định được chỗ ở của gia đình nạn nhân, và đó là một trong những nhiệm vụ của Martin ngày hôm nay: liên hệ với các đồng nghiệp ở Đức. Anh hy vọng mình có thể nói chuyện với họ bằng tiếng Anh, nếu không thì quả là một trở ngại. Anh cũng vẫn còn nhớ tiếng Đức được học ở trường, đủ để anh không phải nhờ đến tiếng Đức của Patrik, sau khi nghe anh đồng nghiệp lắp bắp trong cuộc trò chuyện với cô bạn của Tanja.
Anh vừa định nhấc máy và gọi sang Đức thì điện thoại reo. Nhịp tim của anh tăng lên khi anh nghe thấy đó là đội Pháp y ở Göteborg, anh bèn với lấy quyển sổ kín đặc những nét vẽ nguệch ngoạc. Thực ra thì người ở bên kia đầu dây đáng lẽ phải báo cáo cho Patrik, nhưng khi anh chưa đến thì Martin sẽ phải nhận thay.
“Ngoài kia hẳn là đang nóng lên hay sao ấy.”
Bác sĩ pháp y Tord Pedersen đang đề cập đến cuộc giải phẫu mà anh ta đã thực hiện một năm rưỡi trước trên xác Alex Wijkner, dẫn đến một trong số rất ít vụ điều tra án mạng mà đồn cảnh sát Tanumshede đã từng phụ trách.
“Đúng vậy, chúng tôi đang bắt đầu tự hỏi liệu có gì trong nguồn nước không… Chẳng bao lâu nữa ta sẽ bắt kịp Stockholm về số liệu thống kê án mạng mất.”
Đùa cợt nhẹ nhàng là một cách để họ – và những người làm nghề thường xuyên tiếp xúc với cái chết và những điều bất hạnh khác – giải tỏa những áp lực của công việc hằng ngày. Nhưng thế không có nghĩa là coi nhẹ tính chất nghiêm trọng của công việc mà họ theo đuổi.
“Các anh khám nghiệm tử thi xong chưa? Tôi nghĩ trong cái nóng chúng ta đang phải trải qua đây thì người ta đang giết nhau nhanh hơn bao giờ hết,” Martin nói tiếp.
“Ừ, anh đúng rồi đấy. Ta cứ tưởng là ai nấy đều phát điên lên vì trời nóng quá, nhưng thực ra thì mấy ngày qua mọi thứ lại khá buồn tẻ. Nên chúng tôi đã có thể giải quyết vụ của các anh xong sớm hơn chúng tôi nghĩ.”
“Anh nói xem nào.” Martin nín thở. Những bước tiến triển của một cuộc điều tra phần lớn đều phụ thuộc vào lượng thông tin mà đội Pháp y cung cấp được cho phía cảnh sát.
“Ừ, rõ ràng là anh đang phải đối phó với một thằng cha không dễ chịu đâu. Nguyên nhân của cái chết thì dễ xác định thôi: cô ta bị bóp cổ. Nhưng những gì đã xảy ra với cô ta trước khi chết mới thực sự đáng chú ý.”
Pedersen ngừng lời, và Martin hình dung anh ta vừa đeo kính vào.
“Sao?” Martin không giấu nổi vẻ sốt ruột.
“Xem nào… Anh sẽ nhận được cái này qua fax nữa… Hừm,” Pedersen nói, xem ra anh ta đang đọc lướt qua bản báo cáo. Bàn tay nắm chặt ống nghe của Martin bắt đầu đổ mồ hôi.
“Ừ, đây rồi. Gãy xương mười bốn chỗ, ở các bộ phận khác nhau. Xét đến việc các vết thương đều đang lành ở nhiều mức độ, thì toàn bộ đều có trước khi chết.”
“Ý anh là…”
“Ý tôi là có người đã đánh gãy xương cánh tay, cẳng chân, ngón tay và ngón chân cô ta, trong khoảng thời gian một tuần, tôi ước chừng như vậy.”
“Xương bị gãy cùng một lần hay nhiều lần? Anh có biết được không?”
“Như tôi đã nói, chúng tôi có thể nhận định là các chỗ gãy xương đang lành ở nhiều mức độ khác nhau, nên theo ý kiến chuyên môn của tôi thì chuyện này xảy ra rải rác trong suốt cả thời gian đó. Tôi đã thực hiện một bản tóm tắt các chỗ gãy xương theo thứ tự thời gian. Nó cũng ở trong bản báo cáo mà tôi đã fax sang cho anh. Nạn nhân còn có nhiều vết rạch nông trên cơ thể. Cũng đang dần lành ở những mức độ khác nhau.”
“Chúa ơi!” Martin không ngăn nổi phải bật ra.
“Tôi cũng phải thốt lên như vậy đấy.” Giọng Pedersen vang lên khô khốc qua điện thoại. “Nỗi đau đớn mà cô ta đã phải trải qua thật không thể chịu đựng nổi.”
Trong một thoáng họ im lặng suy nghĩ về chuyện sao con người có thể tàn nhẫn đến thế. Rồi Martin ghìm mình lại và tiếp tục, “Anh có tìm thấy bất kỳ bằng chứng nào trên cái xác có thể giúp ích cho chúng tôi không?”
“Có, bọn tôi tìm thấy mẫu tinh dịch. Nếu các anh tìm thấy kẻ tình nghi nào, hắn có thể bị buộc tội giết người với mẫu DNA. Đương nhiên chúng tôi cũng đang tìm kiếm trong cơ sở dữ liệu của mình, nhưng rất hiếm khi ta có thể tìm thấy tay nào đó bằng cách này. Cho đến nay, danh sách đăng ký còn quá ít ỏi. Bọn tôi chỉ có thể mơ đến một ngày khi chúng ta có mẫu DNA của tất cả các công dân trong cơ sở dữ liệu phục vụ công tác tìm kiếm. Rồi chúng ta sẽ ở một vị thế hoàn toàn khác.”
“Mơ là một từ chuẩn đấy. Mấy lời kêu ca về chuyện xâm phạm quyền tự do cá nhân và tất cả những thứ kiểu như vậy có thể sẽ khiến kế hoạch phải ngừng lại ngay và luôn ấy chứ.”
“Nếu những gì mà người phụ nữ này đã trải qua không thể được gọi là vi phạm tự do cá nhân, thì tôi không biết chuyện gì có thể…”
Thật là một sự triết lý khác thường so với anh chàng Tord Pedersen phàm tục mọi khi. Martin nhận ra rằng ít nhất cũng đã có được một lần anh ta thực sự bị rúng động trước số phận của nạn nhân. Một chuyên viên pháp y thường không cho phép mình như vậy nếu anh ta còn muốn ngủ ngon mỗi đêm.
“Anh có thể cho tôi biết thời gian tử vong ước tính là bao giờ không?”
“Có, tôi đã nhận được kết quả từ các mẫu vật mà đội Pháp y lấy tại hiện trường, rồi tôi bổ sung với những quan sát tôi thu được, nên tôi có thể cho anh một khung thời gian khá chắc chắn.”
“Nói xem nào.”
“Theo ước tính của tôi, nạn nhân tử vong trong khoảng từ sáu đến mười một giờ, vào buổi tối ngay trước hôm được phát hiện tại Khe Vua.”
“Anh không thể cho tôi một thời điểm chính xác hơn à?” Martin có vẻ thất vọng.
“Theo tiêu chuẩn khám nghiệm ở Thụy Điển thì không bao giờ đưa ra được một khung thời gian ngắn hơn năm giờ trong những vụ như thế này, nên đây là tôi đã cố hết sức rồi đấy. Nhưng độ chính xác của khung thời gian này lên đến 95%, vậy thì ít nhất nó cũng có thể tin được. Tuy nhiên, tôi có thể xác nhận lại những điểm anh đã nghi ngờ: Khe Vua chỉ là hiện trường thứ cấp. Cô ta bị giết ở một nơi khác rồi mới bị bỏ lại đây vài giờ sau khi đã chết, có thể thấy bằng chứng rõ ràng qua hồ máu tử thi[*].”
Hồ máu tử thi là một dấu hiệu của sự chết, khi máu tụ lại và làm màu da chuyển sang đỏ hơi tía.
“Ừ, dù sao thì cũng có chút manh mối rồi.” Martin thở dài. “Còn mấy bộ xương thì sao? Chúng có cho anh biết chút thông tin nào không? Chắc Patrik cũng đã thông báo cho anh rồi, chuyện chúng tôi nghĩ hai bộ xương đó có thể là những ai ấy.”
“Ừ, tôi nhận được rồi. Chuyện đó thì bọn tôi thực sự vẫn chưa làm rõ được. Kiếm được hồ sơ nha khoa từ thập niên bảy mươi thì không đơn giản như anh nghĩ đâu, nhưng bọn tôi đang làm nhanh hết sức có thể rồi. Biết gì mới là bọn tôi báo cho anh ngay. Nhưng tôi có thể nói rằng đây là hai bộ xương phụ nữ, và tuổi thì cũng có vẻ gần chính xác. Xương chậu của một phụ nữ cũng cho thấy cô ta đã từng sinh con, và điều này cũng phù hợp với những thông tin mà bọn tôi có. Điều thú vị nhất là cả hai bộ xương này đều có những chỗ gãy tương tự như nạn nhân mới đây. Nói thế này chỉ chúng ta biết thôi nhé, tôi thậm chí có thể đánh liều mà nói rằng những chỗ gãy xương trên cả ba thi thể gần như giống hệt nhau.”
Martin sốc đến nỗi đã đánh rơi cả bút xuống sàn. Bọn họ đang gặp phải cái gì đây? Một sát nhân ác dâm đã tạm ngừng hai mươi tư năm mới thực hiện tiếp những tội ác của hắn? Martin thậm chí không muốn nghĩ đến giả thuyết khác: rằng kẻ sát nhân chẳng hề chờ đến hai mươi tư năm, chẳng qua là họ chưa tìm ra các nạn nhân khác thôi.
“Họ có bị đâm bằng dao không?”
“Vì không còn lại tí mô mềm nào, thật khó để nói được chuyện đó, nhưng có vài vết trầy trên xương có thể cho thấy họ cũng phải chịu sự tra tấn như vậy.”
“Còn nguyên nhân tử vong của họ?”
“Cũng giống như cô người Đức. Xương cổ họng bị ép vào tương ứng với những tổn thương khi bị bóp cổ.”
Martin vừa nói chuyện vừa nhanh chóng ghi chú lại thông tin. “Anh còn chuyện gì đáng chú ý có thể cho tôi biết nữa không?”
“Chỉ có chi tiết là có lẽ những bộ xương đã bị chôn. Có vết đất bẩn trên xương, và bọn tôi có thể tách được một chất gì đó ra để phân tích. Nhưng vẫn chưa rõ đâu, nên anh phải kiên nhẫn thôi. Cũng có đất bẩn trên người Tanja Schmidt và cái chăn cô ta nằm lên, nên bọn tôi sẽ so sánh với mẫu lấy được từ mấy bộ xương.” Pedersen ngừng lại. “Mellberg chỉ huy cuộc điều tra này hả?”
Có một chút lo âu trong giọng anh ta. Martin mỉm cười với chính mình, nhưng anh có thể trấn an anh bạn bác sĩ pháp y về điểm này.
“Không, vụ này được giao cho Patrik rồi. Nhưng công lao thuộc về ai sau khi chúng ta đã phá án thành công thì lại là một chuyện khác…”
Cả hai đều bật cười trước câu bình luận này, nhưng tiếng cười hơi khó chịu, ít nhất thì về phần Martin là thế.
Sau khi chào Tord Pedersen, anh đi lấy những tài liệu mới được gửi đến ở chỗ máy fax của đồn. Một lúc sau, khi Patrik đến, Martin đã làm xong việc của mình. Sau khi nghe tóm tắt bản báo cáo pháp y, Patrik cũng thất vọng không khác gì Martin. Đây là một diễn biến khiến vụ án trở nên thật kinh khủng.
Cô em Anna của Erica đang mặc bikini nằm dài tắm nắng ở phía mũi thuyền. Các con cô đã đi ngủ trưa trong cabin bên dưới, còn Gustav thì ở buồng lái. Những giọt nước mặn li ti bắn vào cô mỗi lần mũi tàu va đập với mặt nước, sảng khoái tuyệt vời làm sao. Nếu nhắm mắt lại, trong một lúc cô có thể quên đi mọi âu lo trên đời và tự thuyết phục mình rằng đây mới là cuộc sống thực của mình.
“Anna, điện thoại gọi em này.”
Giọng Gustav đánh thức cô khỏi trạng thái trầm tư.
“Ai đấy?” Cô khum bàn tay che mắt và thấy anh đang vẫy cái điện thoại di động của cô.
“Anh ta không nói.”
Khốn nạn. Cô biết ngay đó là ai, và cảm thấy có chút lo âu trong lòng, cô thận trọng đi ra xa Gustav.
“Anna đây.”
“Thằng nào đấy?” Lucas rít lên.
Anna do dự. “Tôi đã nói với anh là tôi đi bơi thuyền với một người bạn rồi cơ mà.”
“Thế giờ cô đang cố lừa tôi nghĩ rằng thằng đó chỉ là bạn hả,” hắn quát. “Nó tên gì?”
“Đấy không phải là việc của…”
Lucas ngắt lời cô. “Tên nó là gì, Anna?”
Sức kháng cự trong cô sụp đổ dần sau mỗi giây cô nghe thấy giọng hắn trên điện thoại. Cô nói khẽ, “Gustav af Klint.”
“Ô, đúng rồi. Xem cô sang chảnh được đến cỡ nào kìa?” Giọng hắn chuyển từ khinh bỉ sang dọa dẫm. “Sao cô dám đưa con tôi đi nghỉ với thằng khác.”
“Chúng ta ly dị rồi, Lucas,” Anna nói. Cô lấy tay che mắt.
“Cô cũng biết rõ như tôi, điều đó không thay đổi gì cả, Anna ạ. Cô là mẹ của các con tôi, vậy có nghĩa là cô và tôi sẽ luôn thuộc về nhau. Cô là của tôi và bọn trẻ là của tôi.”
“Vậy sao anh lại cố gắng để mang bọn trẻ đi khỏi tôi?”
“Bởi vì cô không ổn, Anna ạ. Cô luôn bị yếu thần kinh, mà nói thật nhé, tôi không tin cô có thể chăm sóc các con tôi như chúng xứng đáng được hưởng. Cứ nhìn lối sống của cô mà xem. Cô đi làm cả ngày và gửi con vào nhà trẻ. Cô có nghĩ đó là cuộc sống tốt đẹp cho bọn trẻ không, Anna?”
“Nhưng tôi phải đi làm, Lucas. Và anh sẽ giải quyết vấn đề đó thế nào nếu như anh được quyền nuôi con? Anh cũng phải đi làm mà. Thế thì ai sẽ chăm sóc cho bọn trẻ?”
“Có một giải pháp, Anna ơi, cô biết nó là gì mà.”
“Anh điên à? Anh vẫn nghĩ rằng tôi sẽ quay lại với anh sau khi anh làm gãy tay Emma như thế à? Đấy là chưa kể đến tất cả những thứ anh đã làm với tôi?” Tiếng cô vống lên the thé. Ngay lập tức, trực giác mách bảo rằng cô đã đi quá xa.
“Đấy không phải lỗi của tôi! Đấy là tai nạn! Thêm nữa, nếu cô không quá cứng đầu và cứ gây gổ, tôi sẽ không hay mất bình tĩnh đến như vậy!”
Đúng là nước đổ lá khoai. Chẳng ích gì. Sau tất cả những năm tháng sống cùng Lucas, cô biết rằng hắn lúc nào cũng tin vào những gì hắn nói. Không bao giờ là lỗi của hắn. Tất cả đều là lỗi của người khác. Mỗi lần đánh cô, hắn lại khiến cô cảm thấy ăn năn vì cô đã không đủ thông cảm, không đủ yêu thương, không đủ phục tùng.
Thu hết những sức mạnh tiềm ẩn trước đây, cuối cùng cô cũng xoay xở ly hôn được. Việc đó khiến cô cảm thấy mình trở nên mạnh mẽ, bất khả chiến bại, lần đầu tiên sau nhiều năm. Cuối cùng, cô cũng có thể lấy lại quyền kiểm soát cuộc đời mình. Cô và các con có thể làm lại từ đầu. Nhưng mọi thứ diễn ra hơi quá trơn tru. Lucas đã thực sự bị sốc khi hắn làm gãy tay con gái trong một cơn tức giận, và trái với lệ thường, hắn đã chịu trách nhiệm. Cuộc sống độc thân bận rộn của hắn sau khi ly hôn cũng đồng nghĩa với việc hắn để cho Anna và bọn trẻ được sống trong yên bình, trong khi đó hắn còn mải chinh phục hết cô nàng này đến cô ả khác. Nhưng ngay khi Anna cảm thấy mình thoát rồi, thì Lucas lại bắt đầu mệt mỏi với cuộc sống mới của hắn, và một lần nữa hắn quay sang nhìn về phía gia đình. Khi không gặp may với những bó hoa, những món quà và những lời cầu xin tha thứ, thì hắn bắt đầu trở mặt. Hắn đòi độc quyền nuôi con. Để chứng minh cho yêu sách của mình, hắn đưa ra rất nhiều lời buộc tội vô căn cứ liên quan đến việc Anna không đủ tư cách làm mẹ. Chẳng câu nào trong đó là sự thật cả, nhưng Lucas có thể sẽ rất thuyết phục khi hắn giở trò quyến rũ, đến nỗi cô vẫn phát run lên trước nguy cơ hắn có thể sẽ thành công với nỗ lực của mình. Cô cũng biết rằng thực sự hắn không muốn bọn trẻ. Việc làm ăn của hắn sẽ không vận hành bình thường được nếu phải nuôi hai đứa con nhỏ, nhưng ý đồ của hắn là khiến Anna lo sợ đủ để cô phải quay lại. Những khi yếu lòng, cô đã định làm thế. Đồng thời, cô cũng biết điều đó là không thể. Nó sẽ hủy hoại cô. Nên cô phải tôi luyện để trở nên cứng rắn.
“Lucas, nói chuyện kiểu này chẳng hay ho gì đâu. Sau khi ly dị, tôi đã bước tiếp, và anh cũng nên thế. Sự thật là tôi đã gặp một người đàn ông khác, và anh phải học cách chấp nhận điều đó đi. Bọn trẻ vẫn ổn và tôi cũng ổn. Chúng ta không cố gắng cư xử như người lớn được à?”
Giọng cô khẩn nài, nhưng sự im lặng ở đầu dây bên kia rõ là không thể xuyên thủng được. Cô biết mình đã đi quá giới hạn. Khi nghe thấy tiếng tút tút và nhận ra Lucas đã cúp máy, cô biết rằng bằng cách nào đó hắn sẽ bắt cô phải trả giá. Một cái giá đắt.