← Quay lại trang sách

Chương 4 MÙA HÈ NĂM 1979

Cơn đau đầu khủng khiếp khiến cô tự cào mặt mình. Đúng như ý cô, nỗi đau đớn khi móng tay làm toạc một vệt dài trên da đã gần như ngang với cơn đau búa bổ, và nó giúp cô tập trung.

Mọi thứ vẫn tối đen, nhưng có gì đó đã đánh thức cô từ cơn hôn mê sâu không mộng mị. Một vệt sáng nhỏ xuất hiện trên đầu cô, và khi cô nheo mắt nhìn lên thì nó từ từ mở rộng. Chưa quen với ánh sáng, cô không nhìn thấy gì nhưng lại nghe thấy có ai đó đi qua vết nứt giờ đã mở rộng và leo xuống cầu thang. Người đó bước đến gần rồi gần hơn trong bóng tối. Cô bối rối không biết nên cảm thấy sợ hãi hay nhẹ nhõm. Cô đang thấy cả hai cảm xúc trộn lẫn với nhau. Cái đầu tiên đã thắng thế.

Những bước chân cuối cùng tiến về phía cô, cô đang nằm cuộn tròn trong tư thế một bào thai, gần như nín bặt. Cô cảm thấy một bàn tay vuốt ve trên trán, không lời nào được thốt ra. Có lẽ cử chỉ đó cũng nhẹ nhàng, nhưng đơn giản chỉ một động tác thôi cũng khiến nỗi kinh hoàng bóp nghẹt trái tim cô.

Bàn tay tiếp tục vuốt dọc cơ thể cô, khiến cô run lên trong bóng tối. Trong một giây, cô đã nghĩ lẽ ra mình phải chống cự lại kẻ vô danh kia. Ý nghĩ đó biến mất nhanh như khi nó xuất hiện. Bóng tối đã quá áp đảo, và sức mạnh từ bàn tay đang mơn trớn đã thâm nhập làn da cô, các dây thần kinh của cô, tâm hồn cô. Phục tùng là lựa chọn duy nhất, cô biết điều đó với một sự thấu suốt đầy khiếp đảm.

Khi bàn tay đang vuốt ve chuyển sang dò xét và cấu véo, kéo giật và xé toạc, cô không ngạc nhiên chút nào. Ở một mức độ nào đó, cô còn chào đón nỗi đau là đằng khác. Cơn đau rành rành còn dễ đương đầu hơn là nỗi kinh hoàng khi chờ đợi một điều không rõ.

Chỉ vài giờ sau khi Patrik nói chuyện với Martin, Tord Pedersen gọi đến lần thứ hai. Họ đã xác định được danh tính một bộ xương. Mona Themblad, cô gái thứ hai mất tích năm 1979, là một trong những di hài được tìm thấy tại Khe Vua.

Patrik và Martin cùng nhau ngồi kiểm tra lại những thông tin mà họ đã thu thập được trong cuộc điều tra. Hiển nhiên là Mellberg không có mặt, nhưng Gösta Flygare đã trở lại làm việc sau màn trình diễn xuất sắc trong giải đấu golf. Ông không thắng, tất nhiên, nhưng đã rất ngạc nhiên và vui mừng khi đánh được một cú thẳng từ điểm phát vào lỗ và được mời uống sâm banh tại câu lạc bộ. Cho đến giờ, Martin và Patrik đã nghe kể rất chi tiết bóng đi thẳng vào lỗ như thế nào chỉ với một cú đánh ở lỗ thứ mười sáu. Họ chắc chắn mình sẽ còn phải nghe chuyện này thêm vài lần trước khi hết ngày. Nhưng điều đó cũng không thành vấn đề. Họ không ghen tị với niềm vui của Gösta và Patrik cho ông nghỉ một tiếng trước khi tham gia công tác điều tra. Nên lúc này Gösta đang gọi điện đến khắp các bạn chơi golf của mình để khoe về Giải Đấu Lớn.

“Vậy là có một thằng ác ôn nào đó đã đánh gãy xương các cô gái trước khi giết họ,” Martin nói. “Và còn lấy dao rạch lên người họ nữa,” anh nói thêm.

“Tôi sợ rằng đúng là vậy đấy. Nếu phải đoán, tôi sẽ nói rằng chắc chắn có động cơ tình dục đằng sau. Một thằng khốn ác dâm thích chà đạp lên nỗi đau của người khác. Việc có tinh dịch trên cơ thể Tanja cũng chỉ ra điều đó.”

“Anh sẽ nói chuyện với thân nhân của Mona chứ? Ý tôi là, nói với họ rằng chúng ta đã tìm thấy cô ấy?”

Martin có vẻ ngần ngại, nhưng Patrik đã xoa dịu nỗi lo sợ của anh chàng bằng cách tự mình nhận lấy nhiệm vụ này.

“Tôi định chiều nay sẽ lái xe đi gặp bố cô ấy. Mẹ cô ấy đã qua đời mấy năm trước, nên chỉ còn mỗi ông bố để báo tin thôi.”

“Sao anh có thể nói chắc nịch thế? Anh biết họ à?”

“Không, nhưng hôm qua Erica đã đến thư viện Fjällbacka tìm tất cả những bài báo viết về Siv và Mona. Vụ mất tích của họ vẫn được định kỳ xem xét lại, thậm chí vài năm trước còn có một cuộc phỏng vấn gia đình họ. Chỉ có ông bố của Mona còn sống, Siv thì khi mất tích cũng chỉ còn mẹ. Còn có một đứa con gái nhỏ nữa, nên tôi nghĩ tôi cũng sẽ nói chuyện với cô ta – ngay khi chúng ta xác nhận được rằng Siv là người phụ nữ thứ hai.”

“Nếu là ai khác thì đúng là sự trùng hợp kinh khủng, anh có thấy như vậy không?”

“Ừ, ta sẽ giả định rằng bộ xương đó là Siv, nhưng ta vẫn chưa thể nói gì chắc chắn được. Còn có những chuyện kỳ cục hơn từng xảy ra mà.”

Patrik lục những bản sao mà Erica mang về cho anh và trải vài tờ ra để trên bàn ngay trước mặt. Anh cũng lấy ra các tài liệu bới được từ kho lưu trữ dưới hầm, định ghép tất cả thông tin họ có về vụ mất tích của hai cô gái lại với nhau. Có nhiều bài báo đã không được đưa vào tư liệu điều tra – cả hai nguồn này đều cần thiết để cung cấp cho họ một bức tranh hoàn chỉnh về những điều đã biết cho đến nay.

“Nghe này. Siv mất tích vào đêm Hạ chí năm 1979, còn Mona biến mất hai tuần sau đó.”

Để sàng lọc và sắp xếp các tài liệu, Patrik đứng dậy khỏi ghế và viết lên tấm bảng trắng trên tường.

“Lần cuối cùng Siv Lantin được nhìn thấy còn sống là khi cô ấy đạp xe về nhà sau một bữa tiệc với bạn bè. Nhân chứng cuối cùng mô tả cô ấy đã rẽ khỏi đường chính và đi về phía Bräcke. Lúc đó là hai giờ sáng, và người nhìn thấy cô ấy là một tài xế đang đi ngang qua cô ấy trên đường. Sau đó không ai nhìn thấy hoặc nghe tin gì từ cô ấy nữa.”

“Nếu không tính thông tin của Gabriel Hult,” Martin nói thêm.

Patrik gật đầu đồng ý. “Ừ, nếu không tính lời khai của Gabriel Hult, đấy cũng là điều tôi nghĩ cho đến lúc này.” Anh nói tiếp: “Mona Themblad mất tích hai tuần sau đó. Không giống như Siv, cô ấy biến mất vào buổi chiều, giữa ban ngày ban mặt. Cô ấy rời khỏi nhà vào khoảng ba giờ để đi chạy bộ nhưng không bao giờ trở về nữa. Một chiếc giày được tìm thấy trên đường dọc theo lối chạy bộ hằng ngày của cô ấy, nhưng không có gì khác nữa.”

“Có bất kỳ điểm tương đồng nào giữa các cô gái không? Ngoài việc họ có vẻ cùng độ tuổi.”

Patrik không kìm được tiếng cười khẽ. “Tôi có thể đoán ra là anh đã xem chương trình Lý lịch trích ngang đó. Không may là tôi lại phải làm anh thất vọng. Nếu ta đang đối phó với một kẻ giết người hàng loạt, ấy là tôi giả sử anh đang đi theo hướng như thế, thì không có sự tương đồng ngoại hình nào rõ ràng giữa các cô gái cả.” Anh gắn hai bức ảnh đen trắng lên tấm bảng.

“Siv mười chín tuổi. Nhỏ nhắn, da sẫm và vóc dáng tròn trịa. Cô ấy có tiếng là cứng đầu, và đã tạo ra một vụ bê bối ở Fjällbacka khi sinh con ở tuổi mười bảy. Cả cô ấy và đứa con đều sống với mẹ, nhưng theo những gì báo chí xác nhận, Siv ưa ra ngoài tiệc tùng và không thích ở nhà mấy. Mona, trái lại, được mô tả là con ngoan trò giỏi, có rất nhiều bạn bè và được nhiều người yêu mến. Cô ấy cao, tóc vàng và chăm tập thể thao. Đã mười tám tuổi nhưng vẫn sống ở nhà vì mẹ cô ấy khá ốm yếu, còn ông bố lại không thể chăm sóc bà ấy một mình. Dường như không ai có thể nói điều gì xấu về cô ấy. Nên điểm chung duy nhất của hai cô gái này là họ đã biến mất không tung tích hơn hai mươi năm qua. Và bây giờ họ mới xuất hiện dưới dạng những bộ xương ở Khe Vua.”

Martin dựa đầu vào tay, nghĩ ngợi. Cả anh và Patrik đều ngồi im lặng một lúc, nghiên cứu các bài báo được cắt ra và những ghi chú trên bảng. Họ nghĩ, những cô gái ấy còn trẻ đến như vậy. Lẽ ra các cô sẽ còn sống nhiều năm nữa, nếu như không bị tai họa cắt ngang đường đời. Còn cả Tanja nữa, họ vẫn chưa có nổi một bức ảnh của cô khi cô còn sống. Cô cũng hãy còn trẻ, có cả cuộc đời phía trước. Nhưng giờ cô cũng đã chết.

“Một cuộc điều tra lớn đã được tiến hành.” Patrik lấy một xấp tài liệu dày ra. “Bạn bè và gia đình của các cô gái đều được phỏng vấn. Cảnh sát gõ cửa từng nhà trong khu vực, và bọn côn đồ cũng bị thẩm vấn hết. Theo như tôi thấy thì có tổng cộng khoảng một trăm cuộc thẩm vấn đã được thực hiện.”

“Có thu được kết quả gì không?”

“Không, không thu được gì cả. Cho đến khi họ có tin báo từ Gabriel Hult. Ông ta tự gọi cho cảnh sát và nói với họ rằng đã nhìn thấy Siv trong xe em trai mình vào đêm cô ấy mất tích.”

“Rồi sao? Điều đó cũng khó mà đủ để biến ông ta thành nghi phạm giết người, phải không?”

“Không. Khi em trai của Gabriel – Johannes – bị thẩm vấn, ông ta phủ nhận chuyện mình từng nói chuyện hay thậm chí là nhìn thấy cô ấy, nhưng vì không có bất kỳ đầu mối nào khác, cảnh sát đành tập trung hết vào ông ta.”

“Thế có tiến triển gì không?” Mắt Martin mở to với vẻ hào hứng bất đắc dĩ.

“Không, chẳng thu được kết quả nào nữa. Rồi mấy tháng sau, Johannes Hult treo cổ tự vẫn trong nhà kho. Nên có thể nói rằng dấu vết này đã nguội mất rồi.”

“Thật kỳ cục khi ông ta tự sát ngay lập tức như vậy.”

“Ừ, nhưng nếu ông ta có tội thì hẳn là hồn ma ông ta đã sát hại Tanja. Những kẻ đã chết thì không giết người được nữa.”

“Vậy còn ông anh trai đã gọi điện chỉ điểm em ruột thì sao? Sao không có ai điều tra theo hướng đó?” Martin cau mày. “Chờ đã, sao mà tôi ngu thế nhỉ? Hult – phường trộm cắp nhẵn mặt. Ông ta chắc phải có họ hàng với Stefan và Robert.”

“Ừ, đúng rồi. Johannes là bố chúng đấy. Sau khi đọc tài liệu về gia đình Hult, tôi thực sự đã hiểu ra tại sao Stefan và Robert ghé thăm chúng ta thường xuyên đến thế. Khi Johannes treo cổ tự vẫn thì chúng còn chưa được năm, sáu tuổi, và chính Robert đã tìm thấy bố mình trong nhà kho. Anh có thể tưởng tượng ra điều đó đã ảnh hưởng đến một thằng bé sáu tuổi như thế nào mà.”

“Lạy Chúa lòng lành.” Martin lắc đầu. “Anh biết không, tôi cần một tách cà phê trước khi chúng ta tiếp tục. Caffeine trong người tôi sắp cạn rồi. Anh có muốn một tách không?”

Patrik gật đầu và vài phút sau Martin trở lại với hai tách cà phê nóng bốc khói – ít nhất thì thời tiết này cũng phù hợp với đồ uống nóng.

Patrik tiếp tục tóm tắt. “Johannes và Gabriel là con trai của một người đàn ông tên là Ephraim Hult, còn gọi là Nhà Thuyết Giáo. Ephraim là một người nổi tiếng, hoặc có thể nói là một mục sư nhà thờ tự do khét tiếng ở Göteborg. Ông ta tổ chức các buổi thuyết giáo lớn mà ở đó ông đã khiến hai đứa con trai minh, lúc đó hãy còn nhỏ, nói được tiếng lạ và chữa lành cho những người đau ốm tàn tật. Hầu hết mọi người đều coi Ephraim là tên lang băm và lừa đảo, nhưng dù vậy, ông ta vẫn trúng mánh lớn khi một phụ nữ trong hội tín hữu của ông ta, Margareta Dybling, qua đời và để lại mọi thứ bà ấy sở hữu cho ông này. Bên cạnh một gia tài đáng kể bằng tiền mặt, bà cụ còn để lại bất động sản là một khu rừng lớn và một dinh cơ tráng lệ ở gần Fjällbacka. Đột nhiên Ephraim mất hết khao khát truyền bá lời của Chúa. Ông ta chuyển đến ở đó với các con trai, và gia đình đó về sau cứ thế sống bằng tiền của bà cụ.”

Tấm bảng trắng giờ đây phủ kín các ghi chú, và giấy tờ trải khắp mặt bàn của Patrik.

“Ôn lại một chút lịch sử gia đình thì cũng không phải là không thú vị, nhưng mấy cái này thì liên quan gì đến các vụ giết người? Như anh nói, Johannes đã chết hơn hai mươi năm trước khi Tanja bị sát hại, và người chết thì không giết người, như anh đã rất hùng hồn phát biểu đấy.” Martin khó mà che giấu nổi sự sốt ruột.

“Đúng thế, nhưng tôi đã xem lại hết tài liệu về cuộc điều tra cũ, và thực sự chỉ có mỗi lời khai của Gabriel là đáng chú ý. Tôi cũng hy vọng có thể nói chuyện với Errold Lind, người đã chịu trách nhiệm điều tra vụ này, nhưng tiếc là ông ấy đã qua đời vì đau tim vào năm 1989 rồi, vậy nên chỗ tài liệu này là tất cả những gì chúng ta có. Trừ phi anh có ý gì hay hơn, tôi cho rằng chúng ta nên bắt đầu bằng cách tìm hiểu thêm về Tanja, cũng như nói chuyện với bố mẹ Siv và Mona. Sau đó chúng ta mới quyết định xem liệu có nên nói chuyện lần nữa với Gabriel Hult hay không.”

“Chắc chắn rồi, nghe có lý đấy. Tôi nên làm gì trước tiên đây?”

“Bắt đầu với việc điều tra về Tanja. Và hãy chắc chắn rằng anh sẽ sắp xếp cho Gösta tiếp tục làm việc từ ngày mai. Ông ấy hết thời kỳ nhởn nhơ chơi bời rồi nhé.”

“Thế còn Mellberg và Ernst thì sao? Anh định làm gì với họ đây?”

Patrik thở dài. “Chiến lược của tôi là giữ họ càng xa khỏi vụ này càng tốt. Thế có nghĩa là chúng ta sẽ phải gánh một khối lượng công việc lớn hơn nhiều, nhưng về lâu dài thì tôi nghĩ ráng chúng ta sẽ làm việc trôi chảy thôi. Không phải làm gì thì Mellberg lại càng mừng, bên cạnh đó, ông ta về cơ bản cũng đã cam kết là sẽ không điều tra vụ này. Ernst sẽ phải tiếp tục làm những gì đang làm, xử lý được càng nhiều báo cáo gửi đến càng tốt. Nếu ông ta cần giúp đỡ, chúng ta sẽ cử Gösta đi. Tôi muốn hai chúng ta được rảnh rang mà lo vụ này đến chừng nào có thể. Hiểu không?”

Martin hồ hởi gật đầu. “Vâng, thưa sếp.”

“Vậy thì vào việc thôi.”

Sau khi Martin rời đi, Patrik ngồi đan tay sau gáy, đối diện với tấm bảng, chìm sâu trong suy tư. Nhiệm vụ mà họ đảm nhận thật to lớn, mà họ hầu như chẳng có mấy kinh nghiệm trong việc điều tra án mạng.

Lòng anh nặng trĩu lo âu. Anh thực lòng hy vọng rằng những thiếu hụt về mặt kinh nghiệm của họ có thể được bù đắp bằng sự tận tâm. Martin đã lên tầng, và thật tệ hại nếu anh chàng không đánh thức được Gösta Flygare khỏi cơn mơ mộng. Nếu có thể giữ Mellberg và Ernst tránh xa khỏi cuộc điều tra, Patrik nghĩ rằng họ sẽ có một cơ may để tháo gỡ các vụ án mạng. Nhưng họ có rất ít cơ hội thành công, đặc biệt là nếu xét đến việc những dấu vết của hai vụ án mạng đều đã nguội lạnh đến mức gần như đóng băng. Anh biết cơ hội tốt nhất mà họ có là tập trung vào Tanja. Đồng thời trực giác cũng mách bảo rằng có mối liên kết mạch lạc và rõ ràng giữa những vụ án mạng mà họ sẽ phải điều tra cùng một lúc. Bắt nhịp vào cuộc điều tra cũ sẽ không dễ dàng, nhưng họ phải cố gắng.

Anh lấy cái ô trong tủ, kiểm tra một địa chỉ trong danh bạ, rồi buồn rầu bước ra ngoài. Có những nhiệm vụ đòi hỏi ở anh nhiều hơn mức mà người ta có thể kham được.

Mưa gõ liên tục trên các ô kính cửa sổ, nếu ở trong hoàn cảnh khác Erica đã vui mừng chào đón không khí mát mẻ này. Nhưng những người họ hàng rầy rà khiến cô cảm thấy ngược lại, và dù chậm nhưng chắc chắn cô sắp phát điên lên rồi.

Bọn trẻ vùng vằng như thể sắp sửa phát rồ vì thất vọng khi phải ở trong nhà, trong khi Conny và Britta đã bắt đầu gằm ghè nhau như lũ chó hoang. Tuy vẫn chưa leo thang thành cuộc chiến chính thức, nhưng vụ cãi nhau giờ đã đạt đến mức rít lên và cáu kinh. Những lỗi lầm và bất công từ xưa bị đem ra kể lể, và tất cả những gì Erica muốn làm là đi lên lầu và trùm chăn kín đầu. Nhưng một lần nữa nề nếp gia giáo ngăn cô lại, khua khua ngón tay và buộc cô cố gắng cư xử văn minh giữa vùng chiến sự.

Khi Patrik đi làm, cô đã nhìn chăm chăm tha thiết ra cửa. Anh không thể che giấu chuyện mình cảm thấy được giải thoát khi có thể trốn tới đồn cảnh sát, và trong một lúc, cô muốn kiểm tra xem liệu lời hứa sẽ có mặt ở nhà bất cứ khi nào cô yêu cầu có phải là thật không. Nhưng cô biết rằng nếu chỉ vì không muốn bị bỏ lại một mình với bộ tứ kinh hoàng mà cô làm vậy thì không đúng. Thay vào đó, như một người vợ hiền, cô vẫy tay với chồng mình từ cửa sổ phòng bếp khi anh lái xe đi.

Ngôi nhà không đủ lớn để ngăn sự lộn xộn trở thành thảm họa. Cô đã lấy ra vài món đồ chơi cho bọn trẻ, nhưng chỉ dẫn đến kết quả là những khối chữ cái nằm rải rác khắp phòng khách giữa một mớ hỗn độn cùng bộ cờ tỷ phú và mấy lá bài tây. Cô nặng nhọc cúi xuống nhặt nhạnh các mảnh đồ chơi nhỏ, cố gắng làm cho căn phòng ngăn nắp hơn một chút. Cuộc nói chuyện của Britta và Conny ngoài hiên càng lúc càng căng thẳng hơn, và cô bắt đầu hiểu lý do tại sao bọn trẻ lại chẳng hề biết cách cư xử cho phải phép. Sống với những bậc phụ huynh cãi nhau như trẻ lên năm thì làm sao mà học được cách tôn trọng người khác và đồ đạc của họ. Giá như cái ngày này sớm kết thúc! Ngay khi trời tạnh mưa, cô sẽ bảo nhà Flood đi xếp hành lý. Không cần bận tâm đến phép tắc xã giao và hiếu khách nữa – cô có họa là Thánh Birgitta thì mới chịu đựng họ ở lại lâu hơn nữa.

Giọt nước tràn ly vào bữa trưa. Với đôi chân tê nhức và lưng dưới ê ẩm, cô đã đứng bếp suốt cả một giờ, nấu bữa ăn trưa phù hợp với thói phàm ăn của Conny cũng như thói kén ăn của bọn trẻ, và theo cô đánh giá thì cô cũng khá thành công. Cô nghĩ, xúc xích rắc vụn pho mát ăn với mì ống hẳn sẽ làm tất cả hài lòng. Nhưng chẳng mấy chốc cô nhận ra rằng mình đã sai lầm khủng khiếp.

“Eo ơi, cháu ghét xúc xích. Kinh quá!”

Lisa hùng hổ đẩy cái đĩa của nó ra và khoanh tay lại, mặt sưng sỉa.

“Tệ quá, bởi vì mình sẽ ăn món đó.” Giọng Erica kiên quyết.

“Nhưng cháu đóóóói. Cháu muốn ăn món khác.”

“Không có món khác đâu. Nếu cháu không thích xúc xích thì cháu có thể ăn mì ống với xốt cà chua.” Erica đang nỗ lực để giữ giọng mình bình tĩnh, mặc dù cô đã giận sôi lên.

“Mì ống tởm lắm. Cháu muốn ăn món khác. Mẹẹẹ ơơi!”

“Em nấu cho nó món khác được không?” Britta vỗ nhẹ vào má con bé và con bé toét miệng cười. Đầy vẻ đắc thắng, má Lisa hây hây vẻ hân hoan khi nó nhìn Erica bằng ánh mắt đầy thách thức. Nhưng quá giới hạn rồi. Bây giờ thì chiến tranh đã bùng nổ.

“Không có món gì khác đâu. Cháu ăn những món trước mặt đi, không thì nhịn đói.”

“Nhưng mà em Erica thân yêu ơi, chị nghĩ rằng em đang vô lý quá đấy,” Britta nói. “Conny, giải thích cho em ấy chúng mình làm thế nào ở nhà đi, cách chúng mình dạy con ấy.” Nhưng chị ta chẳng thèm đợi câu trả lời. “Anh chị không ép bọn trẻ làm bất cứ việc gì. Điều đó sẽ làm thui chột sự phát triển của chúng. Nếu Lisa nhà chị muốn ăn món gì khác, anh chị nghĩ đó là quyền của nó. Ý chị là, nó cũng là một cá nhân có đủ quyền phát biểu ý kiến như chúng ta đây. Và em sẽ nghĩ gì nếu có người cố ép em phải ăn thứ mà em không thích? Chị không nghĩ rằng em sẽ bằng lòng đâu.”

Britta dạy đời bằng cái giọng của một nhà tâm lý học, và Erica bỗng nhận ra rằng đây là giọt nước làm tràn ly. Bình tĩnh đến lạnh lùng, cô lấy cái đĩa của con bé, giơ lên trên đầu Britta, rồi ụp xuống. Cú sốc khi bị mì ống đổ lên tóc và rơi xuống áo khiến Britta ngừng lại giữa chừng câu nói.

Mười phút sau, họ rời đi. Và rất có thể sẽ không bao giờ quay trở lại. Chắc chắn giờ đây cô sẽ bị cả đằng nhà ngoại cho vào danh sách đen, nhưng dù có cố gắng thế nào thì Erica cũng không thể nói rằng cô thấy hối hận được. Cô cũng không xấu hổ, mặc dù hành vi của cô có nói giảm nói tránh cũng có thể gọi là trẻ con. Thật tuyệt vời khi tìm thấy một lối thoát cho cuộc xâm lăng suốt hai ngày đến thăm vừa qua của họ, và cô cũng chẳng hề có ý định xin lỗi.

Cả ngày còn lại cô định nằm trên xô-pha ngoài hiên với một cuốn sách hay và tách trà đầu tiên trong suốt cả mùa hè. Đột nhiên cuộc sống dường như tươi sáng hơn rất nhiều.

Mặc dù nhỏ bé, nhưng nhà kính đầy cỏ cây xanh tốt của ông có thể đua tranh với những khu vườn đẹp nhát. Mỗi cây hoa được cẩn thận trồng bằng cách gieo hạt hoặc chiết cành, và phải cảm ơn mùa hè nóng nực khiến không khí ở đây không khác gì vùng nhiệt đới. Ở một góc ông trồng rau, chẳng gì thích thú hơn khi được hái cà chua, bí, hành tây, thậm chí là cả dưa hấu và nho mình tự trồng.

Khu nhà liền kề nằm ở Dinglevägen, gần lối vào Fjällbacka từ phía Nam. Chúng tuy nhỏ nhưng cũng đầy đủ chức năng. Hiên nhà kính của ông chìa ra như một dấu chấm than màu xanh lá giữa những vườn cây khiêm tốn hơn của mấy nhà khác.

Chỉ khi ngồi ngoài hiên, ông mới thôi nhớ về ngôi nhà cũ. Ngôi nhà nơi ông đã lớn lên và xây tổ ấm cùng với vợ và con gái. Cả hai đều đã ra đi. Nỗi đau khi vắng họ đã tăng dần lên cho đến một ngày ông nhận ra rằng mình cần phải chia tay cả với ngôi nhà và những kỷ niệm trong nhà nữa.

Tất nhiên là chỗ ở mới thiếu đi nét đặc sắc mà ông yêu thích ở ngôi nhà cũ, nhưng chính vì sự nhạt nhẽo ấy mà nó mới có thể xoa dịu được nỗi đau trong lòng ông. Giờ đây nỗi thống khổ của ông đã gần như chỉ còn là một tiếng ồn đều đều buồn tẻ vọng lại từ xa.

Khi Mona mất tích, ông đã nghĩ rằng Linnea sẽ chết vì đau lòng. Bà vốn ốm yếu, nhưng bà đã tỏ ra mạnh mẽ hơn ông nghĩ. Bà sống thêm mười năm nữa. Vì ông, ông chắc chắn vậy. Bà không muốn bỏ ông lại một mình với đau thương. Mỗi ngày bà phải vật lộn để tiếp tục sống, mà thật ra chỉ là tồn tại như một cái bóng.

Mona từng là ánh sáng của đời họ. Con bé được sinh ra khi họ đã từ bỏ hy vọng có con, và họ cũng chẳng bao giờ có nữa. Họ dồn toàn bộ tình yêu vào sinh linh lanh lợi, vui tươi này, tiếng cười của con bé đã nhen lên những đốm lửa trong lòng ông. Hoàn toàn không thể tưởng tượng được rằng con bé lại có thể biến mất như thế. Lúc đó như thể ánh mặt trời đã ngừng tỏa sáng. Cứ như bầu trời đã sụp đổ. Nhưng không có gì xảy ra. Cuộc sống vẫn diễn ra bình thường bên ngoài ngôi nhà đau buồn của họ. Người ta vẫn cười, vẫn sống, và vẫn đi làm. Nhưng Mona đã biến mất.

Suốt một thời gian dài, họ nuôi hy vọng mà sống. Có thể con bé vẫn còn sống ở đâu đó. Có lẽ con bé đã sống không cần bố mẹ và nó đã quyết định biến mất theo cách riêng của nó. Nhưng đồng thời họ cũng đều biết sự thật là gì. Có một cô gái khác đã mất tích ngay trước Mona, và họ không thể tự dối mình rằng đó chỉ là sự trùng hợp. Chưa kể, Mona cũng không phải loại con gái cố tình khiến cho bố mẹ mình đau đớn như vậy. Con bé rất ngoan ngoãn, đáng yêu, nó đã làm tất cả mọi thứ có thể để chàm sóc cho bố mẹ.

Vào ngày Linnea qua đời, ông đã nhận được bằng chứng cuối cùng rằng Mona đã ở trên thiên đường. Bệnh tật và đớn đau đã biến người vợ yêu quý của ông trở thành cái bóng của chính bà, đến khi bà nằm trên giường và nắm lấy tay ông, ông biết rằng đây sẽ là ngày ông bị bỏ lại một mình. Sau nhiều giờ thức cầu kinh bà nắm chặt tay ông lần cuối cùng, rồi bà nở một nụ cười. Ánh sáng lóe lên trong mắt Linnea là thứ ánh sáng mà ông đã không còn nhìn thấy trong suốt mười năm qua – kể từ lần cuối cùng bà nhìn thấy Mona. Bà nhìn vào khoảng vô định phía sau ông rồi bà chết. Ông biết chắc chắn vậy. Linnea đã chết trong hạnh phúc vì được gặp con gái ở phía cuối đường hầm. Về nhiều mặt nó khiến sự cô đơn trở nên dễ chịu hơn. Bây giờ, ít nhất, hai người mà ông yêu thương nhất đã được ở bên nhau. Rồi ông sẽ được đoàn tụ với họ, chỉ còn là vấn đề thời gian thôi. Ông mong chờ ngày ấy, nhưng cho đến lúc đó thì nhiệm vụ của ông là phải sống hết sức mình. Chúa sẽ không khoan dung với những kẻ bỏ cuộc, và ông không dám làm bất cứ điều gì để gây nguy hiểm tới việc được lên thiên đường, nơi ông sẽ đoàn tụ cùng Linnea và Mona.

Một tiếng gõ cửa cắt ngang dòng suy nghĩ u sầu của ông. Ông chậm chạp đứng dậy khỏi cái ghế bành và khó nhọc chống gậy bước qua đám cỏ cây. Ông đi xuống sảnh ra cửa trước. Một người đàn ông trẻ trông nghiêm nghị đứng bên ngoài, đang giơ tay lên định gõ cửa lần nữa.

“Bác là Albert Themblad?”

“Vâng, tôi đây. Nhưng tôi không cần mua gì đâu.”

Người đàn ông mỉm cười. “Không, cháu cũng không bán gì đâu. Tên cháu là Patrik Hedström, và cháu là cảnh sát. Liệu cháu có thể vào trong một lúc được không?”

Albert không nói gì, nhưng bước sang một bên để cho anh vào. Ông dẫn đường ra ngoài hiên và chỉ cho viên cảnh sát chỗ ngồi trên xô-pha. Ông không hỏi chuyện này là sao. Ông không cần phải hỏi. Ông đã chờ đợi chuyến thăm này trong suốt hơn hai mươi năm qua.

“Cây cối đẹp quá bác ạ. Chắc bác mát tay lắm nhỉ.” Patrik cười vẻ lo lắng.

Albert lặng thinh nhìn Patrik với đôi mắt hiền hậu. Ông hiểu rằng thật không dễ dàng cho viên cảnh sát này khi phải tới báo tin cho ông, nhưng anh đâu cần phải lo lắng. Sau bao năm chờ đợi, thật tốt khi cuối cùng cũng tìm ra sự thật. Ông đã đau khổ xong rồi.

“Vâng, chuyện là thế này, bọn cháu đã tìm thấy con gái bác.” Patrik hắng giọng và bắt đầu. “Bọn cháu đã tìm thấy con gái bác, và bọn cháu có thể xác nhận rằng cô ấy đã bị giết.”

Albert chỉ gật đầu. Đồng thời, ông cũng cảm thấy an tâm. Cuối cùng ông có thể cho con bé yên giấc. Có một ngôi mộ để đến thăm. Ông sẽ chôn con bé cạnh Linnea.

“Các anh tìm thấy con bé ở đâu?”

“Trong Khe Vua ạ.”

“Khe Vua?” Albert cau mày. “Nếu con bé đã được chôn ở đó, tại sao lại không có ai phát hiện ra nó sớm hơn? Xét cho cùng thì rất nhiều người đã đến đó cơ mà.”

Patrik kể cho ông về cô du khách Đức đã bị giết, và người ta có lẽ đã tìm thấy cả Siv nữa. Họ tin rằng có ai đó đã chuyển Mona và Siv đến đó vào ban đêm, nhưng trong bao năm qua hai cô gái đã được chôn ở chỗ khác.

Albert không còn hay đi vào thị trấn nữa, nên không giống nhưng cư dân Fjällbacka khác, ông không hề nghe nói về cái chết của cô gái Đức. Khi ông nghe nói về số phận của cô, đầu tiên ông cảm thấy dạ dày mình cuộn lên. Ở đâu đó có ai đó đang trải qua nỗi đau tương tự như ông và Linnea đã từng cảm thấy. Ở đâu đó có một ông bố và một bà mẹ sẽ không bao giờ còn nhìn thấy con gái của họ nữa. Điều đó đã che khuất đi tin buồn về Mona. So với gia đình của cô gái vừa chết thì ông hãy còn may mắn. Đối với ông, nỗi đau buồn chỉ còn lờ mờ và không rõ rệt. Nhưng họ còn phải trải qua nhiều năm nữa trước khi đạt đến điểm ấy, và tim ông nhói đau vì họ.

“Anh có biết kẻ nào đã làm điều này không?”

“Không, đáng buồn là chúng cháu chưa biết. Nhưng chúng cháu sẽ làm mọi thứ trong khả năng của mình để tìm ra kẻ đó.”

“Anh có nghĩ liệu có phải là cùng một kẻ không?”

Patrik cúi đầu. “Không, với những gì đang có, chúng cháu vẫn chưa chắc chắn được. Có những điểm tương đồng nhất định, nhưng tại thời điểm này, đó là tất cả những gì cháu có thể nói.”

Anh khó nhọc nhìn ông lão đang ngồi trước mặt mình. “Bác có muốn cháu gọi cho ai không? Ai đó có thể đến bầu bạn với bác?”

Nụ cười của Albert hiền hậu như một ông bố. “Không, không có ai cả.”

“Cháu có nên gọi điện và hỏi xem mục sư có thể qua đây không?”

Một lần nữa, vẫn nụ cười hiền hậu ấy. “Không, cảm ơn, tôi không cần mục sư. Không cần phiền anh đâu. Tôi đã sống đi sống lại cái ngày này trong tâm trí mình, vậy nên nó cũng không đến nỗi sốc. Tôi chỉ muốn yên ổn ngồi đây giữa cây cối của tôi. Tôi có tất cả mọi thứ tôi cần. Có thể tôi già thật rồi, nhưng vẫn còn cứng rắn lắm.”

Ông đặt tay mình lên tay Patrik, như thể ông mới là người an ủi. Và có lẽ đúng vậy.

“Nếu anh không phiền, tôi muốn cho anh xem một vài tấm hình của Mona và kể cho anh nghe một chút về con bé. Để anh hiểu được con bé ra sao khi nó còn sống.”

Không chút do dự người đàn ông trẻ tuổi gật đầu, và Albert khập khiễng đi lấy những cuốn album cũ. Trong khoảng một giờ đồng hồ, ông cho Patrik xem ảnh và kể cho anh nghe về con gái mình. Đó là những giờ phút dễ chịu nhất mà ông đã trải qua trong suốt một thời gian dài, và ông nhận ra rằng đã lâu lắm rồi ông mới cho phép mình nhớ lại quá khứ.

Khi họ nói lời tạm biệt ở cửa, ông ấn một bức ảnh vào tay Patrik. Ảnh chụp Mona vào ngày sinh nhật lần thứ năm, với một cái bánh to, năm ngọn nến trước mặt và nụ cười toe toét. Cô thật ngọt ngào vui vẻ, với những lọn tóc vàng và đôi mắt lấp lánh yêu đời. Đối với ông, quan trọng là cảnh sát sẽ mang hình ảnh này trong tâm trí khi họ tìm kiếm kẻ đã giết con gái ông.

Sau khi viên cảnh sát rời đi, Albert lại ngồi trên hiên. Ông nhắm mắt lại và hít mùi hương ngọt ngào. Rồi ông ngủ thiếp đi và mơ về một đường hầm dài rực sáng, ở phía cuối có Mona và Linnea đang đợi ông như những bóng ma. Ông nghĩ rằng ông đã nhìn thấy họ vẫy tay.

Cánh cửa văn phòng của Gabriel mở rầm một cái. Solveig xông vào, và đằng sau bà ta, ông thấy Laine chạy đến, hai bàn tay bà quờ quạng trong vô vọng.

“Mày là thằng thối thây! Mày là thằng mặt giặc khốn nạn!”

Ông ta vô thức nhăn mặt trước ngôn từ kiểu này. Ông ta vẫn luôn thấy cực kỳ lúng túng khi người ta bày tỏ những cảm xúc mạnh mẽ quanh mình, và ông ta không kiên nhẫn nổi với thứ ngôn ngữ đó.

“Có chuyện gì đấy? Solveig, tôi thực sự nghĩ rằng cô nên bình tĩnh và đừng có nói chuyện với tôi kiểu đó.”

Quá muộn, ông ta đã nhận ra rằng cái giọng điệu phê bình vốn có của mình chỉ làm cho mọi việc tồi tệ hơn. Solveig dường như sắp lao vào bóp cổ ông ta, và để toàn mạng ông ta liền lùi lại phía sau bàn làm việc.

“Bình tĩnh? Mày bảo tao bình tĩnh à, thằng mất dạy? Thằng liệt dương!”

Ông ta có thể thấy Solveig đang khoái trá nhìn ông ta rùng mình mỗi khi nghe một từ tục tĩu. Ở phía sau, Laine càng lúc càng tái.

Solveig hạ giọng xuống một chút, nhưng ngữ điệu thậm chí còn độc địa hơn. “Sao nào, Gabriel? Sao trông mày thất vọng thế? Mày đã từng thích thú khi tao thì thầm những lời bẩn thỉu bên tai mày cơ mà. Vậy mày mới nứng được. Mày nhớ không, Gabriel?” Solveig vừa rít lên vừa tiến đến gần bàn của ông ta.

“Không có lý do gì để nhắc lại quá khứ cả. Cô có gì muốn nói với tôi à, hay cô mới uống say và lại bất mãn như mọi khi?”

“Tao có gì muốn nói với mày ấy à? Có chứ, tất nhiên là có. Tao đã xuống Fjällbacka và mày biết gì không? Họ đã tìm thấy Mona và Siv.”

Gabriel giật nẩy mình. Mặt ông ta lộ vẻ sửng sốt bất ngờ.

“Họ đã tìm thấy mấy đứa con gái đó à? Ở đâu?”

Solveig ngả người trên bàn làm việc, dồn lực chống tay xuống nên mặt bà ta chỉ cách mặt Gabriel vài phân.

“Ở Khe Vua. Cùng với một con bé người Đức mới bị giết. Và họ nghĩ rằng đó cùng là do một kẻ giết người. Thật là nhục nhã, Gabriel Hult. Thật nhục nhã cho mày, mày buộc tội em trai mày, ruột thịt của chính mày. Và anh ấy đã phải chịu tội trong mắt người đời, mặc dù sự thật là không bao giờ có tí ti bằng chứng gì chống lại anh ấy. Tất cả những chỉ trỏ và thì thào sau lưng đã khiến anh ấy ngã quỵ. Nhưng có lẽ mày biết mọi chuyện sẽ thành ra như vậy. Mày biết rằng anh ấy yếu đuối. Rằng anh ấy đa cảm. Anh ấy không thể chịu nổi nhục nhã nên mới tự thắt cổ. Tao sẽ không ngạc nhiên nếu đó chính là những gì đã được mày tính toán trước, khi mày báo cảnh sát. Mày không bao giờ có thể chịu đựng nổi sự thực là Ephraim yêu anh ấy nhiều hơn.”

Solveig thụi mạnh vào ngực ông ta, ông ta lảo đảo lùi lại sau mỗi cú đánh. Bây giờ ông ta đang đứng quay lưng lại xô-pha cạnh cửa sổ và không thể lùi xa bà ta hơn được nữa. Ông bị kẹt rồi. Ông cố gắng đưa mắt để báo hiệu cho Laine làm gì đó trước tình trạng khó chịu này, nhưng như thường lệ, bà chỉ đứng đó và nhìn trân trối, hoàn toàn lúng túng.

“Johannes của tao luôn được mọi người yêu quý hơn mày. Mày không thể chịu đựng nổi điều đó, phải không?” Bà ta không chờ đợi câu trả lời cho câu hỏi tu từ trá hình. Bà ta tiếp tục công kích. “Ngay cả khi Ephraim xóa tên Johannes khỏi di chúc, ông cụ vẫn còn yêu thương anh ấy nhiều hơn. Mày có bất động sản và tiền bạc, nhưng mày không bao giờ có thể chiếm được tình yêu thương của bố. Bất chấp sự thật là mày làm việc ở trang trại trong khi Johannes chỉ sống một đời vô lo. Rồi anh ấy cướp mất vợ chưa cưới của mày, đó là giọt nước làm tràn ly, phải không? Đó là khi mày bắt đầu ghét anh ấy, hả Gabriel? Đó là khi mày bắt đầu ghét em mày? Chắc chắn, việc đó có thể là không công bằng, nhưng mày vẫn không có quyền làm những việc mày đã làm. Mày đã hủy hoại cuộc đời Johannes, đời tao và bọn trẻ nữa, vấn đề là vậy đấy. Mày không nghĩ rằng tao biết mấy thằng bé đã thành ra cái gì ư? Và tất cả là lỗi của mày, Gabriel Hult. Cuối cùng thì mọi người cũng thấy rằng Johannes không làm những việc họ đã xì xào trong bao năm qua. Cuối cùng thì tao và mấy thằng bé lại có thể ngẩng cao đầu mà bước đi.”

Cơn tức giận của bà ta dường như đã xẹp dần đi, và thay vào đó là nước mắt. Gabriel không biết cái gì tồi tệ hơn. Trong một khoảnh khắc, ông đã nhìn thấy trong cơn giận dữ của bà ta một thoáng của Solveig ngày xưa. Nàng hoa khôi đáng yêu mà ông đã từng tự hào là vị hôn thê của mình, trước khi em trai ông đến và mang nàng đi mất, đúng kiểu của hắn, cứ lấy đi mọi thứ mà hắn muốn. Khi cơn tức giận được thay thế bằng nước mắt, Solveig xì hơi như một quả bóng thủng, và ông lại nhìn thấy con người tàn tạ, cẩu thả và béo phì đã dành tháng ngày chỉ để chìm đắm trong nỗi tự thương thân.

“Mày sẽ bị thiêu trong địa ngục, Gabriel Hult, cùng với bố mày.” Bà ta thì thầm mấy lời này rồi bỏ đi cũng đột ngột như lúc đến. Rồi Gabriel còn lại một mình, với Laine. Gabriel cảm thấy sốc. Ông ta nặng nề ngồi xuống ghế và im lặng chằm chằm nhìn vợ. Họ nhìn nhau vẻ thông đồng. Cả hai đều biết những mảnh xương cũ mà trồi lên thì có nghĩa là gì.

Với lòng nhiệt huyết và tự tin, Martin đã nhận nhiệm vụ tìm hiểu mọi điều về Tanja Schmidt, đó là họ tên đầy đủ trong hộ chiếu của cô. Liese đã mang đến tất cả đồ đạc của Tanja theo yêu cầu, và anh lục soát ba lô của cô rất kỹ lưỡng. Ở dưới đáy anh tìm thấy hộ chiếu của cô, trông gần như chưa được dùng đến. Thật ra chỉ có một con dấu khi cô từ Đức đến Thụy Điển. Hoặc là cô chưa bao giờ rời khỏi Đức, hoặc là hộ chiếu này còn mới.

Tấm ảnh hoàn hảo đến ngạc nhiên, và anh cho rằng cô khá xinh mặc dù hơi giản dị. Đôi mắt nâu và mái tóc nâu, dài qua vai một chút. Cao một mét sáu lăm, vóc dáng trung bình, dù theo nghĩa nào đi nữa.

Ngoài ra thì ba lô của cô chẳng có gì đáng quan tâm nữa. Quần áo để thay đổi, một số sách báo cũ, đồ vệ sinh cá nhân, vài mảnh giấy gói kẹo. Không hề có gì riêng tư, đó là điều anh thấy khá kỳ quặc. Lẽ ra cô phải mang theo ít nhất một tấm ảnh của gia đình hay của bạn trai, hoặc một cuốn sổ địa chỉ chứ? Mặc dù họ đã tìm thấy một chiếc túi xách gần thi thể. Liese đã xác nhận rằng Tanja sở hữu một chiếc túi xách màu đỏ. Rõ ràng cô đã cất những món đồ riêng tư trong đó. Giờ đây chúng mất hết rồi. Đây có thể là một vụ cướp? Hay là kẻ giết người đã lấy những đồ vật riêng tư của cô làm kỷ niệm? Martin đã xem một chương trình trên kênh Discovery về những kẻ giết người hàng loạt, rõ ràng việc chúng giữ lại vật dụng từ các nạn nhân như là một phần của nghi lễ cũng thường gặp.

Martin tự ngăn mình lại. Không có gì cho thấy rằng họ đang truy tìm một kẻ giết người hàng loạt, vẫn chưa. Anh đã cố hết sức mình để không bị mắc kẹt trong hướng suy luận này.

Anh thầm ghi nhớ vài việc để điều tra vụ Tanja. Đầu tiên, liên hệ với giới chức cảnh sát Đức, việc mà anh đã định làm trước khi bị cuộc gọi của Tord Pedersen cắt ngang. Sau đó, anh sẽ phải nói chuyện với Liese một lần nữa, và cuối cùng anh sẽ bảo Gösta cùng lái xe ra khu cắm trại và hỏi han xung quanh. Xem liệu Tanja có nói chuyện với ai ở đó không. Hoặc có lẽ tốt hơn nên bảo Patrik giao nhiệm vụ đó cho Gösta. Trong cuộc điều tra này thì Patrik, chứ không phải Martin, mới là người có quyền ra lệnh cho Gösta. Và mọi thứ sẽ diễn ra suôn sẻ hơn nhiều khi tôn ti trật tự được tuân theo từng li từng tí.

Một lần nữa, anh lại quay số của cảnh sát Đức, và lần này, anh đã nối máy được. Sẽ là khoa trương khi nói rằng cuộc trò chuyện trôi chảy, nhưng đến lúc gác máy thì anh khá chắc chắn rằng mình đã thành công trong việc đưa ra những chi tiết có liên quan một cách chính xác. Họ hứa sẽ gọi lại cho anh ngay khi có thêm thông tin – ít nhất đó là những gì anh nghĩ người ở đầu bên kia đã nói. Nếu sắp tới liên hệ với các đồng nghiệp Đức nhiều hơn, thì họ sẽ phải có một thông dịch viên.

Ước lượng thời gian cần thiết để nhận thông tin từ nước ngoài, anh thực lòng mong muốn rằng trước mặt mình có kết nối Internet tử tế như ở nhà. Nhưng vì có nguy cơ bị hack, đồn cảnh sát thậm chí không có nổi một cái modem dial-up cùi bắp. Anh tự nhắc mình sẽ tìm kiếm Tanja Schmidt trong danh bạ điện thoại của Đức, nếu nó có thể truy cập được trên mạng. Mặc dù nếu anh nhớ đúng, Schmidt là một trong những họ phổ biến nhất của Đức, nên có rất ít cơ hội để tìm ra được gì.

Vì không thể làm gì khác ngoài chờ đợi thông tin từ Đức, anh quyết định bắt đầu việc tiếp theo. Anh đã có số điện thoại di động của Liese, và anh gọi cho cô ngay để đảm bảo rằng cô vẫn còn ở trong thành phố. Thật ra thì cô không có nghĩa vụ phải ở lại, nhưng cô đã hứa sẽ không rời đi trong vài ngày tới để họ còn có cơ hội để nói chuyện với cô thêm lần nữa.

Giờ đây chuyến đi của cô đã mất sạch sức hấp dẫn. Theo lời cô khai với Patrik, hai cô gái đã trở nên rất thân thiết trong một thời gian ngắn. Giờ cô đang ngồi một mình trong căn lều ở khu cắm trại Sälvik tại Fjällbacka nghĩ tới người bạn đồng hành đã bị sát hại. Có lẽ cô cũng đang gặp nguy hiểm. Đó là một kịch bản mà Martin không nghĩ đến sớm hơn. Có lẽ tốt nhất là nói chuyện với Patrik ngay khi anh ấy trở về đồn. Có thể là kẻ sát nhân đã nhìn thấy các cô gái ở khu cắm trại cùng nhau rồi tập trung vào hai người họ vì lý do nào đó. Nhưng làm sao mà hài cốt của Mona và Siv lại khớp vào bức tranh này được? Mona và có thể là Siv, anh tự sửa lại ngay. Ta không bao giờ nên chắc chắn bất cứ điều gì khi mới chỉ gần chắc chắn, một giảng viên tại Học viện Cảnh sát đã từng nói vậy. Đó là câu châm ngôn mà Martin đã cố gắng tuân thủ trong sự nghiệp cảnh sát của mình.

Suy xét cho kỹ thì, anh không tin là Liese đang gặp nguy hiểm. Một lần nữa họ lại phải đối phó với các khả năng, và điều kỳ cục là cô bị kéo vào vụ này chẳng qua là vì không may mắn khi lựa chọn bạn đồng hành đi du lịch.

Dù vốn e ngại nhưng Martin vẫn quyết định phải nói vài câu để buộc Gösta vào một công việc cụ thể. Anh ra hành lang và đến văn phòng của ông.

“Gösta, phiền ông chút được không?”

Gösta đang nói chuyện điện thoại, vẫn đang cao hứng về cú đánh thẳng từ điểm phát vào lỗ của mình. Ông gác máy vẻ có lỗi khi Martin thò đầu vào cửa.

“Ừm?”

“Patrik đã yêu cầu chúng ta lái xe xuống khu cắm trại Sälvik. Tôi phải gặp cô bạn đồng hành của nạn nhân, còn ông phải đi hỏi han xung quanh khu cắm trại.”

Gösta thốt ra một tiếng càu nhàu nhưng không đặt câu hỏi về tính xác thực trong lời tuyên bố của Martin rằng Patrik đã giao nhiệm vụ như thế nào. Ông cầm lấy áo khoác và theo Martin ra xe. Trận mưa như trút nước chỉ còn là mưa phùn nhẹ, nhưng không khí thì trong sạch và mát lành để hít thở. Cứ như bụi bặm và nóng nực của nhiều tuần qua đã được xả trôi, và mọi thứ trông đều sạch sẽ hơn bình thường.

“Hy vọng cơn mưa này không kéo dài, nếu không thì trận golf của tôi sẽ hỏng bét,” Gösta lẩm bẩm cáu kỉnh khi họ đã ở trong xe. Martin cho rằng ông là người duy nhất không thích thú khi tạm thời thoát khỏi cái nóng mùa hè.

“Ồ, tôi nghĩ nó cũng khá dễ chịu mà. Cái nóng khủng khiếp này sắp giết chết tôi rồi. Và hình dung bà xã của Patrik xem. Bầu tháng thứ tám vào giữa mùa hè thì đúng là khổ sở thật. Tôi thì chịu, chắc chắn đấy.”

Martin cứ huyên thuyên, dù biết rằng trừ golf ra Gösta thường kiệm lời mỗi khi nói chuyện về bất cứ điều gì khác. Và vì kiến thức về golf của Martin chỉ giới hạn ở chỗ biết quả bóng thì hình tròn màu trắng còn các tay golf thường mặc quần chú hề kẻ ca rô, anh quyết định tiếp tục nói chuyện một mình. Đó là lý do tại sao anh hầu như không nghe thấy Gösta lẩm bẩm.

“Con trai chúng tôi đã được sinh ra vào đầu tháng Tám, một mùa hè nóng như thế này.”

“Ông có con trai à, Gösta? Tôi không biết đấy.”

Martin lục tìm trong trí nhớ những lời bình về gia đình Gösta. Anh biết rằng vợ ông đã chết vài năm trước, nhưng anh không nhớ từng nghe chuyện có một đứa con. Ngạc nhiên, anh quay sang nhìn Gösta đang ngồi bên cạnh.

Đồng nghiệp của anh không nhìn lại anh, mà cứ nhìn chằm chằm vào bàn tay mình đang đặt trên đùi. Ông có vẻ không nhận ra mình đang bóp méo chiếc nhẫn cưới vàng vẫn đeo. Ông dường như không nghe thấy câu hỏi của Martin. Thay vì thế, ông tiếp tục với giọng đều đều: “Majbritt đã tăng gần ba mươi cân. Bà ấy to béo như một cái nhà. Bà ấy cũng hầu như không thể đi lại được khi trời nóng. Cuối cùng thì bà ấy chỉ ngồi trong bóng râm, thở hổn hển. Tôi đưa bà ấy hết bình nước này đến bình nước khác, nhưng cứ như cho lạc đà uống vậy. Bà ấy dường như không bao giờ hết khát.”

Ông phá lên cười, tiếng cười kỳ lạ, trầm tư, thoáng chút dịu dàng. Martin nhận ra rằng Gösta đã lùi xa vào trong luồng ký ức mà đã lâu rồi ông không còn kể cho bất kỳ ai khác nữa.

“Khi mới ra đời, thằng bé thật hoàn hảo,” Gösta tiếp tục. “Nó bụ bẫm và xinh xẻo hết sức. Mọi người bảo là nó giống hệt tôi. Nhưng rồi mọi chuyện xảy ra quá nhanh chóng.” Gösta xoay nhẫn cưới càng lúc càng nhanh. “Khi tôi vào viện thăm hai mẹ con thì nó đột ngột ngừng thở. Đó là một cơn chấn động khủng khiếp. Mọi người chạy đến từ mọi hướng, và họ đem nó đi khỏi chúng tôi. Chúng tôi không bao giờ nhìn thấy nó nữa cho đến khi nó đã nằm trong quan tài. Nhưng lễ tang tử tế lắm. Sau đấy chúng tôi không muốn có thêm con nữa. Nếu mọi chuyện lại không ổn nữa thì sao? Majbritt sẽ không thể chịu đựng được, và tôi cũng thế. Nên chúng tôi đành cố sống với nhau vậy thôi.”

Gösta giật mình như thể chợt tỉnh cơn mê. Ông nhìn Martin vẻ trách móc, như thể vì lỗi của anh mà ông mới thốt ra những lời này.

“Đó không phải là chuyện mà tôi muốn nói đến nữa, tất nhiên. Và cũng không phải là chuyện mà các anh có thể ngồi xuống và tán phét trong lúc nghỉ ngơi uống cà phê. Đã bốn mươi năm rồi, và không cần phải cho người khác biết.”

Martin gật đầu. Nhưng anh không thể ngăn mình vỗ nhẹ lên vai Gösta. Ông già càu nhàu, nhưng vào lúc ấy Martin cảm thấy một mối thân tình mỏng manh đã hình thành giữa họ, trong khi trước đó đôi bên chỉ có sự thiếu nể trọng nhau. Gösta có thể không phải là hình mẫu tốt đẹp nhất của một sĩ quan cảnh sát, nhưng vậy không có nghĩa là ông thiếu kinh nghiệm cùng kiến thức, và Martin có thể học hỏi nhiều điều từ ông.

Cả hai đều nhẹ nhõm khi đến khu cắm trại. Bầu im lặng sau khi chia sẻ chuyện riêng tư có thể trĩu nặng, như năm phút vừa qua.

Gösta đút hai tay vào túi và với vẻ chán nản hiện trên gương mặt, bước đi tìm kiếm những người cắm trại có thể trả lời các câu hỏi của ông. Martin hỏi đường đến lều của Liese và ngạc nhiên khi thấy nó có khi không lớn hơn một cái khăn tay. Nó nằm kẹt giữa hai cái lều to, thành ra trông còn nhỏ hơn nữa. Trong cái lều bên phải có vài đứa bé đang đùa nghịch ầm ĩ – lều bên trái thì có một gã lực lưỡng chừng hai mươi làm tuổi đang uống bia dưới mái hiên chìa ra. Tất cả bọn họ nhìn Martin vẻ tò mò khi anh đến gần lều của Liese.

Không thể gõ cửa, nên anh hơi ngập ngừng gọi tên cô. Dây kéo lều mở rộng và mái tóc vàng của Liese ló ra.

Hai giờ sau, hai sĩ quan cảnh sát lái xe đi mà không phát hiện ra bất cứ điều gì mới. Liese không còn gì để khai báo thêm nữa ngoài những điều cô đã nói với Patrik ở đồn, và không ai trong số những người cắm trại khác nhận thấy bất cứ điều gì đáng quan tâm về Tanja hay Liese.

Nhưng có một điều gì khác đã khiến Martin phải chú ý và giờ đang quanh quất ở sâu trong tâm trí anh. Anh cuống cuồng tìm kiếm những trực cảm trong chuyến đi tới khu cắm trại nhưng vẫn bối rối. Anh đã nhìn thấy một điều gì đó lẽ ra cần phải ghi lại. Bực mình, anh gõ gõ ngón tay trên vô lăng, nhưng cuối cùng đành từ bỏ, không cố chộp lấy cái ký ức khó nắm bắt ấy nữa.

Họ lái xe về trong im lặng.

Patrik hy vọng về già mình sẽ được như Albert Themblad. Không phải một mình, tất nhiên, chỉ là phong cách giống thôi. Albert đã không cho phép mình suy sụp sau cái chết của vợ, giống như nhiều ông già khi phải sống một mình. Thay vì thế, ông vẫn mặc đầy đủ cả áo sơ mi và áo vét, cả mái tóc và chòm râu bạc đều được chải cẩn thận. Dù khó nhọc, ông vẫn đi lại với vẻ đường hoàng, đầu ngẩng cao, và từ những gì Patrik nhìn thấy thì căn nhà có vẻ vẫn được giữ gọn gàng và ngăn nắp. Anh cũng bị ấn tượng bởi cách Albert cư xử khi nhận tin báo con gái mình đã được tìm thấy. Ông dường như đã làm hòa với số phận và cố sống tốt nhất trong hoàn cảnh ấy.

Patrik xúc động sâu sắc vì những bức ảnh Mona mà Albert cho xem. Giống như rất nhiều lần trước đây, anh nhận ra thật quá dễ để xem các nạn nhân của tội ác chỉ là một số liệu thống kê khác, hoặc đặt tên họ là nguyên đơn hay nạn nhân”. Bất kể người đó bị cướp hay, như trong trường hợp này, bị giết. Albert đã làm điều đúng đắn khi cho anh xem những bức ảnh đó. Anh đã nhìn thấy Mona từ khi còn ở nhà hộ sinh đến khi thành một đứa bé mũm mĩm, từ cô học trò đến khi thành sinh viên. Rồi anh đã thấy cô là một cô gái khỏe mạnh, hạnh phúc ra sao ngay trước khi cô biến mất.

Nhưng anh còn một cô gái khác cần phải tìm hiểu thêm. Bên cạnh đó, anh biết thị trấn đủ rõ để nhận ra rằng những tin đồn đang bay với tốc độ chớp nhoáng trong cả khu vực. Tốt nhất là ngăn chặn chúng và nói chuyện với mẹ của Siv Lantin, mặc dù họ vẫn chưa xác nhận được chắc chắn đó có phải là Siv hay không. Để chắc chắn, anh đã kiểm tra địa chỉ của bà ta trước khi anh rời đồn. Phải vất vả một hồi mới xác định được nơi ở của mẹ Siv, vì Gun đã không còn mang họ Lantin. Bà hẳn là đã kết hôn, hoặc tái hôn, trong trường hợp này thì có thể là thế. Sau khi dò tìm một chút anh đã phát hiện ra họ của bà giờ đây là Struwer và có một ngôi nhà mùa hè đăng ký dưới tên Gun và Lars Struwer tại Norra Hamngatan ở Fjällbacka. Tên Struwer quen quá, nhưng anh chẳng thể nhớ được gì.

Anh may mắn tìm được một chỗ đậu xe trên Planama phía dưới Badrestaurant, và đi bộ thêm khoảng một trăm mét nữa. Vào mùa hè đây là đường một chiều dọc Norra Hamngatan, nhưng trong khi đi bộ một đoạn ngắn anh thấy ba gã tài xế ngu ngốc không biết đọc biển báo giao thông. Anh đã phải ép mình sát bức tường đá khi họ cô chen lấn xe ngược chiều. Nơi họ sống chắc phải rất gồ ghề nên họ mới cần phải lái xe Jeep bốn bánh lớn. Đó là loại xe đã quá phổ biến với các du khách mùa hè. Patrik đoán rằng trong trường hợp này, vùng Stockholm được xem là địa hình gồ ghề.

Anh muốn lôi phù hiệu của mình ra và cảnh cáo họ nhưng rồi kìm lại. Nếu cảnh sát dành thời gian cố dạy dỗ tất cả những người đi biển phải có ý thức thì sao còn làm được mấy việc khác nữa.

Patrik cuối cùng đã đến đúng nơi, một ngôi nhà màu trắng viền xanh nằm ở mé trái con phố, phía bên kia những căn nhà thuyền màu đỏ đã cho Fjällbacka cái dáng vẻ đặc trưng của nó. Những người chủ nhà đang bận rộn dỡ vài cái va li lớn từ chiếc Volvo V70 màu vàng kim. Chính xác hơn, một người đàn ông lớn tuổi trong bộ vét hai hàng cúc đang rên rỉ nâng cái va li lên, trong khi người đàn bà thấp lùn, trang điểm đậm đứng bên cạnh khoa tay múa chân. Cả hai đều ram rám, sắp cháy nắng đến nơi, và nếu mùa hè Thụy Điển không quá nắng thế này thì Patrik có thể đoán rằng họ đã đi nghỉ ở nước ngoài. Năm nay những bãi đá của Fjällbacka cứ như là phòng nhuộm da.

Anh bước đến bên cặp vợ chồng và ngập ngừng một giây mới hắng giọng để thu hút sự chú ý của họ. Cả hai đều ngừng việc đang làm lại và quay ra.

“Sao vậy?” Giọng Gun Struwer hơi quá chói tai, và Patrik nhận thấy vẻ cáu kỉnh trên mặt bà ta.

“Tên tôi là Patrik Hedström và tôi là cảnh sát. Tôi có thể nói vài lời với bà được không?”

“Rốt cuộc cũng đến!” Bà ta giơ bàn tay với những cái móng được cắt tỉa sơn đỏ lên và đảo mắt. “Mất nhiều thời gian thế này đây. Tôi không hiểu tiền thuế của chúng tôi đã đi đâu. Suốt mùa hè chúng tôi đã báo cáo rằng người ta đậu xe trái phép tại chỗ đậu xe của chúng tôi, nhưng chẳng thấy cảnh sát ồ ê gì. Cuối cùng thì các anh có làm gì để xử lý sự phiền toái này không? Chúng tôi đã trả rất nhiều tiền cho căn nhà này, và nghĩ rằng chúng tôi có quyền sử dụng nơi đậu xe riêng. Nhưng yêu cầu như vậy là quá nhiều hay gì đây!”

Bà ta chống nạnh và nheo mắt nhìn Patrik. Chồng bà ta đứng phía sau, trông như thể muốn độn thổ. Rõ là ông ta không nghĩ rằng vấn đề này lại quan trọng đến vậy.

“Thực ra thì tôi không ở đây vì chuyện vi phạm chỗ đậu xe,” Patrik nói. “Nhưng trước hết tôi phải hỏi bà: tên thời con gái của bà là Gun Lantin đúng không? Và bà có một con gái tên là Siv?”

Gun im bặt và lấy tay che miệng. Không cần câu trả lời nào khác nữa. Ông chồng là người đầu tiên tỉnh trí lại và đi cùng Patrik đến cửa trước, vẫn đang để mở. Có vẻ hơi liều khi bỏ lại đống va li ngoài đường, nên Patrik cầm lấy hai cái và giúp Lars Struwer mang hành lý vào trong. Gun đã vội vã đi vào nhà trước họ.

Họ ngồi trong phòng khách, Gun và Lars ngồi cạnh nhau trên xô-pha, còn Patrik ngồi ghế bành. Gun đang bám vào Lars, nhưng những cái vỗ nhẹ an ủi có vẻ máy móc, như một việc mà ông ta nghĩ mình cần phải làm trong tình huống này.

“Có chuyện gì sao? Các anh đã tìm ra cái gì vậy? Hơn hai mươi năm rồi. Đã lâu như vậy thì làm sao có thể tìm ra điều gì nữa?” bà ta lảm nhảm bất an.

“Tôi phải nhấn mạnh rằng chúng tôi vẫn chưa xác nhận chắc chắn được, nhưng có thể là chúng tôi đã tìm thấy Siv.”

Gun đưa tay lên cổ và lần này bà ta dường như không nói nên lời.

Patrik tiếp tục, “Chúng tôi vẫn đang chờ khám nghiệm pháp y để xác thực, nhưng nhiều khả năng đó là Siv.”

“Nhưng mà như thế nào, ở đâu…?” bà ta lắp bắp. Những câu hỏi cũng giống như câu bố Mona đã hỏi.

“Một