← Quay lại trang sách

Chương 6 MÙA HÈ NĂM 1979

Sự đau đớn và bóng tối khiến thời gian trôi qua trong một màn sương mộng mị. Ngày hay đêm, cuộc sống hay cái chết, cũng chẳng hề quan trọng. Ngay cả những tiếng chân trên đầu cô, chính là cái ác đang đến gần, cũng không thể xui khiến thực tế thâm nhập vào chỗ tăm tối này của cô. Hoặc tiếng những chiếc xương bị gãy hòa với những tiếng kêu thét đau đớn của ai đó. Có lẽ là của cô. Cô thực sự không biết nữa.

Sự cô lập mới là điều tồi tệ nhất. Hoàn toàn không có âm thanh, chuyển động, hoặc bất kỳ động chạm nào trên da cô. Cô không bao giờ có thể tưởng tượng được rằng không được giao tiếp với con người lại có thể đau đớn khủng khiếp đến thế. Nó đánh bại mọi nỗi đau. Nó cắt vào tâm hồn cô như một con dao và khiến toàn thân cô run rẩy.

Mùi của người lạ giờ trở nên hoàn toàn quen thuộc. Không hề kinh tỏm. Không phải là mùi cô vẫn tưởng tượng về cái ác. Thay vào đó nó tươi mới và đầy hứa hẹn về mùa hè và sự ấm áp. Nó gần như sờ thấy được, trái ngược với bóng tối, không khí ẩm ướt mà cô liên tục hít vào. Không khí quanh cô như một tấm chăn mềm và từng chút một nuốt hết những tàn tích cuối cùng của kẻ đã từng là cô, trước khi cô ở đây. Đó là lý do tại sao cô tham lam uống lấy mùi ấm áp khi người lạ đến gần. Chịu đựng cái ác cũng đáng, để được một lúc uống lấy mùi cuộc sống hẳn đang diễn ra bình thường ở đâu đó trên kia. Đồng thời nó cũng gọi lên một cảm giác đớn đau về mất mát. Cô không còn là cô trước kia – cô nhớ con người đó và cô sẽ không bao giờ còn là người đó nữa. Đó là một cuộc giã từ đau đớn, nhưng để tồn tại cô phải làm điều đó.

Nhưng điều quấy rầy cô nhất ở dưới này là suy nghĩ về đứa con. Kể từ khi con gái cô ra đời, cô đã đổ lỗi cho nó vì đã còn sống, nhưng giờ vào thời khắc cuối cùng này cô hiểu rằng con gái mình thực sự là một món quà. Ký ức về vòng tay mềm mại nó ôm lấy cổ cô, hoặc đôi mắt to thèm thuồng nhìn cô tìm kiếm một thứ mà cô không thể cho đi, cứ ám ảnh cô trong những giấc mơ rực rỡ. Cô có thể nhìn thấy ngay trước mặt từng chi tiết của con gái mình. Từng đốm tàn nhang nhỏ, từng sợi tóc, ngay cả những xoáy nhỏ sau gáy cũng giống hệt cô. Cô đã hứa với chính mình và với Chúa hết lần này qua lần khác rằng nếu được thoát khỏi nhà tù này cô sẽ bù đắp cho con bé từng giây một nó bị mẹ từ chối thương yêu. Nếu như…

“Con không thể ra ngoài như thế được!”

“Con ra ngoài thế nào là do con thích, và bố đừng có nói này nói nọ.”

Melanie quắc mắt nhìn bố, ông cũng trừng mắt nhìn lại. Nguyên nhân cuộc tranh cãi của họ giờ đã quá quen thuộc: cô đang mặc nhiều chừng nào, hay đúng hơn là mặc ít chừng nào.

Melanie phải thừa nhận rằng bộ quần áo cô chọn cũng chẳng lấy gì làm nhiều vải, nhưng cô nghĩ nó đẹp và bạn bè cô đều ăn mặc như thế cả. Và suy cho cùng thì cô đã mười bảy tuổi rồi. Cô không phải là trẻ con, vậy nên cô mặc gì hoàn toàn là việc của cô. Cô xấc xược nhìn bố, cơn giận dữ đã khiến mặt và cổ ông thoáng đỏ lên. Nếu cô cũng già nua và yếu đuối như thế thì khốn nạn thật. Chiếc quần soóc Adidas bóng bẩy của ông đã hết mốt mười lăm năm trước, và cái áo sơ mi ngắn tay lốm đốm thì chẳng hợp chút nào với cái quần. Bụng ông đã phình ra vì ăn quá nhiều khoai tây rán khi nằm trên xô-pha xem ti-vi, giờ đang đe dọa sẽ làm bật tung mấy cái nút áo. Và trên hết, ông lại còn đi đôi dép nhựa xỏ ngón kinh tởm dưới chân. Cô cảm thấy xấu hổ khi bị nhìn thấy ở cùng ông, và cô ghét cứ phải loanh quanh ở khu cắm trại chết tiệt này suốt cả mùa hè.

Khi còn nhỏ cô đã từng rất thích đi cắm trại trong những kỳ nghỉ bằng xe lưu động. Luôn có nhiều trẻ con để chơi cùng, chúng có thể đi bơi và thoải mái chạy nhảy giữa những chiếc xe đang đậu. Nhưng bây giờ bạn bè của cô đã trở lại Jonkoping hết cả, và tệ nhất là cô đã bị bắt phải bỏ Tobbe. Giờ thì cô không có ở đó để bảo vệ chủ quyền, cô chắc chắn cậu ta sẽ đi chơi với con bé Madde chết tiệt, nó cứ bám lấy cậu ta như một miếng băng dính. Nếu chuyện đó xảy ra, cô long trọng thề rằng cô sẽ thù ghét bố mẹ mình cho đến hết đời.

Ở khu cắm trại Grebbestad thật chán chết, và trên hết thì họ đối xử với cô như thể cô mới năm tuổi, chứ không phải là mười bảy tuổi. Cô thậm chí còn không được chọn quần áo để mặc. Cô hất hàm bướng bỉnh và vuốt phẳng lại cái áo vốn không lớn hơn một mảnh bikini. Chiếc quần soóc bò nhỏ xíu của cô cọ vào mông khá là khó chịu, nhưng với những cái nhìn mà bọn con trai dành cho cô thì khó chịu cũng đáng. Phần đẹp nhất trong bộ trang phục của cô là đôi giày cao chót vót đã thêm ít nhất mười phân vào chiều cao một mét sáu mươi của cô.

“Chừng nào bố mẹ còn nuôi con ăn ở, thì bố mẹ được quyền quyết định, còn bây giờ thì con…”

Bố cô bị ngắt lời bởi một tiếng gõ mạnh vào cửa chiếc xe lưu động.

Khoái chí vì được hoãn thi hành án, Melanie vội vã ra mở cửa. Đứng bên ngoài là một người đàn ông tóc sẫm ước chừng ba mươi lăm tuổi, cô liền tự động đứng thẳng lưng và ưỡn ngực ra. Có lẽ hơi già so với khẩu vị của cô, nhưng anh ta trông đẹp trai, và bên cạnh đó, cô rất thích làm cho bố phải khó chịu.

“Tôi là Patrik Hedström và tôi là cảnh sát. Tôi có thể vào trong một lát được không? Đây là chuyện về Jenny.”

Melanie bước sang một bên để cho anh vào, nhưng chỉ vừa đủ để anh buộc phải ép sát vào tấm thân hở hang của cô.

Sau khi Patrik và bố cô bắt tay, họ ngồi xuống cái bàn nhỏ xíu.

“Tôi có nên gọi vợ tôi nữa không? Bà ấy đang ở dưới hồ bơi.”

“Không, không cần đâu. Tôi chỉ muốn có vài lời với Melanie. Như cháu đã biết, Bo và Kerstin Möller đã trình báo rằng Jenny con gái họ đang mất tích. Họ nói rằng cháu và Jenny đã định đi Fjällbacka ngày hôm qua, phải không?”

Melanie kéo áo trễ xuống để khoe thêm chút khe ngực và liếm môi trước khi trả lời. Một cảnh sát. Thật là gợi cảm.

“À vâng, bọn cháu đã hẹn gặp nhau tại trạm xe buýt lúc bảy giờ để bắt xe số mười vào thành phố. Mấy thằng con trai mà bọn cháu đã gặp sẽ nhảy ở Tanum Strand. Bọn cháu định đi xem có gì hay không. Bọn cháu chẳng có kế hoạch đặc biệt nào.”

“Nhưng Jenny đã không đến?”

“Không, lạ thật. Bọn cháu không biết nhau rõ lắm, nhưng con bé ấy có vẻ khá là đáng tin. Cháu thực sự ngạc nhiên khi nó lại không đến. Cháu không nói là cháu thất vọng đâu nhé. Con bé ấy cứ bám riết lấy cháu, và cháu không ngại có cả Micke lẫn Fredde cho riêng mình đâu. Ý cháu là mấy thằng con trai đến từ Tanum Strand ấy.”

“Melanie!” bố cô cất tiếng, nhìn cô giận dữ. Cô trừng mắt lại.

“Cái gì ạ? Con không thể không nghĩ rằng nó là một con bé nhà quê ngu ngốc. Không phải là lỗi của con nếu nó biến mất. Có lẽ nó chỉ trở về nhà ở Karlstad. Nó nói về một thằng bé mà nó gặp ở đó. Nó mà có tí đầu óc nào thì nó đã nhổ vào cái kỳ nghỉ trên xe lưu động chết tiệt này và quay trở lại với cậu ta.”

“Con không nghĩ đến việc làm vậy đấy chứ! Cái thằng Tobbe đó…”

Patrik thấy mình buộc phải cắt ngang cuộc tranh cãi giữa bố và con gái. Anh vẫy tay một cách thận trọng để thu hút sự chú ý của họ. May thay, họ đã bình tĩnh lại.

“Thế cháu không biết tại sao bạn ấy không đến à?”

“Không, chẳng biết tí gì.”

“Cháu có biết liệu bạn ấy có đi chơi với đứa trẻ nào khác ở đây, tại khu cắm trại hay không? Ai đó mà bạn ấy có thể cùng tâm sự ấy?”

Melanie làm như vô tình cọ cọ chân lên chân viên cảnh sát và thích thú nhìn anh nhảy dựng lên. Bọn đàn ông thật quá dễ xử. Họ bao nhiêu tuổi cũng chẳng quan trọng, chỉ có một điều trong tâm trí họ mà thôi. Nếu một cô gái biết điều đó, cô ta có thể khiến họ làm bất cứ điều gì cô ta muốn. Cô lại cọ cọ chân anh lần nữa. Môi trên anh đã bắt đầu lấm tấm chút mồ hôi. Mà trong xe cũng khá ngột ngạt nữa.

Cô ngừng lại một chút trước khi trả lời.

“Có một thằng con trai, một thằng mọt sách mà con bé ấy đã gặp ở đây vào mùa hè từ khi nó còn nhỏ. Thật đáng thương, nhưng như cháu đã nói thì con bé cũng chẳng lấy gì làm cá tính, nên chúng nó khá là đẹp đôi.”

“Cháu có biết tên cậu ta không, hoặc chú có thể tìm thấy cậu ta ở chỗ nào được nhỉ?”

“Bố mẹ nó có một cái xe lưu động đậu cách đây hai hàng. Đó là cái có mái hiên sọc nâu và trắng với những chậu phong lữ đỏ ở phía trước.”

Patrik cảm ơn sự giúp đỡ của cô gái và đỏ mặt lách qua Melanie trên đường ra.

Cô vẫn cố làm một động tác quyến rũ ngay bên cửa khi cô vẫy tay chào tạm biệt viên cảnh sát. Bố cô lại bắt đầu cằn nhằn, nhưng cô giả điếc. Đằng nào ông ta cũng có bao giờ nói được điều gì đáng nghe đâu.

Vã mồ hôi vì nhiều lý do khác ngoài cái nóng ngột ngạt, Patrik nhanh chóng rời đi. Thật nhẹ nhõm khi thoát khỏi cái xe lưu động chật chội để ra khu vực đông đúc bên ngoài. Anh cảm thấy như một kẻ ấu dâm khi cô bé ấy cứ gí bộ ngực nhỏ vào mặt anh, và khi cô bé bắt đầu cọ cọ lên chân anh, anh không biết phải làm gì. Anh nghĩ điều đó thật khó chịu. Mà cô bé cũng không ăn mặc nhiều nhặn gì cho lắm. Chỉ là những mảnh vải bé như cái khăn tay để che lấy thân thể. Trong chớp mắt, anh nhận ra rằng mười bảy năm nữa, con gái mình cũng có thể sẽ ăn mặc kiểu đó và tán tỉnh những gã lớn tuổi hơn. Anh rùng mình với ý nghĩ đó và đột nhiên hy vọng rằng Erica đang mang bầu một bé trai – ít nhất thì anh cũng biết các cậu thiếu niên ra làm sao. Cô bé này thì cứ như một sinh vật từ hành tinh khác, với ngần ấy lớp trang điểm và trang sức to lủng lẳng. Anh cũng không thể không để mắt tới chiếc khuyên rốn của cô bé. Có lẽ anh đã già, nhưng anh thấy dường như nó chẳng có chút khêu gọi nào. Thay vào đó, anh chỉ nghĩ đến nguy cơ nhiễm trùng và để lại sẹo. Nhưng ở tuổi anh thì vậy cũng phải thôi. Anh vẫn còn nhớ như in mẹ anh đã mắng anh như thế nào khi anh trở về nhà với một chiếc khuyên tai, mà lúc đó anh đã mười chín tuổi rồi. Chiếc khuyên đã tuột ra luôn, và đó cũng là cái lần anh táo tợn nhất.

Anh bị lạc giữa những chiếc xe lữ hành, chúng đậu sát đến nỗi trông như được xếp chồng lên nhau. Cá nhân anh không thể hiểu tại sao người ta lại tự nguyện dành cả kỳ nghỉ lễ của mình để bị đóng hộp với nhau như cá mòi cùng với một đám đông những người khác. Nhưng lý tính thuần túy mà nói, anh hiểu rằng đối với nhiều người nó đã trở thành một lối sống, và điều quyến rũ họ là một đoàn những người cắm trại khác, những người năm nào cũng quay lại đúng chỗ này. Vài chiếc xe khó có thể được gọi xe lưu động nữa, họ đã dựng lều tứ phía xung quanh. Chúng trông giống những ngôi nhà nhỏ bé kiên cố, luôn xuất hiện tại cùng một chỗ, năm này qua năm khác.

Sau khi hỏi đường, Patrik cuối cùng cũng tìm được đến chiếc xe lưu động mà Melanie đã mô tả. Anh nhìn thấy một cậu thiếu niên gầy, cao lêu nghêu và mụn nhọt chi chít đang ngồi bên ngoài. Patrik cảm thấy thương cậu ta khi anh nhìn thấy những đốm mụn đỏ và trắng. Cậu ta có vẻ không kìm được việc nặn chúng, mặc dù chắc chắn sẽ bị sẹo rất lâu sau khi mụn đã hết.

Mặt trời chói vào mắt Patrik khi anh dừng lại trước mặt cậu trai trẻ tuổi, và anh phải khum tay che mắt. Anh đã để kính mát ở đồn.

“Xin chào, chú là cảnh sát. Chú đã nói chuyện với Melanie ở đằng kia, bạn ấy nói rằng cháu biết Jenny Möller, đúng vậy không?”

Cậu bé im lặng gật đầu. Patrik ngồi xuống bãi cỏ bên cạnh cậu và thấy rằng, không giống như cô bé Lolita ở cách đó một vài xe, cậu trông vô cùng lo lắng.

“Chú là Patrik, tên cháu là gì?”

“Per.”

Patrik nhướng mày tỏ ý rằng anh mong đợi nhiều hơn thế.

“Per Thorsson.” Cậu sốt ruột nhổ những búi cỏ trên mặt đất và chằm chằm nhìn chúng vẻ nghiêm trọng. Không nhìn Patrik, cậu nói, “Có chuyện đã xảy ra với bạn ấy, là do lỗi của cháu.”

“Ý cháu là gì?” Patrik nói, giật mình.

“Vì cháu mà bạn ấy nhỡ chuyến xe buýt. Từ khi còn nhỏ, mùa hè nào bọn cháu cũng gặp nhau ở đây và luôn có khoảng thời gian vui vẻ. Nhưng sau khi gặp con ranh Melanie, bạn ấy thành ra chán chết. Tất cả những gì bạn ấy nói là Melanie thế này và Melanie thế kia và Melanie nói như vậy và như vậy và như vậy. Trước đây, cháu có thể nói chuyện với Jenny về những điều quan trọng, những điều có ý nghĩa, nhưng bây giờ thì chỉ toàn trang điểm, quần áo và những thứ vớ vẩn như thế. Bạn ấy thậm chí không dám nói với Melanie rằng bạn ấy sẽ gặp cháu, bởi vì rõ ràng Melanie nghĩ cháu là loại mọt sách hay gì đó.”

Giờ cậu bứt cỏ nhanh hơn, và một khoảnh đất nhỏ trống trơ đã xuất hiện ngay trước mặt cậu, càng lúc càng to hơn sau mỗi chùm cỏ mà cậu nhổ lên. Mùi thức ăn thơm lừng trên vỉ nướng bay lởn vởn phía trên họ, thổi vào lỗ mũi họ. Nó khiến dạ dày Patrik gầm lên.

“Bọn con gái đều thế cả. Rồi sẽ hết thôi, chú hứa đấy. Rồi họ sẽ lại là những người bình thường.” Patrik mỉm cười, nhưng rồi trở nên nghiêm túc. “Nhưng ý cháu là gì, đó là lỗi của cháu? Cháu có biết bạn ấy đang ở đâu không? Bởi vì nếu có, thì cháu nên biết rằng bố mẹ bạn ấy đang rất lo lắng…”

Per xua tay một cách thô bạo.

“Cháu không biết bạn ấy ở đâu, cháu chỉ biết rằng có chuyện gì xấu chắc chắn đã xảy ra với bạn ấy. Bạn ấy sẽ không bao giờ bỏ đi như thế này. Và khi bạn ấy đi nhờ xe…”

“Nhờ xe? Đi đâu? Bạn ấy đi nhờ xe khi nào?”

“Đó là lý do tại sao tất cả là lỗi của cháu.” Per tỏ ra kiên nhẫn quá mức khi nói với Patrik, như thể anh là một đứa trẻ. Cậu tiếp tục, “Cháu cãi nhau với bạn ấy ở trạm xe buýt khi bạn ấy định đi gặp Melanie. Cháu đã rất tức giận vì Jenny dường như nghĩ rằng chỉ chơi được với cháu chừng nào con bé Melanie chết tiệt đó không biết chuyện. Cháu tóm lấy Jenny khi bạn ấy bỏ đi và bắt đầu quát bạn ấy. Bạn ấy có vẻ không vui nhưng cũng không tranh cãi. Bạn ấy chỉ đứng đó và chịu trận. Một lát sau bạn ấy nói rằng bây giờ bạn ấy đã lỡ xe buýt và bạn phải đi nhờ xe vào Fjällbacka. Rồi bạn ấy bỏ đi.”

Per rời mắt khỏi khoảnh đất trụi lủi và ngẩng lên nhìn Patrik. Môi dưới cậu run rẩy, và Patrik có thể thấy rằng cậu đang luống cuống chống đỡ để tránh oà khóc bẽ bàng giữa đám người cắm trại khác.

“Nên đó là lý do tại sao lại là lỗi của cháu. Nếu cháu khống gây sự với bạn ấy về một chuyện mà giờ đây xem ra hoàn toàn vô nghĩa, thì bạn ấy đã bắt được cái xe buýt đó và tất cả những chuyện này sẽ không bao giờ xảy ra. Bạn ấy đã xin quá giang xe của một thằng bệnh hoạn nào đó và tất cả là lỗi của cháu.”

Giọng cậu đã tăng lên một quãng tám và trở nên the thé. Patrik chỉ biết liên tục lắc đầu.

“Đó không phải là lỗi của cháu. Và chúng ta thậm chí vẫn không biết chuyện gì đã xảy ra với bạn ấy cơ mà. Đó là những gì bọn chú đang cố gắng để tìm ra. Ai biết được, bạn ấy có thể xuất hiện ở đây bất cứ lúc nào. Có lẽ bạn ấy chỉ đùa nhây chút thôi.”

Giọng anh dỗ dành, nhưng tự Patrik cũng nhận thấy nó nghe mới giả dối làm sao. Anh biết rằng những âu lo anh nhìn thấy trong đôi mắt cậu bé cũng hiển hiện trong mắt anh. Cách đó chỉ vài trăm mét, nhà Möller đang ngồi trong xe, chờ đợi con gái họ. Cõi lòng Patrik lạnh ngắt trước ý nghĩ rằng Per đã đúng, và rằng họ có thể đang chờ đợi trong vô vọng. Kẻ nào đó đã cho Jenny đi nhờ xe. Kẻ nào đó không hề có thiện ý.

Khi Jacob và Marita đi làm còn bọn trẻ đã đi học, Linda chờ Stefan. Đây là lần đầu tiên họ gặp nhau trong ngôi nhà ở Västergärden, thay vì trong vựa cỏ khô ở nhà kho, và Linda nghĩ rằng chuyện đó thật thú vị. Ý nghĩ lén lút gặp nhau ngay dưới mái nhà của anh trai đã thêm một chút gia vị cho cuộc hẹn hò. Mãi đến lúc nhìn thấy vẻ mặt của Stefan lúc gã bước vào cửa thì cô mới nhận ra rằng đối với gã, việc trở về ngôi nhà này làm dấy lên những cảm xúc hoàn toàn khác.

Gã chưa trở lại đây kể từ lúc họ phải rời Västergärden ngay sau khi Johannes chết. Với những bước chân do dự, Stefan đi loanh quanh, đầu tiên là trong phòng khách, rồi nhà bếp, và cả phòng tắm. Gã dường như muốn nắm bắt từng chi tiết. Nhiều thứ đã thay đổi. Jacob đã làm lại đồ gỗ và sơn lại tường. Ngôi nhà trông không còn giống những gì Stefan vẫn nhớ. Linda theo sát phía sau.

“Hồi anh ở đây cũng lâu rồi nhỉ.”

Stefan gật đầu và lướt tay dọc theo mặt lò sưởi trong phòng khách.

“Hai mươi tư năm. Khi bọn anh đi khỏi đây, anh mới năm tuổi. Anh ta sang sửa nhiều quá.”

“Vâng, với Jacob thì tất cả mọi thứ luôn phải đẹp đẽ. Anh ta luôn đóng đồ mộc và sửa chữa các thứ. Tất cả đều phải hoàn hảo.”

Stefan không trả lời. Dường như gã đang ở một thế giới khác. Linda bắt đầu hối tiếc vì đã mời gã vào nhà. Tất cả những gì cô nghĩ đến là nô đùa vô tư trên giường, chứ không phải một hành trình qua những kỷ niệm ấu thơ buồn thảm của Stefan. Cô không muốn nghĩ về khía cạnh đó của gã, cái phần cảm xúc và trải nghiệm không hề có cô. Gã đã rất say mê cô, gần như là tôn thờ. Thứ cô muốn ở gã là sự khẳng định đó, chứ không phải hình ảnh người đàn ông buồn bã, lo âu giờ đang đi quanh nhà.

Cô kéo tay áo gã và gã như chợt tỉnh cơn mê.

“Sao mình không lên gác nhỉ? Phòng em ở tầng áp mái.”

Stefan máy móc đi theo cô lên cầu thang dốc. Họ đi qua tầng hai, nhưng khi Linda bắt đầu leo cầu thang lên gác mái, bước chân Stefan trở nên miễn cưỡng. Gã và Robert từng ở trên đây, và phòng ngủ của bố mẹ họ cũng ở đây.

“Chờ một phút, anh sẽ đến ngay. Anh chỉ cần kiểm tra một thứ thôi.”

Gã không chú ý đến lời phản đối của Linda, mà run rẩy mở cánh cửa đầu tiên trong hành lang ra. Bên trong là phòng của gã hồi nhỏ. Nó vẫn là phòng dành cho một cậu bé, nhưng bây giờ nó thuộc về William, đồ chơi và quần áo của cậu vương vãi khắp nơi. Gã ngồi xuống trên chiếc giường nhỏ và trong tâm trí gã nhìn thấy căn phòng như hồi gã còn ở đó. Một lúc sau, gã đứng dậy và đi vào phòng kế bên, nơi từng là của Robert. Nó thay đổi nhiều hơn phòng cũ của gã. Giờ nó rõ ràng là phòng của một bé gái, được sơn màu hồng với vải tuyn và nhũ vàng là lối trang trí chủ đạo. Gã rời đi gần như ngay lập tức. Thay vào đó, gã bị hút như nam châm đến căn phòng ở cuối hành lang. Hồi trước nhiều đêm gã đã trườn dưới chiếc thảm mà mẹ gã trải ngoài hành lang, hướng tới cánh cửa màu trắng, gã cẩn thận mở ra, rồi bò vào giường bố mẹ. Ở đó, gã có thể ngủ an lành, không có ác mộng và những con quái vật dưới gầm giường. Gã thích nhất là được cuộn tròn bên cạnh bố khi ngủ. Gã thấy rằng Jacob và Marita đã giữ lại chiếc giường lớn cổ – phòng này ít bị thay đổi nhất.

Cảm thấy những giọt nước mắt cay sè trên mi, gã chớp mắt để ngăn chúng tràn ra trước khi gã quay lại đối mặt với Linda. Gã không muốn tỏ ra quá yếu đuối trước mặt cô.

“Anh nhìn xong chưa? Ở đây chẳng có gì để ăn cắp đâu, nếu đó là những gì anh nghĩ.”

Giọng cô có cái vẻ ác nghiệt mà gã chưa từng nghe thấy trước đây. Giận dữ cháy bừng lên trong gã như một tia lửa. Và tia lửa được nhen thêm bởi ý nghĩ rằng mọi chuyện đáng lẽ đã xảy ra như thế nào. Stefan túm chặt lấy cánh tay Linda.

“Em đang nói cái quái gì vậy? Em nghĩ rằng anh đang kiểm tra xem liệu có gì ăn cắp được không à? Em chắc bị điên rồi. Anh đã sống ở đây rất lâu trước khi anh trai em chuyển đến, và nếu không vì thằng bố khốn kiếp của em, thì bọn anh vẫn sở hữu căn nhà này. Nên câm mõm lại đi.”

Trong một giây Linda không nói nên lời với cú sốc trước sự thay đổi trong Stefan, gã vốn luôn rất nhẹ nhàng. Rồi cô vùng ra và gầm gừ, “Anh biết đấy, không phải là lỗi của bố em khi bố anh cờ bạc và phung phí hết sạch tiền. Và dù bố em đã làm gì, thì ông ấy cũng không thể ngăn được việc bố anh hèn nhát đến mức tự sát. Ông ta mới là người đã lựa chọn bỏ rơi anh, và anh không thể đổ lỗi cho bố em vì điều đó.”

Cơn thịnh nộ đã tạo nên những điểm mù trong tầm nhìn của Stefan. Gã siết chặt nắm đấm. Linda trông quá nhỏ bé và mỏng manh đến nỗi gã tự hỏi liệu gã có thể bẻ cô gãy làm đôi, nhưng gã buộc mình phải thở những hơi sâu và bình tĩnh lại. Bằng giọng khò khè kỳ lạ gã nói, “Có rất nhiều điều mà anh có thể đổ lỗi và sẽ đổ lỗi cho Gabriel. Bố em đã phá hủy cuộc sống của bọn anh chỉ vì đố kỵ. Mẹ anh kể cho anh nghe rồi. Mẹ nói rằng tất cả mọi người đều thích bố anh, họ nghĩ Gabriel chẳng là gì ngoài một thằng cha bẳn tính khô khan, và ông ta không thể chịu đựng nổi. Nhưng hôm qua mẹ đã đến trang trại và nói cho ông ta biết sự thật đó. Thật tiếc là bà đã không cho ông ta một trận đòn luôn, nhưng anh cho rằng bà không thèm đụng đến ông ta.”

Linda cười khinh bỉ. “Đã có một thời bà ta dường như không ngại đụng chạm ông ấy đâu. Thật kinh tởm khi nghĩ đến việc bố em cặp với bà mẹ bẩn thỉu của anh, nhưng mà chuyện là vậy đó, ít nhất cho đến khi bà ta phát hiện ra rằng hình như moi tiền từ bố anh dễ dàng hơn từ bố em. Rồi bà ta thực sự đã làm thân với bố anh. Anh biết họ gọi người như thế là gì, phải không? Một con điếm!”

Một tia nước bọt nhỏ bắn vào mặt Stefan khi Linda, cao gần bằng gã, ném những lời này vào mặt gã.

Sợ rằng sẽ không thể kiềm chế được bản thân, Stefan từ từ lùi về phía cầu thang. Gã muốn đưa tay siết lấy cái cổ gầy gò của cô ta và bóp, chỉ để cho cô ta câm mồm, nhưng thay vì thế gã bỏ chạy.

Bối rối vì tình hình đột nhiên chuyển biến xấu và tức giận vì không điều khiển được gã như cô vẫn tưởng, Linda rướn người qua lan can và độc địa hét lên sau lưng gã, “Cút đi cho khuất mắt, anh chỉ là một thằng thảm hại. Anh chỉ được có mỗi một trò thôi. Mà trò đó anh còn chẳng giỏi cho lắm.”

Cô giơ ngón tay thối lên, nhưng gã đã trên đường đi ra cửa trước và không nhìn thấy nó.

Linda sụp xuống. Tâm trạng thiếu nữ vốn nhanh chóng thay đổi, chưa gì cô đã hối tiếc về những gì mình vừa nói. Chỉ là cô tức giận quá thôi.

Martin vừa cúp máy sau khi nói chuyện với Patrik thì có fax từ Đức đến. Cái tin rằng Jenny có thể đã được một người lạ cho đi nhờ xe chẳng làm cho tình hình khá hơn. Bất cứ ai cũng có thể cho cô bé đi nhờ – điều tốt nhất họ có thể làm bây giờ là dựa vào nghìn mắt nghìn tai của thiên hạ. Cánh báo chí đã gọi điện cho Mellberg như điên. Với việc phủ sóng tin tức như họ mong đợi, Martin hy vọng rằng có ai đó nhìn thấy Jenny bước vào một chiếc xe bên ngoài khu cắm trại sẽ gọi điện đến. Anh hy vọng họ có thể sàng lọc được thông tin thực từ cuộc tấn công của những cuộc gọi phiền toái – đến từ những kẻ tâm thần bất ổn hoặc những kẻ lợi dụng cơ hội muốn gây rắc rối cho kẻ mà họ không thích.

Annika mang một tờ fax vào, nó rất ngắn gọn và súc tích. Anh đọc vấp váp qua vài câu, hiểu ra rằng họ đang tìm kiếm người chồng cũ của Tanja, thân nhân gần gũi nhất. Martin ngạc nhiên thấy một cô gái trẻ như vậy mà đã ly dị, nhưng sự thực ở đó trên giấy trắng mực đen. Sau một hồi do dự và một cuộc hội ý nhanh với Patrik qua điện thoại di động, anh bấm số của văn phòng du lịch Fjällbacka. Anh không giấu được nụ cười khi nghe giọng Pia trên đường dây.

“Xin chào, tôi là Martin Molin.” Một giây im lặng dường như quá dài. “Là cảnh sát ở Tanumshede.” Điều làm anh khó chịu là anh phải giải thích mình là ai. Nếu có bất kỳ ai hỏi, anh còn có thể nói ngay cho họ cỡ giày của cô.

“Ô vâng, xin chào, thứ lỗi cho tôi. Tôi chẳng làm sao nhớ được tên người ta, nhưng giỏi nhớ mặt hơn. Một điều tốt, trong công việc này.” Cô cười. “Tôi có thể giúp gì cho anh đây?”

Mình nên bắt đầu từ đâu? Martin nghĩ, nhưng rồi tự nhắc mình nhớ lý do gọi điện và bình tĩnh lại.

“Tôi phải gọi một cuộc điện thoại quan trọng đến Đức nhưng với trình độ tiếng Đức lởm khởm của tôi thì tôi không dám thử. Cô có thể nghe ở đường dây thứ ba và phiên dịch cho tôi không?”

“Được chứ,” cô trả lời ngay lập tức. “Tôi chỉ cần nhờ đồng nghiệp trông hộ cửa hàng trong lúc tôi đi.”

Anh nghe thấy cô nói chuyện với người nào đó ở phía sau, rồi giọng nói của cô lại cất lên trên đường dây.

“Được rồi, tôi đã sẵn sàng. Việc này làm thế nào đây? Anh sẽ gọi cho tôi, hay là sao?”

“Vâng, tôi nối máy cho cô, rồi chỉ cần chờ điện thoại cho đến khi tôi gọi lại sau vài phút.”

Chính xác bốn phút sau, anh đã có cả chồng cũ của Tanja là Peter Schmidt và Pia trên đường dây cùng một lúc. Anh thận trọng bắt đầu bằng cách đưa ra lời chia buồn và nói rằng anh rất tiếc phải gọi đến vì tình huống bất hạnh như vậy. Cảnh sát Đức đã thông báo cho Peter về cái chết của người vợ cũ, nên Martin không phải báo tin cho anh ta, nhưng cũng cảm thấy không thoải mái vì đã gọi điện ngay sau khi anh ta được thông báo. Đây là một trong những khía cạnh khó khăn nhát trong công việc của Martin, ơn Chúa, điều này cũng hiếm khi xảy ra trong công việc cảnh sát thường ngày của anh.

“Anh có biết gì nhiều về chuyến đi đến Thụy Điển của Tanja không?”

Pia dịch trôi chảy câu hỏi sang tiếng Đức, rồi dịch câu trả lời của Peter sang tiếng Thụy Điển.

“Chẳng biết gì hết. Thật không may, chúng tôi không chia tay như những người bạn, nên sau khi ly hôn, chúng tôi hầu như không nói chuyện với nhau nữa. Khi chúng tôi còn ở bên nhau, cô ấy chưa bao giờ nói rằng muốn đi du lịch Thụy Điển. Cô ấy thích những kỳ nghỉ đầy nắng ở miền Nam, Tây Ban Nha hay Hy Lạp hơn. Tôi nghĩ rằng cô ấy coi Thụy Điển là một nước quá lạnh để tới tham quan.”

Lạnh, Martin mỉa mai nghĩ, nhìn ra ngoài cửa sổ thấy hơi nóng bốc lên từ mặt đường. Được rồi, và có cả những con gấu Bắc Cực đi trên phố… Anh tiếp tục hỏi.

“Thế cô ấy không bao giờ kể rằng cô ấy có công việc gì đó cần phải làm tại Thụy Điển à, hay là có bất kỳ mối liên hệ nào khác ở đây? Không nói gì về một nơi tên là Fjällbacka?”

Peter lại một lần nữa trả lời là không, và Martin không thể nghĩ ra bất cứ điều gì khác để hỏi. Anh vẫn không hiểu lời Tanja nói với bạn đồng hành về mục đích của chuyến đi này. Câu hỏi cuối cùng nảy ra ngay khi anh định cảm ơn Peter và chào tạm biệt.

“Chúng tôi có thể hỏi ai nữa không? Người thân duy nhất mà cảnh sát Đức đã báo cho chúng tôi là anh, nhưng chắc cô ấy có người bạn gái nào chứ?”

“Anh nên gọi cho bố cô ấy thì hơn. Ông ấy đang sống ở Áo. Đó có thể là lý do tại sao trong hồ sơ cảnh sát không có ông ấy. Chờ một phút, tôi sẽ lấy số điện thoại của ông ấy.”

Martin nghe tiếng Peter đi ra xa và tiếng đồ đạc di chuyển. Một lúc sau, anh ta quay trở lại. Pia tiếp tục dịch, cố nói rõ ràng hơn khi đọc các con số.

“Tôi không chắc liệu ông ấy có thể nói với anh chuyện gì không. Hai năm trước, ngay sau khi chúng tôi ly dị, ông ấy và Tanja đã có một trận cãi nhau ra trò. Cô ấy không muốn cho tôi biết tại sao, nhưng tôi nghĩ họ đã không nói chuyện với nhau suốt một thời gian dài. Nhưng biết đâu đấy. Chào ông ấy hộ tôi nhé.”

Cuộc nói chuyện cũng không cung cấp thông tin gì nhiều, nhưng Martin vẫn cảm ơn anh ta vì đã giúp đỡ và hỏi liệu anh có thể gọi lại nếu có thêm những câu hỏi khác không.

Pia vẫn ở trên đường dây, đoán được ý anh, cô hỏi xem anh có muốn gọi điện cho bố của Tanja bây giờ không để cô có thể giúp phiên dịch.

Điện thoại cứ reo và reo, nhưng không có ai trả lời. Nhưng lưu ý của chồng cũ Tanja về một trận cãi nhau giữa Tanja và bố cô đã dấy lên sự tò mò của Martin. Ông bố và cô con gái cãi nhau về điều gì mà nghiêm trọng đến nỗi hoàn toàn cắt đứt liên lạc? Nó có liên hệ gì với chuyến đi của Tanja đến Fjällbacka và sự quan tâm của cô tới việc hai cô gái kia mất tích?

Đắm chìm trong suy nghĩ, Martin gần như quên rằng Pia vẫn còn trên đường dây. Anh vội vã cảm ơn cô đã giúp đỡ. Họ nhất trí rằng ngày hôm sau cô sẽ giúp anh gọi điện cho bố của Tanja thêm lần nữa.

Martin nhìn chằm chằm vào bức ảnh chụp Tanja trong nhà xác. Tanja tìm kiếm điều gì ở Fjällbacka, và cô ấy đã tìm thấy những gì?

Thận trọng bước lạch bạch, Erica đi dọc cầu phao tại bến đậu thuyền. Thật bất thường khi nhìn thấy những khoảng trống giữa các bến tàu vào thời điểm này trong năm. Thông thường, những chiếc thuyền buồm được buộc ở hàng hai hay thậm chí hàng ba. Nhưng vụ sát hại Tanja đã khiến đám đông trở nên thưa thớt hơn và kha khá thủy thủ đã đi tìm cảng khác. Erica thực sự hy vọng rằng Patrik và các đồng nghiệp của anh sẽ sớm giải quyết được vụ này, nếu không đây sẽ trở thành một mùa đông khó khăn đối với nhiều người kiếm sống bằng dịch vụ du lịch hè.

Anna và Gustav đã chọn cách bơi ngược dòng và ở lại Fjällbacka thêm vài ngày. Khi Erica nhìn thấy con thuyền, cô hiểu tại sao cô không thể thuyết phục họ ở lại nhà cô và Patrik. Nó đẹp tuyệt vời. Trắng đến lóa mắt với một boong tàu bằng gỗ, và đủ lớn để chứa ít nhất là hai gia đình nữa, nó lờ mờ hiện ra ở phía cuối bến.

Anna vui vẻ vẫy tay khi nhìn thấy Erica đang tiến đến rồi giúp cô lên thuyền. Erica có chút hụt hơi khi ngồi xuống, và Anna vội vã mang lại cho cô một cốc to Coca lạnh.

“Bây giờ chắc chị oải và mệt lắm phải không, đến những ngày cuối rồi mà?”

Erica đảo mắt. “Chứ sao. Nhưng có lẽ gần đến ngày sinh thì như vậy cũng là tự nhiên thôi. Chỉ ước giá mà không nóng đến phát khiếp lên thế này.” Cô lau trán bằng một cái khăn giấy, nhưng ngay lập tức lại cảm thấy nhiều mồ hôi đang chảy xuống thái dương hơn.

“Khổ thân chị.” Anna cười thông cảm.

Gustav đi ra khỏi cabin và lịch sự chào Erica. Anh ta ăn mặc hoàn hảo không chê vào đâu được cũng như lần trước, và răng trắng sáng trên khuôn mặt rám nắng. Bằng giọng chê trách anh ta nói với Anna, “Bát đĩa ăn sáng vẫn còn trên bàn dưới boong đấy. Anh đã nói với em là anh muốn em ngăn nắp một chút trên tàu. Không thể khác được.”

“Ô, xin lỗi. Em sẽ dọn ngay lập tức.”

Nụ cười biến mất khỏi khuôn mặt của Anna, mắt cụp lại, cô vội vã xuống dưới. Gustav ngồi xuống bên cạnh Erica với một cốc bia lạnh trong tay.

“Không thể sống trên một chiếc thuyền nếu chị không giữ cho mọi thứ trật tự và gọn gàng. Đặc biệt là với trẻ con, nếu không thì mọi thứ lộn xộn lắm.”

Erica tự hỏi tại sao anh ta không tự đi mà dọn bát đĩa ăn sáng đi, nếu việc đó to tát đến vậy. Anh ta nhìn đâu có què quặt gì-

Không khí giữa họ có chút ngột ngạt. Erica thấy khoảng cách được tạo ra bởi khác biệt giữa xuất thân và dưỡng dục đã bắt đầu mở rộng. Cô thấy mình cần phải phá vỡ sự im lặng.

“Đây là một chiếc thuyền rất đáng yêu.”

“Vâng, đúng là tuyệt đẹp,” anh ta ngạo mạn đáp. “Tôi đã mượn nó từ một người bạn tốt, nhưng giờ tôi đang muốn đánh một quả và mua một chiếc tàu cho riêng mình.”

Lại im lặng. Erica thấy dễ chịu khi Anna trở lên và ngồi xuống cạnh Gustav. Cô đặt đồ uống của mình ở phía bên kia. Một cái cau mày khó chịu xuất hiện trên mặt Gustav.

“Em làm ơn đừng có đặt ly của em ở đó. Nó sẽ để lại một dấu tròn trên gỗ.”

“Xin lỗi,” Anna nói. Giọng cô nhỏ và có vẻ hối lỗi. Cô vội cầm ly lên.

“Emma.” Gustav chuyển sự chú ý của mình từ mẹ sang con gái. “Cháu không được chơi với cánh buồm, chú đã nói với cháu rồi. Tránh ra ngay.” Đứa con gái bốn tuổi của Anna cứ giả điếc và lờ đi. Gustav đang định đứng dậy thì Anna đã nhảy dựng lên.

“Để em bảo nó. Nó không nghe thấy anh mà.”

Con bé la hét tức giận khi bị nhấc bổng lên và mặt nó sưng sỉa khi Anna bế nó ra chỗ người lớn.

“Chú ngu lắm.” Emma nhắm một cú đá vào ống quyển Gustav và Erica cười thầm.

Gustav nắm lấy cánh tay Emma để mắng nó, và lần đầu tiên Erica nhìn thấy một tia lửa bừng cháy trong đôi mắt Anna. Cô gạt tay Gustav ra và kéo Emma lại gần.

“Đừng chạm vào nó!”

Anh ta vẫn giữ tay trên không. “Xin lỗi, nhưng các con em hư lắm. Phải có ai đó dạy cho chúng cách cư xử.”

“Các con em đều được nuôi dạy rất tốt, cảm ơn anh, và tự em cũng có thể dạy chúng cách cư xử. Nào bây giờ, mình đến Acke và mua ít kem đi.”

Cô ra hiệu cho Erica, Erica còn hơn cả vui khi được ở riêng cùng em gái và mấy đứa cháu trong một lúc, mà không có Quý Ngài Cáu Bẳn. Họ đẩy Adrian trong xe nôi còn Emma chạy đằng trước.

“Erica, chị có nghĩ là em đang quá nhạy cảm không? Anh ấy chỉ chạm vào tay con bé. Ý em là, em biết rằng Lucas khiến em bảo vệ bọn trẻ hơi thái quá…”

Erica khoác tay cô em gái. “Chị không nghĩ em thái quá đâu. Cá nhân chị nghĩ rằng con gái em có mắt nhìn người tuyệt vời, và em nên để con bé đá cho anh ta một cú ra trò vào ống quyển.”

Khuôn mặt Anna sa sầm. “Giờ em nghĩ chị mới là người đang thái quá đấy. Không tệ đến vậy đâu, em nghĩ thế. Nếu chị không quen với trẻ con, thì cũng chẳng có gì lạ nếu chị bị căng thẳng.”

Erica thở dài. Trong một khoảnh khắc, cô đã nghĩ rằng em gái cô sẽ thể hiện chút nghị lực và đòi hỏi cách đối xử mà con bé và các con xứng đáng, nhưng Lucas đã làm việc của mình rất tốt.

“Thế chuyện giành quyền nuôi con ra sao rồi?”

Đầu tiên Anna trông có vẻ như lại muốn phớt lờ câu hỏi một lần nữa, nhưng rồi cô thấp giọng trả lời, “Chẳng ra sao cả. Lucas đã quyết định dùng mọi thủ đoạn bẩn thỉu mà anh ta có thể, và chuyện em gặp gỡ Gustav thậm chí càng làm cho anh ta tức giận hơn.”

“Nhưng hắn chẳng có gì trong tay cả, phải vậy không? Ý chị là, làm sao hắn có thể nói rằng em là một bà mẹ tồi? Nếu ai đó có lý do phản đối quyền nuôi con của người kia, thì đó là em.”

“Chắc chắn rồi, nhưng hình như Lucas nghĩ rằng nếu anh ta dựng lên cả trăm thứ chuyện, thì kiểu gì cũng sẽ có người tin một hai câu.”

“Nhưng còn bản tố cáo hắn với cảnh sát, về tội ngược đãi trẻ em? Điều đó chẳng phải có giá trị hơn bất cứ thứ gì mà hắn dựng lên sao?”

Anna không trả lời, và một ý nghĩ khó chịu chợt nảy ra trong đầu Erica.

“Em chưa từng tố cáo hắn, phải không? Em nói dối chị là em đã tố cáo hắn, nhưng em không hề làm việc đó.”

Em gái cô tránh nhìn vào mắt cô.

“Nào, trả lời chị đi. Có đúng không? Chị nói có đúng không?”

Câu trả lời của Anna có vẻ cáu kỉnh. “Vâng, chị nói đúng, bà chị kính mến ạ. Nhưng xin đừng phán xét em. Chị đâu có ở trong hoàn cảnh của em, nên chị chẳng biết mọi chuyện thế nào đâu. Luôn sống trong sợ hãi trước những gì anh ta có thể làm. Nếu em tố cáo anh ta, anh ta sẽ săn đuổi em chừng nào em vẫn còn chạy được. Em đã hy vọng rằng anh ta sẽ để cho mẹ con em được yên nếu em không báo cảnh sát. Và lúc đầu hình như cũng có tác dụng, chị có nghĩ vậy không?”

“Được rồi, nhưng bây giờ nó không có tác dụng nữa. Chết tiệt, Anna, em phải học cách suy nghĩ xa hơn cái chóp mũi của em đi chứ.”

“Chị nói thì dễ lắm! Chị ngồi đây với sự bảo vệ mà ai cũng muốn, với người đàn ông tôn thờ chị và sẽ không bao giờ làm đau chị. Và bây giờ thì chị thậm chí còn có tiền trong ngân hàng sau cuốn sách về Alex. Chị nói nghe thì, con mẹ nó, dễ dàng lắm! Chị không biết một mình với hai đứa con và làm lụng quần quật để cho chúng cơm ăn áo mặc thì nó ra làm sao đâu. Mọi thứ luôn hết sức tốt đẹp đối với chị. Và đừng nghĩ rằng em không thấy cái cách chị khinh khỉnh nhìn Gustav. Chị nghĩ rằng chị biết nhiều lắm đấy, nhưng mà chị có biết cái mẹ gì đâu!”

Anna từ chối cho Erica một cơ hội để đáp lại cơn bộc phát của cô. Cô vội vàng đi về phía quảng trường với Adrian trong xe nôi và Emma dắt trong tay. Erica bị bỏ lại trên vỉa hè với những giọt nước mắt đang dâng lên trong cổ họng. Cô tự hỏi làm sao mà mọi chuyện lại thành ra như vậy. Cô không hề có ý xấu. Tất cả những gì cô muốn là làm sao cho Anna có được một cuộc sống xứng đáng.

Jacob hôn vào má mẹ và trang trọng bắt tay với bố. Mối quan hệ của họ luôn luôn như vậy. Xa cách và đúng mực hơn là ấm áp và nồng nhiệt. Thật kỳ cục khi xem bố mình như một người xa lạ, nhưng đó lại là lời mô tả thích hợp nhất. Chắc chắn anh từng nghe kể là bố đã trông anh ngày đêm tại bệnh viện cùng với mẹ anh, nhưng anh chỉ có ký ức mơ hồ về thời điểm đó. Nó không đưa họ lại gần nhau hơn. Thay vì vậy, anh lại gần gũi với Ephraim, người thường được coi như một người cha hơn là người ông. Kể từ khi Ephraim cứu sống anh bằng cách hiến tặng tủy, ông đã khoác lên vầng hào quang của một người hùng trong mắt Jacob.

“Hôm nay con không đi làm à?”

Mẹ anh có vẻ lo lắng như thường lệ khi bà ngồi bên cạnh anh trên xô-pha. Jacob tự hỏi rằng bà nghĩ hiểm họa nào đang lẩn quất quanh các góc quẹo. Cả đời bà cứ như thể đang đứng thăng bằng trên bờ vực thẳm.

“Con nghĩ hôm nay con sẽ đi muộn một chút. Rồi làm thêm buổi tối. Con nóng ruột muốn ghé qua xem bố mẹ thế nào. Con đã nghe chuyện những cứa sổ bị vỡ. Mẹ, tại sao mẹ không gọi cho con thay vì bố? Con có thể đến đây ngay lập tức.”

Laine mỉm cười âu yếm. “Mẹ không muốn làm phiền con. Để cho con phải lo ngại thì thật chẳng hay chút nào.”

Anh không trả lời, nhưng cười dịu dàng với mẹ.

Bà đặt tay mình lên tay anh. “Mẹ biết, mẹ biết, nhưng mẹ có cách của mẹ. Thật khó dạy cho con chó già những trò mới, con biết mà.”

“Mẹ không già, mẹ à, mẹ vẫn chỉ là một cô gái.”

Bà đỏ mặt sung sướng. Mấy câu đưa đẩy này là một trò chơi cũ của họ. Anh biết rằng bà rất thích nghe những nhận xét như vậy, và anh sẵn sàng chiều ý bà. Chẳng dễ dàng gì cho bà khi sống với bố anh suốt những năm qua, mà khen ngợi thì có vẻ không phải thế mạnh của Gabriel.

Gabriel khịt mũi sốt ruột trên chiếc ghế bành. Ông ta đứng dậy.

“Ừ, giờ thì cảnh sát đã nói chuyện với mấy đứa em họ vô dụng của con, nên cứ hy vọng rằng chúng sẽ im lặng được một thời gian.” Ông ta bắt đầu đi về phía vần phòng của mình. “Con có thời gian xem qua sổ sách một chút không?”

Jacob hôn tay mẹ, gật đầu, và đi theo bố. Cách đây vài năm Gabriel đã bắt đầu kéo con trai mình vào công việc của trang trại, và công tác huấn luyện vẫn còn đang tiếp diễn. Bố anh muốn đảm bảo rằng một ngày kia Jacob sẽ có đủ khả năng tiếp quản công việc từ tay ông ta. May thay, Jacob có tài năng thiên bẩm trong việc quản lý trang trại, và anh xử lý sổ sách cũng như các công việc tay chân đều xuất sắc.

Sau một hồi chụm đầu bên đống sổ sách, Jacob vươn vai nói: “Con nghĩ rằng con sẽ lên tầng và ghé thăm ông. Đã lâu rồi con chưa lên đó.”

“Hừm, cái gì? Ừ được, đi đi.” Gabriel vẫn chìm sâu trong thế giới của các con số.

Jacob đi lên tầng và bước chầm chậm về phía cửa dẫn đến cánh trái của dinh thự. Đó là nơi mà ông nội đã sống cho đến khi ông qua đời, và hồi nhỏ Jacob đã dành nhiều giờ đồng hồ trên đó.

Anh bước vào trong. Mọi thứ đều không hề bị động đến. Chính Jacob đã yêu cầu bố mẹ không di chuyển hoặc thay đổi bất cứ thứ gì ở cánh này, và họ đã tôn trọng mong muốn của anh, biết rõ mối liên kết đặc biệt đã gắn bó anh với Ephraim.

Căn phòng mang bằng chứng của sức mạnh. Kiểu trang trí nam tính và trầm lặng. Nó khác biệt rõ rệt với phần còn lại của dinh thự được trang trí tươi sáng, và Jacob luôn cảm thấy như mình đang bước vào một thế giới hoàn toàn khác.

Anh ngồi xuống cái ghế bành bằng da bên cửa sổ và gác chân lên trường kỷ. Khi còn bé, anh từng cuộn tròn trên sàn, dưới chân ông nội, như một chú chó con và cung kính lắng nghe ông kể chuyện những ngày xưa.

Những câu chuyện về các buổi lễ Phục sinh đã khiến anh thích thú. Ephraim đã mô tả rất chi tiết sự ngây ngất có thể nhìn thấy rõ trong mắt mọi người và họ đã tập trung hoàn toàn vào Nhà Thuyết Giáo cùng các con trai ông như thế nào. Ephraim có giọng nói như sấm rền, và Jacob chẳng chút nghi ngờ rằng chính nó đã khiến người ta say mê. Phần anh thích nhất trong những câu chuyện là khi ông nội kể về những điều kỳ diệu mà Gabriel và Johannes đã thực hiện. Mỗi ngày mang lại một phép lạ mới, và đối với Jacob điều này thật tuyệt diệu. Anh không bao giờ hiểu tại sao bố anh lại từ chối nói về giai đoạn này trong đời ông – thay vào đó, Gabriel còn có vẻ xấu hổ về nó. Hãy tưởng tượng về tài năng chữa lành: có thể điều trị cho những người đau ốm và chữa khỏi cho những người tàn tật. Nỗi buồn mà hai anh em đã cảm thấy khi tài năng biến mất. Theo Ephraim, qua một đêm nó biến mất. Gabriel chỉ nhún vai, nhưng Johannes thì tuyệt vọng. Chú ấy đã cầu nguyện với Thiên Chúa mỗi đêm hãy ban lại cho chú món quà ấy, và bất cứ khi nào nhìn thấy một con vật bị thương, chú đều chạy đến và cố gắng triệu hồi sức mạnh mình đã từng sở hữu.

Jacob không bao giờ hiểu tại sao Ephraim lại cười vui vẻ đến vậy khi ông kể về những ngày ấy. Đó hẳn là một nỗi buồn lớn với Johannes, và một người đàn ông đã gần gũi với Thiên Chúa như Nhà Thuyết Giáo chắc phải hiểu rõ. Nhưng Jacob yêu ông nội mình và không bao giờ cật vấn bất cứ điều gì ông kể, hay cách mà ông kể điều đó. Trong mắt anh, ông nội không thể sai lầm. Xét cho cùng, chính ông đã cứu mạng Jacob. Không phải bằng cách đặt tay lên, mà bằng cách hiến tủy cho Jacob và qua đó truyền sự sống vào anh một lần nữa. Vì thế, Jacob tôn thờ ông.

Nhưng trên hết là cái cách Ephraim luôn kết thúc câu chuyện của mình. Ông dừng đột ngột, nhìn sâu vào mắt đứa cháu trai, và nói, “Cả cháu nữa, Jacob, cháu cũng có những tài năng thiên bẩm bên trong. Ở đâu đó, sâu bên trong, nó đang đợi để được gọi ra.”

Jacob yêu những lời đó.

Anh chưa bao giờ thành công trong việc tìm kiếm sức mạnh ấy, nhưng ông nội đã nói rằng nó ở đó, với anh thế là đủ. Khi Jacob ốm liệt giường, anh đã cố gắng để nhắm mắt lại và gọi nó ra, để tự chữa cho mình, nhưng anh chỉ nhìn thấy bóng tối, chính là bóng tối bây giờ đang giữ anh trong một cái gọng sắt.

Có lẽ nếu ông sống lâu hơn thì anh đã tìm ra nó. Suy cho cùng thì ông đã dạy cho Gabriel và Johannes, vậy tại sao ông lại không thể dạy cho cháu trai của mình?

Tiếng một con chim the thé bên ngoài đã đánh thức Jacob khỏi những suy nghĩ ủ ê. Bóng tối trong anh một lần nữa lại trở thành dải băng siết lấy trái tim, và anh tự hỏi liệu nó có chặt đến nỗi khiến tim anh ngừng đập. Gần đây, bóng tối đến thường xuyên hơn và càng thít chặt hơn bao giờ hết.

Anh co chân lên và vòng tay quanh đầu gối. Giá như có Ephraim ở đây. Ông nội có thể đã giúp anh tìm thấy ánh sáng chữa lành.

“Đến giai đoạn này thì chúng tôi sẽ giả định rằng Jenny Möller đã không tự ý bỏ đi. Chúng tôi cũng muốn có sự hỗ trợ của công chúng, và chúng tôi yêu cầu bất kỳ ai đã nhìn thấy cô ấy hãy gọi cho chúng tôi, đặc biệt là bất kỳ ai nhìn thấy cô ấy ở trong hoặc gần một chiếc xe hơi. Theo thông tin chúng tôi có được, cô ấy đã xin đi nhờ xe đến Fjällbacka, và bất kỳ thông tin nào về cô ấy có liên quan tới sự việc đó cũng sẽ được quan tâm.”

Patrik nhìn vào mắt từng phóng viên một. Cùng lúc Annika phân phát những bức ảnh của Jenny Möller. Cô cũng lo liệu để cho tất cả các tờ báo đều nhận được một bản sao để đăng tin. Đây không phải là thông lệ, nhưng ở thời điểm này, họ cảm thấy họ có thể tận dụng báo chí.

Trước sự kinh ngạc của anh, chính Mellberg đã đề nghị anh tổ chức một cuộc họp báo khẩn. Còn Mellberg thì ngồi phía sau phòng hội nghị nhỏ ở đồn và quan sát Patrik đang đứng ở phía trước.

Một vài bàn tay giơ lên.

“Việc Jenny mất tích có bất kỳ mối liên quan nào với vụ giết hại Tanja Schmidt không? Và anh đã tìm thấy bằng chứng nào để kết nối vụ giết người gần đây nhất với cái chết của Mona Themblad và Siv Lantin chưa?”

Patrik hắng giọng. “Trước hết, chúng tôi vẫn chưa xác nhận được đó có phải là Siv hay không, nên tôi sẽ rất cảm kích nếu anh không viết về điều đó. Nếu không thì tôi cũng không muốn bình luận về những gì chưa thể kết luận, để không làm cản trở công tác điều tra.”

Các phóng viên thở dài khi lại bị ngăn trở một lần nữa bởi công tác điều tra, nhưng họ vẫn vẫy tay trên không để đặt câu hỏi.

“Các du khách đã bắt đầu rời khỏi Fjällbacka. Họ đã đúng khi lo lắng về sự an toàn của mình phải không?”

“Không có lý do gì để lo lắng cả. Chúng tôi đang nỗ lực để giải quyết vụ này, nhưng ngay bây giờ chúng tôi phải tập trung vào việc tìm kiếm Jenny Möller. Đó là tất cả những gì tôi có thể nói. Cảm ơn.”

Patrik rời phòng, bất chấp lời phản đối từ các phóng viên, nhưng qua khóe mắt anh thoáng thấy Mellberg vẫn ở phía sau. Anh chỉ hy vọng ông sếp đừng có nói gì ngu ngốc.

Anh đi vào văn phòng của Martin và ngồi xuống bên bàn.

“Chúa ơi, cứ như là thọc tay vào tổ ong bắp cày ấy.”

“Chắc chắn rồi, nhưng lần này có thể có tác dụng.”

“Ừ, ai đó có thể đã thấy Jenny vào trong một cái xe hơi, nếu cô bé ấy đã xin quá giang xe như cậu nhóc kia đã nói. Với tình hình giao thông ở Grebbestadsvägen thì sẽ thật ngạc nhiên nếu không có ai nhìn thấy gì hết.”

“Những điều kỳ lạ đã xảy ra,” Martin nói, thở dài một tiếng.

“Anh vẫn chưa liên lạc được với bố của Tanja sao?”

“Tôi đã thử gọi lại một lần. Chắc tôi sẽ đợi đến tối. Ông ta có thể đang đi làm.”

“Chắc vậy. Anh có biết liệu Gösta đã kiểm tra nhà tù chưa?”

“Rồi, thật khó tin là ông ta đã làm. Không có gì cả. Không có tù nhân nào bị giam trong suốt thời gian đó cho đến nay. Tôi cũng không cho rằng sẽ có kết quả. Ý tôi là, anh phải bắn vào nhà vua hay gì gì đó, và thậm chí anh vẫn được thả ra sau vài năm vì cải tạo tốt. Trên thực tế, sau đó có thể anh chỉ bị quản chế vài tuần.” Anh quăng cây bút lên bàn trong cơn kích động.

“Này, đừng quá hoài nghi vậy chứ. Anh còn quá trẻ cho chuyện đó. Sau mười năm làm việc anh mới được phép bắt đầu cảm thấy cay đắng, nhưng cho đến lúc đó anh hãy cứ ngây thơ và đặt niềm tin vào chế độ đi.”

“Được rồi, ông già.” Martin vờ ẻo lả cúi chào và Patrik đứng dậy, cười to.

“Nhân tiện,” Patrik tiếp tục, “chúng ta không thể chắc chắn rằng sự mất tích của Jenny có bất cứ liên quan nào đến các vụ giết người ở Fjällbacka. Nên để cho chắc, hãy bảo Gösta kiểm tra xem có bất kỳ kẻ hiếp dâm hoặc tội phạm tình dục nào khác mới được ra tù không. Bảo ông ta kiểm tra chéo tất cả những kẻ đã có lần hiếp dâm, tấn công nghiêm trọng phụ nữ và kiểu như vậy, bất cứ kẻ nào đang hoạt động trong quận này.”

“Ý kiến hay, nhưng những kẻ ở bên ngoài cũng có thể dễ dàng đến đây như một du khách.”

“Đúng, nhưng chúng ta phải bắt đầu từ điểm nào đó, và điểm này thì cũng tốt như bất kỳ điểm nào khác.”

Annika thò đầu vào cửa. “Xin lỗi đã làm phiền các quý ông, nhưng bên pháp y đang gọi anh, Patrik. Tôi sẽ nối máy, hay anh nhận điện thoại trong văn phòng của anh?”

“Tôi sẽ nhận điện thoại trong văn phòng của tôi. Chờ tôi nửa phút.”

Anh ngồi xuống trong văn phòng của mình và chờ điện thoại đổ chuông. Tim anh đập nhanh hơn một chút. Đợi tin của bên pháp y cũng hơi giống ngóng chờ ông già Noel. Bạn không bao giờ biết được có những bất ngờ gì trong gói quà.

Mười phút sau, anh trở lại văn phòng của Martin, nhưng đứng ở ngưỡng cửa.

“Đã xác nhận được rằng Siv Lantin là bộ xương thứ hai, đúng như chúng ta nghĩ. Và phân tích chất đất cũng xong rồi. Chúng ta có thể thấy điều gì đó hữu ích.”

Martin ngả người trên ghế với vẻ quan tâm và khoanh tay lại.

“Được rồi, đừng có bắt tôi phải hồi hộp nữa. Họ đã tìm thấy những gì?”

“Trước hết, đất cũng chính là loại được tìm thấy trên cơ thể Tanja và trên tấm chăn cô ấy nằm cũng như trên các bộ xương. Nghĩa là đã có lúc họ nằm ở cùng một chỗ. Rồi Phòng Thí nghiệm Tội phạm đã phát hiện ra một loại phân bón trong đất chỉ được sử dụng trong nông nghiệp. Họ cũng tìm ra nó là loại gì và tên của nhà sản xuất. Nhưng hay nhất là – nó không bán lẻ, mà được mua trực tiếp từ nhà sản xuất. Nó cũng không phải là một trong những loại phổ biến trên thị trường. Vậy nếu anh có thể gọi cho họ và yêu cầu họ soạn ra danh sách các khách hàng đã mua hóa chất này, chúng ta cuối cùng cũng có thể có được gì đó. Đây là ghi chép về tên của phân bón và nhà sản xuất. Số điện thoại của họ có lẽ có ở sổ danh bạ.”

Martin phẩy tay một cách thô lỗ. “Tôi lo được. Tôi sẽ cho anh biết ngay sau khi tôi nhận được danh sách.”

“Tốt lắm.” Patrik giơ ngón cái lên với anh và đập nhẹ vào khung cửa.

“Nhân tiện…”

Patrik đã trên đường ra hành lang nhưng lại vòng lại khi nghe tiếng Martin.

“Sao thế?”

“Họ có nói gì về mẫu DNA họ tìm thấy không?”

“Họ vẫn đang tìm. Phòng Thí nghiệm Tội phạm đang phân tích, và hình như họ có nhiều hồ sơ lưu trữ quá. Thời điểm này trong năm thường có nhiều vụ cưỡng hiếp, anh biết mà.”

Martin chán nản gật đầu. Anh biết quá rõ đi chứ. Đó là một trong những lợi thế lớn của mùa đông kéo dài đến nửa năm. Rất nhiều kẻ hiếp dâm nghĩ rằng trời quá lạnh để mà tụt quần xuống, nhưng mùa hè thì chúng chẳng ngại gì.

Patrik ngân nga khe khẽ khi bước về văn phòng của mình. Cuối cùng họ cũng đã có một manh mối. Mặc dù không nhiều nhặn gì, nhưng ít nhất họ đã có cái gì đó cụ thể.

Ernst tự thết mình một cái bánh mì kẹp xúc xích với khoai tây nghiền trên quảng trường Fjällbacka. Ông ta ngồi xuống một trong những băng ghế nhìn ra biển và để mắt tới những con hải âu đang lượn quanh mình. Nếu có cơ hội thì