Chương 5 MÙA HÈ NĂM 1979
Có cảm giác như vài tháng đã trôi qua. Nhưng cô biết rằng không thể nào lâu như vậy được. Và mỗi giờ trong bóng tối ở dưới này cũng dài như cả một đời.
Có quá nhiều thời gian để suy nghĩ. Có quá nhiều thời gian để cảm thấy cơn đau đang xoắn lấy từng dây thần kinh. Thời gian để suy nghĩ về mọi thứ cô đã mất. Hoặc sẽ mất.
Giờ thì cô biết mình sẽ không bao giờ ra khỏi đây được. Không ai có thể thoát khỏi nỗi đau đớn như thế này. Và cô chưa bao giờ cảm thấy bàn tay nào mềm mại hơn bàn tay hắn. Chưa bao giờ có bàn tay nào vuốt ve cô với tình yêu thương như thế, và nó khiến cô thèm khát được đụng chạm nhiều hơn. Không phải kiểu đụng chạm ghê sợ hay đau đớn, mà là những tiếp xúc êm dịu sau đó. Nếu có từng được vuốt ve như vậy trước đây, thì cô cũng biết rằng mọi thứ giờ đây đã khác. Cảm giác khi hắn lướt bàn tay trên cơ thể cô thật thuần khiết, thật ngây thơ, nó đã đến được cái cốt lõi bên trong cô mà chưa ai trước đây có thể chạm tới.
Trong bóng tối, hắn đã trở thành tất cả của cô. Hắn không nói một lời, nhưng cô tưởng tượng giọng hắn nghe ra sao. Giống như một người bố, thật ấm áp. Nhưng khi cơn đau đến thì cô căm ghét hắn. Rồi cô muốn giết hắn. Giá như cô có thể.
Robert tìm thấy thằng em trong nhà kho. Chúng vốn hiểu nhau rất rõ, và hắn biết Stefan đi đâu mỗi khi thằng em lo lắng điều gì đó. Thấy không có ai ở nhà, hắn liền đi thẳng đến nhà kho, và ngay lập tức thấy thằng em ở đó, đang ngồi trên sàn, đầu gối co lên và hai tay ôm chặt lấy chân.
Hai người khác nhau đến nỗi Robert thấy khó mà tin rằng chúng là anh em. Bản thân hắn tự hào rằng mình không bao giờ dành lấy một phút trong đời để cân nhắc điều gì hay đắn đo đến hậu quả. Hắn chỉ làm vậy thôi, rồi để mọi sự ra sao thì ra. Cứ sống lâu đi rồi sẽ thấy – đó là phương châm của hắn, và hắn thấy không có lý do gì để lo lắng những điều mình không thể kiểm soát được. Cuộc sống xô đẩy người ta cách này hay cách khác, đơn giản đời là thế đấy.
Mặt khác thì Stefan lại lo nghĩ quá nhiều về tính thiện của chính nó. Trong thoáng chốc Robert cảm thấy nỗi hối tiếc nhói lên bởi thằng em trai đã chọn đi theo bước chân lệch lạc của hắn, nhưng có lẽ vậy là tốt nhất. Nếu không Stefan sẽ cảm thấy chán nản. Chúng là con trai của Johannes Hult, và dường như có một lời nguyền đã đặt lên trên cả cái gia đình chết tiệt này. Không có cơ hội nào cho chúng thành công dù chúng toan làm gì đi nữa, vậy tại sao còn phải cố?
Hắn sẽ không bao giờ thừa nhận điều này, dẫu có bị tra tấn, nhưng hắn yêu em trai mình hơn mọi thứ trên đời. Hắn đau đớn khi nhìn thấy bóng Stefan trong nhà kho tối tăm. Suy nghĩ của thằng em trai dường như quá xa xôi, và đôi khi Robert thoáng thấy ở gã vẻ buồn rầu. Một đám mây u sầu dường như đang che phủ tâm hồn Stefan, đẩy gã vào một chốn tối tăm, xấu xa đến nhiều tuần lễ. Robert đã không nhìn thấy chút dấu hiệu nào của nó trong suốt cả mùa hè, nhưng giờ hắn cảm thấy sự hiện diện của nó ngay khi bước qua cánh cửa.
“Stefan?”
Không có tiếng trả lời. Robert lặng lẽ bước sâu vào bóng tối. Hắn ngồi xuống bên cạnh và đặt tay lên vai em trai.
“Stefan, mày lại ngồi ở đây đấy à?”
Thằng em trai chỉ gật đầu. Khi Stefan quay mặt lại, Robert ngạc nhiên thấy thằng em mình đã khóc sưng cả mắt. Stefan không thường như vậy. Đột nhiên Robert cảm thấy bất an.
“Cái gì thế, Stefan? Có chuyện gì?”
“Bố.”
Phần còn lại của câu nói chìm trong tiếng nức nở, và Robert căng tai ra để nghe xem thằng em nói gì.
“Mày đang nói gì về bố thế hả, Stefan?”
Stefan hít thở sâu vài hơi để bình tĩnh lại rồi nói, “Giờ thì mọi người sẽ nhận ra là bố vô tội. Rằng bố không khiến cho mấy đứa con gái mất tích. Anh thấy không? Cuối cùng người ta sẽ biết rằng đó không phải là bố!”
“Mày đang nói sảng về cái gì thế?” Robert lắc lắc thằng em, nhưng cũng có thể cảm thấy trái tim mình vừa hụt mất một nhịp.
“Mẹ vào trong thị trấn và nghe nói rằng họ vừa tìm thấy một con bé bị giết, và cùng với nó thì họ cũng tìm thấy cả mấy đứa con gái đã mất tích kia. Anh thấy không? Giờ lại có một con bé bị giết. Vậy nên không ai có thể khẳng định rằng bố đã làm chuyện đó, phải không?”
Stefan cười phá lên. Gã có vẻ hơi kích động. Robert vẫn không hoàn toàn tiếp thu được những gì thằng em vừa nói. Kể từ khi tìm thấy bố mình trên sàn nhà kho với một cái thòng lọng tròng quanh cổ, hắn đã ước ao và mơ tưởng được nghe những lời mà Stefan vừa mới thốt ra.
“Mày không giỡn tao đấy chứ? Giỡn là ăn đủ đấy.”
Robert đã siết chặt nắm đấm, nhưng Stefan cứ cười như điên dại, và nước mắt chảy dài trên mặt gã. Robert giờ đã hiểu đó là những giọt nước mắt vui mừng. Stefan quay sang và ôm ghì lấy thằng anh đến mức hắn gần như không thở nổi. Khi Robert nhận ra rằng em trai mình nói thật, hắn cũng ôm thằng em thật chặt.
Cuối cùng bố họ cũng được minh oan. Cuối cùng thì họ, và cả mẹ họ nữa, cũng có thể ngẩng cao đầu mà không phải nghe những lời xì xào sau lưng và không phải thấy những ngón tay chỉ trỏ vào bọn họ khi người ta tưởng rằng họ không nhìn. Bây giờ tất cả những kẻ đó sẽ phải hối hận vì mọi thứ, bọn ngồi lê đôi mách đáng nguyền rủa. Suốt hai mươi tư năm qua thị trấn đã không tin gia đình họ, nhưng bây giờ tất cả sẽ phải cảm thấy xấu hổ.
“Mẹ đâu?”
Robert buông thằng em ra và nhìn dò hỏi. Stefan bắt đầu cười khùng khục không nén được. Gã vừa cười vừa lúng búng nói gì đó.
“Mày nói gì? Nín đi mà nói to lên nào. Tao hỏi mày là mẹ ở đâu.”
“Mẹ ở chỗ bác Gabriel.”
Mặt Robert sầm lại. “Mẹ làm cái quái gì ở chỗ thằng già khốn nạn đấy chứ?”
“Nói cho lão nghe sự thật, em nghĩ thế. Em chưa bao giờ thấy mẹ điên lên như khi mẹ về kể cho em những gì mẹ vừa nghe. Mẹ đã đi ngay đến trang trại để nói cho Gabriel một trận. Chắc lão cũng được một trận nhớ đời. Anh phải nhìn thấy mẹ cơ. Tóc dựng đứng lên và khói xì ra đằng tai.”
Hình ảnh mẹ họ với mái tóc dựng đứng và khói bốc ra từ hai tai cũng khiến cho Robert phải cười thầm. Hắn vẫn nhớ về bà như một cái bóng lóng ngóng, lầm bầm, nên thật khó để tưởng tượng bà như một nộ thần.
“Em thích được nhìn thấy vẻ mặt Gabriel khi mẹ xông vào. Và anh có thể tưởng tượng ra bác Laine không?”
Stefan bắt chước một cách chính xác vẻ lo lắng của bà ta khi bà ta vặn vẹo hai tay. Gã nói hùng hồn bằng cái giọng chói tai, “Nhưng thím Solveig, thiệt tình! Thím Solveig thân mến, thím không nên ăn nói như vậy!”
Cả hai anh em bò lăn ra cười.
“Anh có bao giờ nghĩ về bố không?” Stefan hỏi. Câu hỏi của gã khiến cả hai nghiêm túc trở lại, và Robert im lặng một lúc mới trả lời.
“Có, tất nhiên là có chứ. Mặc dù tao đã có một thời gian khổ sở cố nghĩ đến bất cứ điều gì khác trừ cái cảnh bố chết. Mày nên lấy làm mừng vì đã không phải nhìn thấy bố khi ấy. Còn mày thì thế nào, mày nghĩ sao về bố?”
“Lúc nào em cũng nghĩ đến bố hết. Nhưng có cảm giác đang xem một bộ phim ấy, anh hiểu ý em chứ. Em nhớ rằng bố đã luôn vui vẻ thế nào và bố hay đùa giỡn, nhảy múa, rồi tung em lên nữa. Nhưng em thấy tất cả mọi thứ từ một khoảng cách, giống như trong một bộ phim.”
“Tao hiểu ý mày.”
Họ nằm bên nhau nhìn chằm chằm lên trần trong khi mưa gõ liên hồi xuống mái tôn phía trên.
Stefan lặng lẽ nói, “Bố yêu chúng mình, phải không, Robert?” Robert cũng trả lời lặng lẽ như thế, “Chắc chắn rồi, Stefan, chắc chắn rồi.”
Nghe tiếng Patrik giũ ô trên bậc thềm, Erica bèn nhấc mình khỏi xô-pha ra đón anh ở cửa.
“Chào em?” anh ngạc nhiên vừa nói vừa nhìn xung quanh. Rõ ràng anh không hề ngờ mọi thứ lại yên tĩnh và im ắng thế này. Lẽ ra cô phải có chút khó chịu với anh vì anh đã không gọi cho cô cả ngày, nhưng cô quá vui mừng khi thấy anh về nhà nên chẳng bực bội gì nữa. Cô cũng biết rằng chỉ cần gọi một cuộc điện thoại là anh sẽ về, và cô chắc chắn anh đã nghĩ về cô cả nghìn lần mỗi ngày. Cô thấy cực kỳ yên tâm khi nghĩ về mối quan hệ của họ. Nó thật là dễ chịu.
“Conny và lũ cướp đâu rồi?” anh thì thầm, vẫn không chắc liệu họ đã đi hay chưa.
“Em đổ một bát mì ống và xúc xích lên đầu Britta, nên họ không muốn ở lại đây nữa. Khách khứa vô ơn thế đấy.”
Erica thấy khoái trá trước vẻ sửng sốt của Patrik.
“Em chỉ nổi nóng thôi mà. Anh phải đặt giới hạn ở đâu đó chứ. Có vẻ như chúng mình sẽ chẳng nhận được bất kỳ lời mời nào từ nhà ngoại cho đến thế kỷ sau, nhưng em không có gì phải hối hận cả. Còn anh?”
“Chúa ơi, không.” Anh đảo mắt. “Em thực sự làm vậy hả? Đổ một đĩa thức ăn lên đầu chị ta?”
“Thề có Chúa. Tất cả những gì em được dạy dỗ đã đi thẳng ra ngoài cửa sổ. Có lẽ em sẽ chẳng bao giờ được lên thiên đàng.”
“Ừm, em đã là thiên đàng rồi, nên em không cần phải…”
Anh cắn nhẹ vào cổ cô, đúng chỗ anh biết cô có máu buồn. Cô cười phá lên, đẩy anh ra.
“Anh sẽ tự pha cho mình một tách sô-cô-la nóng, rồi em phải kể anh nghe hết về Đại Chiến.” Patrik cầm tay dẫn cô vào bếp, giúp cô ngồi xuống ghế.
“Anh trông mệt mỏi quá,” cô nói. “Mọi chuyện sao rồi?”
Anh thở dài khi đổ một ít bột sô-cô-la vào xoong sữa.
“Ừ, vụ án đã rất ổn, nhưng giờ thì không thể nữa. May mà bên pháp y đã xong hiện trường vụ án trước khi trở trời. Nếu bọn anh phát hiện các thi thể vào hôm nay chứ không phải hôm kia, thì sẽ chẳng còn gì để mà tìm kiếm nữa. Mà cảm ơn thông tin em đã tìm cho anh nhé. Nó thực sự hữu ích.”
Anh ngồi xuống đối diện với cô trong khi chờ sô-cô-la nóng lên.
“Còn em sao rồi, em có khỏe không? Con ổn chứ?”
“Hai mẹ con đều khỏe. Ngôi sao bóng đá tí hơn của nhà mình vẫn tung hoành như thường, nhưng em đã có một ngày dễ chịu sau khi Conny và Britta rời đi. Đó là những gì em cần. Cuối cùng em cũng có thể thư giãn và đọc sách một lúc. Thế là từ nay chấm dứt những chuyến thăm của đám họ hàng rồ dại.”
“Tuyệt quá. Vậy anh không phải lo cho hai mẹ con nữa chứ?”
“Không, không phải lo tí nào hết.”
“Em có muốn anh ở nhà ngày mai không? Anh có thể làm chút việc ở nhà mà – ít nhất thì anh cũng được gần em.”
“Nghe yêu thế, nhưng thực sự thì em vẫn đang rất ổn mà. Em nghĩ điều quan trọng hơn là anh nên tập trung vào việc tìm kiếm kẻ sát nhân trước khi các dấu vết nguội đi. Chẳng mấy rồi em cũng sẽ yêu cầu anh phải có mặt bên em thôi.” Cô mỉm cười và vỗ vỗ nhẹ lên tay anh. Rồi cô tiếp tục, “Mà này, cũng bắt đầu có mầm mống bạo loạn rồi đấy. Hôm nay em đã nhận được vài cuộc gọi từ những người đang cố dò hỏi em xem cảnh sát đã biết được bao nhiêu. Đương nhiên em sẽ không nói gì, kể cả có biết đi chăng nữa, mà em thì có biết gì đâu.” Cô dừng lại lấy hơi. “Và các văn phòng du lịch không phải là nơi duy nhất bị người ta báo hủy vì không dám đi nữa. Nhiều tàu thuyền cũng đến đậu tại các cảng khác. Nên nếu anh chưa nghe ngành du lịch địa phương kêu ca gì, thì giờ anh chuẩn bị trước đi là vừa.”
Patrik gật đầu. Anh đã sợ rằng điều này sẽ xảy ra. Tình trạng kích động sẽ lan rộng và trở nên xấu đi cho đến khi họ bắt được kẻ nào đó để tống vào tù. Đối với một thị trấn sống bằng thương mại du lịch như Fjällbacka, những vụ giết người có nghĩa là thảm họa. Anh nhớ lại một mùa hè của vài năm trước, khi có một kẻ gây ra bốn vụ hiếp dâm trong tháng Bảy trước khi bị bắt. Công việc kinh doanh trong thị trấn bị thua lỗ, vì du khách bỏ đi nơi khác, đến các vùng lân cận như Grebbestad và Strömstad. Một vụ giết người sẽ tạo ra một tình thế còn tệ hại hơn. May mà xử lý chuyện ấy là việc của trưởng đồn. Anh thấy vui khi để cho Mellberg đối phó với những vấn đề này.
Patrik xoa xoa sống mũi. Anh có thể cảm thấy cơn đau đầu sắp tới. Anh định uống một viên thuốc giảm đau thì chợt nhớ ra mình chưa ăn gì cả ngày nay. Thức ăn là một trong những đặc ân mà anh cho phép mình được hưởng trong đời, và phần eo bắt đầu phình ra chứng minh cho điều này. Anh không thể nhớ lần cuối cùng anh bỏ vài bữa là khi nào, hay thậm chí là chỉ một bữa. Anh đã quá mệt để nấu ăn. Thay vào đó, anh làm vài cái bánh mì kẹp pho mát và trứng cá muối, nhúng vào sô-cô-la nóng. Như thường lệ Erica ném cho anh cái nhìn hơi chán ghét khi thấy sự kết hợp ẩm thực gớm guốc này, nhưng đối với Patrik thì nó đúng là cao lương mỹ vị. Sau khi ăn xong ba cái bánh mì, cơn đau đầu của anh chỉ còn là ký ức, và anh cảm thấy một luồng năng lượng mới.
“Em yêu, sao cuối tuần này mình không mời Dan và bạn gái anh ta nhỉ?” anh nói với Erica. “Mình có thể làm một tiệc nướng nho nhỏ.”
Erica cau mày và trông có vẻ không hứng thú.
“Nghe này, em chưa thực sự cho Maria cơ hội nào. Em đã gặp cô ấy mấy lần rồi nhỉ? Hai lần?”
“Được rồi, được rồi, em biết rồi. Nhưng mà cô ta đúng là chỉ như…” Cô lựa lấy một từ chính xác. “Một đứa con gái hai mươi mốt tuổi.”
“Ừ, cô ấy không thể khác được. Anh đồng ý là cô ấy có vẻ không hiểu sự đời, nhưng ai biết được, có thể là cô ấy chỉ nhút nhát vậy thôi? Và cũng đáng để nỗ lực vì Dan, ít nhất là thế. Ý anh là, xét cho cùng thì anh ta đã chọn cô ấy. Và sau khi ly hôn Pemilla thì thật tốt khi anh ta gặp được một người mới.”
“Thật ngạc nhiên, gần đây anh lại trở nên bao dung đến vậy đấy,” Erica ủ rũ nói, dù cô phải thừa nhận rằng anh đã ghi được một điểm. “Sao anh lại cao thượng thế?”
“Anh luôn cao thượng với những cô gái hai mươi mốt tuổi. Họ có những phẩm chất thật tốt đẹp.”
“Ơ, thế cơ à, tốt đẹp kiểu gì cơ?” Erica bật lại rồi mới nhận ra răng Patrik trêu mình. “À, đừng bận tâm. Có lẽ anh đúng. Dĩ nhiên mình nên mời Dan và cục cưng bé nhỏ của anh ta tới chơi.”
“Nghe em nói kìa.”
“Được rồi, được rồi, Dan và Maria. Em chắc là sẽ vui vẻ lắm đây. Em có thể lấy ngôi nhà búp bê cũ của Emma ra cho cô ta chơi trong lúc chúng mình ăn tối như người lớn.”
“Erica…”
“Được rồi, em không nói nữa. Chỉ là khó nhịn quá thôi. Cứ như có tật ấy.”
“Gái lứa mất nết. Lại đây để anh ôm nào, thay vì ngồi đó mà ủ mưu.”
Cô làm theo lời anh và họ cuộn tròn bên nhau trên xô-pha. Với Patrik, anh hoàn toàn có thể đối mặt với mặt tối của loài người là bởi anh đã đụng phải nó trong công việc. Anh nghĩ mình có thể góp một phần nhỏ để đảm bảo thế giới trở thành nơi an toàn hơn cho đứa bé giờ đang ấn bàn chân vào lòng bàn tay anh bên dưới lớp da bụng căng tròn của Erica. Bên ngoài cửa sổ, gió đã lặng, hoàng hôn buông xuống, và bầu trời chuyển màu từ xám sang hồng rực. Anh đoán rằng ngày mai trời sẽ nắng.
Linh cảm trời nắng của Patrik hóa ra lại đúng. Ngày hôm sau trời cứ như chưa mưa bao giờ vậy. Đến trưa, nhựa đường lại bốc hơi. Dù đã mặc quần soóc và áo phông, Martin vẫn đổ mồ hôi, nhưng vậy mới bắt đầu có cảm giác giống trạng thái bình thường. Trời mát mẻ hôm qua chỉ là một giấc mơ.
Martin thấy có chút bối rối về cách thức tiến hành công việc của mình. Patrik đang ở trong văn phòng của Mellberg, nên Martin vẫn chưa có cơ hội để trao đổi với anh. Martin có một vấn đề với những thông tin từ nước Đức. Cảnh sát Đức có thể gọi lại cho anh bất cứ lúc nào, và anh sợ rằng sẽ bỏ lỡ bất cứ điều gì họ nói, vì vốn tiếng Đức kém cỏi của mình. Vậy tốt nhất là nên tìm ai đó có thể giúp anh phiên dịch, trong một cuộc điện đàm ba chiều. Nhưng có ai để mà nhờ đây? Những phiên dịch viên Martin đã làm việc cùng trước đây chủ yếu nói những ngôn ngữ Baltic, tiếng Nga và Ba Lan, vì xe ăn cắp thường biến mất đến các nước ấy. Anh chưa bao giờ cần sự giúp đỡ về tiếng Đức trước đây. Anh lấy ra cuốn danh bạ điện thoại và lật giở ngẫu nhiên, không chắc mình đang tìm gì. Một tiêu đề đã cho anh ý tưởng sáng chói. Xét đến số lượng du khách Đức đổ về Fjällbacka hằng năm, các văn phòng du lịch Fjällbacka phải có người trong đội ngũ nhân viên thạo ngôn ngữ này. Anh hăm hở quay số của họ.
Một giọng nữ vui tươi, hoạt bát trả lời điện thoại. “Vàn phòng Du lịch Fjällbacka, chào buổi sáng, tôi là Pia.”
“Xin chào, tôi là Martin Molin ở đồn cảnh sát Tanumshede. Tôi muốn hỏi liệu ở chỗ cô có ai thạo tiếng Đức không?”
“Vâng, chắc là tôi rồi. Có chuyện gì vậy?”
Giọng cô càng lúc nghe càng lôi cuốn hơn, và Martin có một ý tưởng tuyệt vời.
“Tôi có thể đi xuống đó và trao đổi với cô được không? Cô có thời gian chứ?”
“Tất nhiên là được. Nửa giờ nữa tôi sẽ đi ăn trưa. Nếu anh có thể có mặt ở đây vào lúc đó, có lẽ chúng ta có thể gặp nhau và ăn trưa ở quán cà phê Bryggan.”
“Nghe được đấy. Tôi sẽ gặp cô ở đó trong vòng nửa giờ nữa.”
Hồ hởi, Martin gác điện thoại. Anh không chắc cơn ngu xuẩn nào vừa ập đến với anh, nhưng mà cô ấy có giọng nói dễ chịu quá thể.
Nửa giờ sau anh đậu xe bên ngoài cửa hàng đồ gia dụng và đi ngang quảng trường Ingrid Bergman qua những du khách mùa hè. Anh bắt đầu thấy chùn bước. Đây không phải là hẹn hò, đây là công việc của cảnh sát, anh tự nhắc nhở mình. Nhưng anh không thể phủ nhận rằng anh sẽ cực kỳ thất vọng nếu nhỡ đâu Pia tại phòng du lịch lại có răng thỏ và nặng một trăm cân.
Anh đi dọc theo cầu cảng đến chỗ những bàn cà phê và nhìn xung quanh. Tại một bàn gần hàng rào có một phụ nữ trẻ mặc áo blouse xanh và quàng chiếc khăn sặc sỡ với biểu tượng của văn phòng du lịch đang vẫy tay với anh. Anh thở phào nhẹ nhõm, ngay sau đó là cảm giác hân hoan rằng mình đã đoán đúng. Pia ngọt ngào như một miếng sô-cô-la. Đôi mắt nâu to tròn và mái tóc xoăn sẫm màu. Nụ cười tươi với hàm răng sáng bóng và lúm đồng tiền duyên dáng. Đây sẽ là một bữa trưa dễ chịu hơn nhiều so với việc ngồi xúc xa lát mì ống lạnh ngắt với Hedström trong phòng ăn tại đồn cảnh sát. Không phải là anh không thích Hedström, nhưng đồng nghiệp của anh chắc chắn không thể sánh được với trái đào này!
“Chào cô, tôi là Martin Molin.”
“Tôi là Pia Lofstedt.”
Sau khi giới thiệu xong, họ gọi món xúp cá từ cô phục vụ bàn tóc vàng cao ráo.
“Chúng ta gặp may đấy,” Pia nói. “Tuần này có ‘Cá Trích’.” Cô có thể thấy rằng Martin không hiểu cô đang nói về cái gì.
“Christian Hellberg. Đầu Bếp Của Năm hồi 2001. Ông ấy đến Fjällbacka. Anh sẽ thấy khi anh nếm thử xúp cá. Tuyệt cứ mèo.”
Cô có điệu bộ hăm hở trong khi nói, và Martin nhận thấy mình đang nhìn chằm chằm vào cô đầy say mê. Pia hoàn toàn không giống như các cô gái anh thường gặp, và đó là lý do tại sao anh cảm thấy vui đến vậy khi được ngồi đối diện với cô. Anh lại phải tự nhắc nhở mình rằng đây không phải là hẹn hò – đây là một bữa ăn trưa bàn công chuyện, và anh thực sự có chuyện cần bàn bạc.
“Tôi phải thừa nhận rằng không phải ngày nào cảnh sát cũng gọi cho chúng tôi. Tôi cho rằng đây là vì thi thể các anh tìm thấy trong Khe Vua, phải không?”
Câu hỏi được đặt ra như trình bày một sự thực, không phải là cố ra vẻ giật gân, và Martin gật đầu xác nhận.
“Vâng, đúng vậy. Chắc cô đã nghe nói, nạn nhân là một du khách Đức, và chúng tôi có thể cần được giúp đỡ về mặt phiên dịch. Cô nghĩ rằng cô có thể xử lý được không?”
“Tôi đã học hai năm ở Đức, nên không thành vấn đề.”
Xúp của họ được mang ra, và chỉ sau một thìa Martin đã sẵn sàng đồng ý với lời bình tuyệt cứ mèo của Pia. Anh cố hết sức để không húp sụp soạp, nhưng không nhịn được. Anh hy vọng rằng cô đã đọc Lại thằng nhóc Emit của Astrid Lindgren. Nếu không thế, thì làm sao người ta biết được đây là xúp ạ…
“Buồn cười thật…” Pia nói, rồi ngừng lại để ăn một thìa xúp. Một làn gió nhẹ thỉnh thoảng lướt qua bàn ăn, mang lại chút mát mẻ. Hai người xem con thuyền một cột buồm kiểu cũ đang phải vật lộn tiến lên với những cánh buồm đói gió. Gió không đủ mạnh để chơi thuyền, nên hầu hết các tàu thuyền đều đang chạy động cơ. Pia tiếp tục, “Cô gái người Đức đó… tên là Tanja, phải không nhỉ? Khoảng một tuần trước cô ấy đến văn phòng, muốn nhờ dịch mấy bài báo.”
Martin ngay lập tức chú ý. “Bài báo kiểu gì cơ?”
“Về những cô gái đã được tìm thấy với cô ấy. Những bài báo về sự mất tích của họ. Những bài báo cũ mà cô ấy đã photo, chắc là từ thư viện, tôi đoán vậy.”
Cái thìa kêu loảng xoảng khi anh đánh rơi nó vào bát bởi ngạc nhiên tột độ. “Tại sao cô ấy lại muốn nhờ đọc chúng?”
“Tôi thực sự không biết. Tôi cũng không hỏi cô ấy. Chúng tôi thực sự không phải làm những chuyện thế này trong giờ làm việc, nhưng đang lúc giữa trưa và tất cả các du khách đã ra bơi ở các đảo đá, nên yên tĩnh lắm. Mà hơn nữa, cô ấy có vẻ lo lắng đến nỗi tôi thấy thương.” Pia do dự. “Anh có nghĩ rằng nó có liên quan gì đến các vụ giết người không? Lẽ ra tôi nên gọi và nói cho anh về chuyện này từ trước mới phải…”
Cô có vẻ lo lắng, và Martin vội trấn an cô. Vì một vài lý do anh không muốn mạo hiểm gây ra cho Pia bất kỳ cảm giác khó chịu nào.
“Cô làm sao mà biết được rằng nó có quan trọng hay không,” anh nói. “Nhưng thật tốt là cô đã kể cho tôi nghe chuyện này.”
Họ ăn trưa và nói chuyện về những chủ đề dễ chịu hơn. Giờ ăn trưa của cô đã kết thúc quá sớm. Pia phải vội vàng quay lại quầy thông tin nhỏ xíu ở giữa quảng trường trước khi người đồng nghiệp của cô khó chịu vì bữa trưa của mình bị trì hoãn. Trước khi Martin kịp nhận ra thì cô đã biến mất, sau một lời tạm biệt quá vội vàng. Đã chực hỏi xem liệu họ có thể gặp lại nhau không, nhưng rồi anh lại không thể thốt ra được lời nào. Lẩm bẩm và chửi thề, anh bước đến bên chiếc xe của mình. Trên đường trở về Tanumshede suy nghĩ của anh mới miễn cưỡng quay sang những gì Pia đã nói với anh về việc Tanja nhờ giúp đỡ. Tại sao cô ấy quan tâm đến những cô gái kia? Cô ấy là ai? Mối liên hệ giữa Tanja, Siv và Mona là gì? Còn những gì mà anh chưa nhìn thấy nữa?
Cuộc sống tươi đẹp. Cuộc sống thật tươi đẹp. Anh không thể nhớ được rằng không khí sạch sẽ đến vậy, mùi hương thơm tho đến vậy hay là sắc màu lại tươi sáng đến vậy. Cuộc sống thật là tươi đẹp.
Mellberg nhìn Hedström đang ngồi đối diện mình. Một đồng nghiệp đẹp trai, và một cảnh sát tài năng. Trong những điều kiện trước đây thì có thể anh ta chưa bộc lộ được mình, nhưng giờ anh ta sắp có cơ hội rồi. Điều quan trọng là các đồng nghiệp của ông cảm thấy được đánh giá cao. Ông đã đọc ở đâu đó rằng một chỉ huy tốt nên vừa đấm vừa xoa. Trước đây có thể ông đấm hơi phóng tay. Rõ ràng là giờ ông mới phát hiện ra điều này, và ông dự định phải khắc phục tình hình.
“Việc điều tra thế nào rồi?” ông ta hỏi.
Hedström kể ra các điểm chính trong công việc mà họ đã làm được.
“Tuyệt vời, tuyệt vời,” Mellberg nói, gật đầu vui vẻ. “Hôm nay tôi đã nhận được vài cuộc gọi khó chịu. Người ta đang rất lo lắng, vụ này phải được giải quyết nhanh chóng để không tác động lâu dài lên ngành du lịch, như có người đã diễn tả rất khéo léo. Nhưng anh không cần phải lo lắng về chuyện đó, Hedström. Tôi lấy tư cách cá nhân đảm bảo với người ta rằng những cảnh sát ưu tú nhất của Sở đang làm việc ngày đêm để đưa thủ phạm vào sau song sắt. Nên anh chỉ cần tiếp tục làm việc hăng say như thường lệ còn tôi sẽ lo chăm sóc các vị tai to mặt lớn của thị trấn.”
Hedström nhìn ông sếp vẻ không hiểu.
Mellberg nhìn chằm chằm người đồng nghiệp và nở nụ cười tươi. Nếu Hedström biết được…
Cuộc trao đổi với Mellberg kéo dài hơn một giờ. Patrik tìm Martin trên đường trở về văn phòng của mình, nhưng Martin có vẻ không ở quanh đây. Nên Patrik đến cửa hàng Hedemyr và mua một chiếc bánh mì kẹp gói trong túi nhựa, rồi anh ngấu nghiến hết với một tách cà phê trong phòng ăn trưa. Ngay khi vừa ăn xong thì anh nghe thấy Martin đi ngoài hành lang. Anh ra hiệu cho Martin vào văn phòng mình.
Patrik bắt đầu nói, “Anh có nhận thấy Mellberg gần đây có gì đó buồn cười không?”
“Ngoại trừ việc ông ta không phàn nàn hay chỉ trích nữa, cười suốt ngày, giảm cân nhiều và mặc quần áo trông như thể thời trang của thập niên chín mươi? Thì không có gì cả.” Martin mỉm cười.
“Có gì đó đáng ngờ đây. Không phải là tôi đang phàn nàn đâu. Ông ta không can thiệp vào việc điều tra, và hôm nay ông ta khen tôi nhiều đến nỗi tôi phát ngượng. Nhưng có điều gì đó…” Patrik lắc đầu. Nhưng suy đoán của họ về Bertil Mellberg mới này sẽ phải để lại – có nhiều vấn đề cấp bách hơn cần thảo luận. Có những điều chỉ nên tận hưởng chứ chẳng cần đặt câu hỏi làm gì-
Martin kể cho anh về chuyến đi công cốc đến khu cắm trại và việc họ đã không có thêm điều gì hữu ích từ Liese. Rồi anh báo cáo về những gì Pia nói về Tanja, rằng cô ấy đã đến nhờ dịch một số bài báo về Mona và Siv. Tới đó Patrik lập tức tỏ ra phấn khởi.
“Tôi đã biết là phải có sự liên quan mà! Nhưng liên quan thế nào mới được?” anh nói, gãi gãi đầu.
“Thế hôm qua bố mẹ các cô gái đã cho anh biết gì?”
Patrik đã đặt hai tấm ảnh nhận được từ Albert và Gun lên bàn làm việc. Anh nhặt chúng lên và đưa cho Martin. Anh mô tả những cuộc gặp gỡ với bố của Mona và mẹ của Siv, không thể che giấu nỗi chán ghét của mình dành cho bà mẹ.
“Tuy nhiên, chắc hẳn là họ cũng nhẹ nhõm khi nghe tin các cô gái cuối cùng đã được tìm thấy. Thật là cực hình khi hết năm này qua năm khác mà không biết họ đang ở đâu. Người ta nói rằng những điều không chắc chắn là những điều tồi tệ nhất.”
“Ừ, giờ tôi hy vọng rằng Pedersen xác nhận rằng bộ xương thứ hai là Siv Lantin, nếu không thì chúng ta sẽ thực sự gặp khó khăn to đấy.”
‘Đúng vậy, nhưng nhiều khả năng rằng đó là xương của cô ấy. Vẫn chưa có kết quả phân tích đất được tìm thấy trên xương à?”
“Tiếc là chưa. Và tôi không rõ kết quả có cho chúng ta biết được thêm bao nhiêu không. Họ có thể đã bị chôn ở bất kỳ đâu. Kể cả chúng ta có xác định được loại đất, thì vẫn cứ như đang mò kim đáy bể.”
“Tôi trông mong nhất vào kết quả DNA. Ngay sau khi chúng ta có được nghi phạm nào, chúng ta sẽ biết ngay rằng có đúng người không bằng cách phân tích DNA của hắn và so sánh với những gì chúng ta có.”
“Chắc rồi, tất cả những gì chúng ta cần làm bây giờ là tìm ra được đúng người.”
Họ im lặng một lúc nghĩ về vụ án, cho đến khi Martin phá tan bầu không khí ảm đạm và đứng dậy.
“Ừm, chúng ta sẽ chẳng làm được gì cả nếu cứ ngồi đây thế này. Tốt hơn là tôi lại ra chỗ mỏ muối đây.”
Anh bỏ lại Patrik trầm tư bên bàn làm việc.
Tâm trạng trong bữa ăn tối rất căng thẳng. Cũng không có gì bất thường, từ hồi Linda chuyển đến, nhưng bây giờ không khí đặc sánh đến mức có thể cắt bằng dao. Anh trai cô vừa mới kể một cách ngắn gọn hết sức về chuyến thăm của Solveig với bố cô, nhưng anh ta không đặc biệt quan tâm đến việc thảo luận chủ đề này.
Linda không có ý định để điều đó ngăn cô lại. “Vậy cuối cùng thì không phải là chú Johannes đã giết các cô gái ấy. Chắc bố phải cảm thấy khủng khiếp lắm. Bố đã buộc tội em trai mình, mà chú ấy sau này lại hóa ra là vô tội.”
“Câm mồm – mày thì biết quái gì mà nói.”
Mọi người đều giật mình. Jacob hiếm khi, nếu không phải là không bao giờ, lên giọng. Ngay cả Linda cũng cảm thấy có chút sợ hãi trong một thoáng, nhưng cô nuốt nước bọt và tiếp tục. “Vậy tại sao bố lại nghĩ rằng đó là chú Johannes? Chưa có ai kể cho em nghe cả.”
Jacob do dự một lúc nhưng rồi nhận ra rằng sẽ không thể ngăn cô hỏi, nên anh quyết định kể cho cô – ít nhất là một phần câu chuyện.
“Bố nhìn thấy một trong số các cô gái kia ở trong xe của chú Johannes vào đêm cô ta biến mất.”
“Tại sao bố lại lái xe ra ngoài lúc nửa đêm?”
“Bố đã đến thăm anh ở bệnh viện và quyết định lái xe về nhà thay vì ở lại qua đêm.”
“Chỉ có vậy thôi à? Đó là lý do bố đã tố cáo chú Johannes với cảnh sát? Ý em là, phải có nhiều cách giải thích khác cho một sự việc như thế. Có lẽ chú ấy đã cho cô ta đi nhờ một đoạn đường.”
“Có thể. Mặc dù chú Johannes khai rằng mình thậm chí còn không hề gặp cô ta đêm đó. Chú ấy tuyên bố rằng mình đã ở nhà, nằm trên giường vào cái giờ đó.”
“Nhưng ông nội đã nói gì? Chẳng phải ông đã rất tức giận khi bố báo cảnh sát về chú Johannes?”
Linda đã hoàn toàn bị câu chuyện mê hoặc. Cô được sinh ra sau khi các cô gái đã mất tích và chưa bao giờ nghe ra đầu ra đuôi câu chuyện. Không ai muốn nói về những chuyện đã xảy ra, nên hầu hết những gì bây giờ Jacob đang kể đều hoàn toàn mới mẻ đối với cô.
Jacob khịt mũi. “Ông có tức giận không ấy à? Em nên tin là thế. Vào lúc đó thì ông đang ở bệnh viện, dốc hết sức lực để cứu lấy mạng sống của anh, nên ông rất giận bố khi bố lại có thể làm nên một chuyện như thế.”
Bọn trẻ đã bị đuổi ra khỏi phòng. Nếu không thì mắt chúng sẽ sáng lên khi nghe nói cụ của chúng đã cứu mạng bố chúng như thế nào. Chúng đã nghe chuyện này nhiều, rất nhiều lần mà vẫn không thấy chán.
Jacob nói tiếp, “Ông đã tức giận đến mức ông thậm chí còn định thay đổi di chúc của mình và cho chú Johannes là người thừa kế duy nhất, nhưng không kịp làm thì chú Johannes chết. Nếu chú ấy không chết, chúng ta có thể mới là những người phải sống trong căn lều gác rừng, thay vì thím Solveig và mấy thằng nhóc kia.”
“Nhưng tại sao mà bố lại nghĩ xấu về chú Johannes đến thế?”
“Hừm, anh thực sự không biết. Bố chưa bao giờ nói nhiều về đề tài này, nhưng ông nội đã kể cho bọn anh nghe rất nhiều chuyện có thể giải thích được điều đó. Bà nội đã qua đời ngay khi chú Johannes được sinh ra, và sau đó họ đã ở cùng ông nội khi ông lái xe đi xuôi dọc khắp bờ biển phía Tây để giảng đạo và hành lễ. Ông nội kể cho anh nghe là ông đã biết từ lâu rằng cả chú Johannes và bố đều có năng lực chữa bệnh, vì vậy mỗi buổi hành lễ đều kết thúc bằng việc họ chữa lành cho những người tàn tật và đau ốm trong số khán giả.”
“Bố đã làm vậy á? Ý em là việc chữa bệnh cho mọi người ấy? Thế giờ bố còn làm được nữa không?”
Linda há hốc miệng kinh ngạc. Cánh cửa dẫn đến một căn phòng hoàn toàn mới trong lịch sử gia đình cô đã được mở rộng. Cô hầu như không dám thở vì sợ rằng Jacob sẽ im lặng và không kể thêm nữa. Cô đã nghe nói rằng anh và ông nội đã luôn có một mối thân tình đặc biệt, đặc biệt là sau khi tủy xương của ông nội hóa ra lại hoàn toàn phù hợp để ghép cho Jacob, khi ấy bị bệnh bạch cầu. Nhưng Linda không biết rằng ông nội đã kể cho anh ta nhiều đến thế. Tất nhiên, cô cũng nghe nói rằng ông nội đã được gọi là Nhà Thuyết Giáo theo cách nói phổ biến. Cô cũng đã nghe xì xào rằng ông bằng cách nào đó đã lừa lấy được gia tài này, nhưng cô không bao giờ coi những câu chuyện về Ephraim là bất cứ điều gì khác ngoài những lời phóng đại. Linda còn quá nhỏ khi ông qua đời, dường như ông chỉ là một ông già nghiêm khắc trong những bức ảnh gia đình.
“Không, anh khó mà tin được rằng bố có thể.” Jacob mỉm cười trước ý nghĩ rằng bố mình lại là người chữa lành những kẻ ốm đau tàn tật. “Nhìn những mối quan tâm của bố thì có lẽ chưa từng xảy ra chuyện gì cả. Và theo ông nội thì cũng không hề bất thường nếu một người bị mất năng lực khi bắt đầu dậy thì. Sau này có thể lấy lại được khả năng ấy, nhưng không dễ dàng. Anh tin rằng cả bố Gabriel và chú Johannes đều đã mất nó khi họ đến tuổi trưởng thành. Anh nghĩ bố ghét chú Johannes vì họ quá khác nhau. Chú Johannes rất đẹp trai và có thể quyến rũ bất kỳ ai, nhưng chú ấy vô trách nhiệm trước mọi chuyện trên đời một cách không thể cứu chữa nổi. Cả chú ấy và bố đều nhận được một khoản tiền lớn khi ông nội còn sống, nhưng chỉ một năm sau chú Johannes đã tiêu pha hết sạch. Điều đó khiến ông nội tức giận, và ông đã thay đổi di chúc, để bố Gabriel là người thừa kế duy nhất thay vì chia đều tài sản thừa kế cho hai người. Nhưng như anh đã nói, nếu ông sống lâu hơn thì có thể ông lại đổi ý một lần nữa.”
“Nhưng phải có chuyện gì nữa chứ,” Linda nói. “Bố không thể ghét chú Johannes đến thế chỉ vì chú ấy đẹp trai hơn và quyến rũ hơn. Đó không phải là lý do để tố cáo em trai mình với cảnh sát, phải không?”
“Không, anh đoán giọt nước làm tràn ly là khi chú Johannes nẫng mất vợ chưa cưới của bố.”
“Cái gì? Bố định cưới Solveig á? Con bò cái béo núc đó?”
“Em chưa nhìn thấy những tấm ảnh chụp thím Solveig từ ngày xưa à? Thím ấy từng là một mỹ nhân thực sự, anh khẳng định với em, với lại thím ấy và bố đã đính hôn. Nhưng rồi một ngày, thím nói với bố rằng thím đã yêu chú Johannes và định cưới chú ấy. Anh nghĩ chuyện đó đã thực sự hủy hoại bố. Em biết bố ghét bất kỳ sự xáo trộn hay kịch tính nào trong cuộc sống của mình mà.”
“Ừ, chuyện đó hẳn phải làm bố điên đảo.”
Jacob đứng dậy khỏi bàn, như để báo hiệu rằng cuộc trò chuyện đã kết thúc. “Hừm, bí mật gia đình thế là đủ rồi. Nhưng vậy em cũng hiểu tại sao chuyện giữa bố và thím Solveig lại hơi căng thẳng rồi chứ.”
Linda cười khúc khích. “Em sẽ đổi bất cứ điều gì để được làm một con ruồi đậu trên tường vào lúc thím ấy xuất hiện để nhai đầu bố. Thật cứ như một gánh xiếc ấy.”
Ngay cả Jacob cũng thoáng mỉm cười. “Ừ, gọi là gánh xiếc có lẽ đúng đấy. Nhưng cố gắng mà kiềm chế sự hớn hở của em khi gặp bố, được không? Anh không nghĩ là bố thấy chuyện đó có gì buồn cười.”
“Được rồi, được rồi, em sẽ ngoan mà.”
Cô đặt đĩa của mình vào trong máy rửa bát, cảm ơn Marita vì bữa ăn, và đi lên phòng. Đây là lần đầu tiên sau một thời gian dài cô và Jacob cười đùa với nhau. Anh ta có thể thực sự dễ chịu nếu anh ta cố gắng, Linda nghĩ, khéo léo bỏ qua thực tế rằng trong những năm gần đây cô cũng chẳng hay cười.
Cô nhấc điện thoại lên và thử gọi cho Stefan. Cô ngạc nhiên nhận ra rằng cô thực sự quan tâm đến chuyện gã giờ đang cảm thấy thế nào.
Laine sợ bóng tối. Sợ chết khiếp. Dù đã trải qua bao nhiêu buổi tối ở trang trại mà không có Gabriel, bà vẫn không tài nào quen được. Trước đây, ít nhất thì bà còn có Linda ở nhà, và trước đó thì là Jacob, nhưng bây giờ bà hoàn toàn ở một mình, vẫn biết rằng Gabriel phải đi công tác rất nhiều, nhưng bà không thể không cảm thấy cay đắng. Đây không phải là cuộc sống mà bà đã từng mơ ước khi gả vào nhà giàu. Quan trọng không phải là tiền, mà chính cái cảm giác an toàn mới là thứ đã lôi cuốn bà. Cảm giác an toàn mà bà thấy trong bản chất dễ đoán của Gabriel và cảm giác an toàn khi bà biết rằng có tiền trong ngân hàng. Bà muốn sống một cuộc đời hoàn toàn khác với mẹ mình.
Khi còn bé, bà đã sống trong nỗi kinh hãi những cơn giận dữ vì say rượu của bố mình. Ông ta hành hạ cả gia đình và biến đàn con thành những kẻ luôn cảm thấy bất an, luôn khát khao tình yêu và sự dịu dàng. Trong số ba anh chị em, bà là người duy nhất còn sống. Anh trai và em gái của bà đã bị bóng tối bên trong khuất phục, một người thì nén nó lại, một người thì để lộ ra bên ngoài. Laine là người con thứ đã không làm cả hai việc đó. Bà chỉ bất an và yếu đuối mà thôi. Không đủ mạnh để đẩy nỗi bất an của mình vào bên trong hoặc ra bên ngoài – bà đành để mặc nó mưng mủ, từ năm này qua năm khác.
Điều này thể hiện rõ rệt nhất vào những buổi tối bà lang thang một mình qua những gian phòng yên tĩnh. Đó là khi bà nhớ lại rõ ràng hơi thở hôi hám, những trận đòn và những sờ mó lén lút mỗi đêm.
Khi kết hôn với Gabriel, bà đã thực sự tin rằng cuối cùng mình cũng tìm được chìa khóa để mở ra những nơi chốn tối tăm trong lòng. Nhưng bà không hề ngu ngốc. Bà biết mình chỉ là giải thưởng an ủi. Ông ổn định cuộc sống với bà là vì không thể có được người mà ông thực sự muốn. Nhưng cũng chẳng có gì khác biệt. Theo một cách nào đó thì vậy còn dễ dàng hơn. Không có cảm xúc nào có thể làm xáo động vẻ ngoài yên ả. Chỉ có sự nhàm chán dễ đoán của chuỗi ngày dài vô tận. Bà nghĩ rằng đó là tất cả những gì bà muốn.
Ba mươi lăm năm sau, bà biết rằng mình đã sai lầm đến thế nào. Không có gì tồi tệ hơn là kết hôn rồi mà vẫn còn cô độc. Đó là thú bà nhận được khi bà nói Tôi đồng ý ở nhà thờ Fjällbacka. Họ đã sống những cuộc đời song song. Trông nom trang trại, nuôi dạy con cái, và nói chuyện về gió và thời tiết khi chẳng còn gì khác để nói.
Bà cũng tự biết rằng có một người đàn ông khác bên trong Gabriel, ngoài con người mà ông trưng ra với thế giới mỗi ngày. Trong suốt những năm qua, bà đã quan sát ông, bí mật nghiên cứu ông, và dần dần bà đã biết rằng ông có thể là người như thế nào. Bà kinh ngạc khi thấy những khát khao bắt đầu thức dậy trong lòng. Đằng sau vẻ bề ngoài nhàm chán, lãnh đạm kia là một người đàn ông đầy đam mê, nhưng ông ta đã được chôn sâu đến nỗi bà thậm chí không nghĩ rằng ông ta còn nhận ra mình đang tồn tại. Bà đã nhìn thấy rất nhiều tức giận tích tụ, nhưng vẫn tin rằng cũng có nhiều yêu thương như vậy, giá mà bà có khả năng để dỗ nó ra.
Ngay cả khi Jacob ốm liệt giường họ cũng không thể đến gần được với nhau. Họ đã ngồi bên nhau, cùng với đứa con trai, cho rằng Jacob đang hấp hối, và họ vẫn không thể nào cho nhau được một chút an ủi. Bà thường xuyên có cảm giác rằng thực ra Gabriel không muốn có bà ở đó.
Tính khó gần của Gabriel có thể phần lớn là do ông bố. Ephraim Hult là một người đàn ông có thể gây ấn tượng mạnh mẽ, khiến cho tất cả mọi người gặp ông đều phải gia nhập một trong hai phe: bạn hoặc thù. Không ai là không quan trọng đối với Nhà Thuyết Giáo, nhưng Laine hiểu rằng lớn lên dưới cái bóng của một người đàn ông như vậy thì khó khăn đến dường nào. Các con trai của ông thì khác hoàn toàn. Cả đời Johannes cứ như một thằng bé lớn xác, dù chỉ là một đời ngắn ngủi. Hắn là người tôn thờ chủ nghĩa khoái lạc, lấy hết những gì hắn muốn và không bao giờ ngừng lại đủ lâu để nhận thấy sự hỗn loạn do hắn gây ra. Gabriel đã chọn chiều ngược lại. Laine đã thấy ông xấu hổ vì bố và thằng em Johannes đến thế nào, vì điệu bộ khoa trương của họ, khả năng tỏa sáng như ngọn hải đăng ở bất kỳ hoàn cảnh nào. Gabriel muốn náu mình đi để cho thế giới thấy rằng ông ta không có điểm gì giống bố. Gabriel phấn đấu để đạt được sự nể trọng, trật tự và công bằng hơn bất kỳ điều gì khác. Ông không bao giờ nói chuyện về thời thơ ấu và những năm rong ruổi cùng Ephraim và Johannes. Mặc dù vậy Laine cũng biết một chút về nó, và bà hiểu tầm quan trọng của việc chồng bà cố gắng che giấu một phần trong quá khứ của mình, cái phần đối nghịch với hình ảnh mà ông muốn phô bày với thế giới bên ngoài. Sự thực là Ephraim cứu mạng Jacob đã làm dấy lên những cảm xúc lẫn lộn trong Gabriel. Niềm vui khi tìm ra cách để chữa bệnh cho Jacob đã bị lu mờ bởi thực tế rằng bố ông, chứ không phải ông, mới là hiệp sĩ mặc áo giáp sáng ngời đến giải nguy. Ông sẵn lòng đánh đổi bất kỳ thứ gì để có cơ hội được là người hùng của con trai mình.
Dòng suy tưởng của Laine bị gián đoạn bởi một âm thanh từ bên ngoài. Bà liếc thấy một cái bóng, rồi hai cái, nhanh chóng luồn qua khu vườn. Nỗi kinh hoàng lại thâu tóm lấy bà. Bà đi tìm cái điện thoại không dây và cố trấn tĩnh lại cho đến lúc rốt cuộc cũng thấy nó ở chỗ bộ sạc. Với những ngón tay run rẩy, bà bấm số điện thoại di động của Gabriel. Có gì đó đập vào cửa sổ và bà thét lên. Cửa sổ bị một tảng đá đập vỡ, bây giờ chỉ còn những mảnh vụn thủy tinh nằm rải rác trên sàn nhà. Một tảng đá khác bay qua cửa sổ bên cạnh. Với một tiếng nức nở, bà chạy ra khỏi cán phòng và lên lầu, rồi nhốt mình trong phòng tắm tuyệt vọng chờ được nghe giọng Gabriel. Thay vào đó bà chỉ nhận được giọng nói đơn điệu của hộp thư thoại, và bà nghe thấy nỗi sợ hãi trong giọng mình khi để lại một lời nhắn rời rạc cho ông.
Run rẩy, bà ngồi xuống sàn, hai tay ôm chặt đầu gối và nghe những tiếng động bên ngoài cửa. Không nghe thấy gì khác, nhưng bà không dám nhúc nhích một li.
Khi trời sáng, bà vẫn còn ngồi ở đó.
Tiếng chuông điện thoại đánh thức Erica. Cô liếc nhìn đồng hồ. Mười giờ rưỡi sáng. Cô hẳn đang ngủ lơ mơ sau khi dành đến nửa đêm qua để lăn lộn, toát mồ hôi và khó chịu.
“Chào.” Giọng cô nặng nề ngái ngủ.
“Chào Erica. Xin lỗi, em đánh thức chị à?”
“Ừ, nhưng không sao đâu, Anna. Dù sao thì chị cũng không nên nằm ườn đến nửa buổi sáng như thế này.”
“Nên chứ, chị cứ ngủ nhiều hết sức vào. Chẳng mấy mà giấc ngủ sẽ thành ra xa xỉ. Mà chị sao rồi?”
Erica mất một lúc để phàn nàn về những vất vả khi mang thai với em gái, cô hiểu chính xác những gì Erica nói vì con bé đã có hai đứa con.
“Khổ thân chị… điều an ủi duy nhất là sớm hay muộn thì rồi chị cũng sẽ vượt qua thôi. Chị thấy thế nào khi Patrik ở nhà? Hai người không khiến nhau phát rồ lên đấy chứ? Em nhớ là em chỉ muốn được yên thân trong vài tuần cuối cùng.”
“Chị hiểu ý em. Chị phải thừa nhận là chị cực kỳ căng thẳng. Nên chị đã không phản đối nhiều khi anh ấy nhận một vụ giết người và lại phải đi làm.”
“Một vụ giết người? Chuyện gì đã xảy ra?”
Erica kể cho em gái nghe về cô gái người Đức trẻ tuổi đã bị sát hại và hai cô gái mất tích đến giờ mới được tìm thấy.
“Chúa ơi, khủng khiếp quá.” Đường truyền lạo xạo.
“Mà em đang ở đâu vậy? Em đi chơi thuyền vui chứ?”
“Ừ, bọn em đang chơi vui lắm. Emma và Adrian rất thích thú, Gustav còn bảo không khéo chúng sẽ trở thành thủy thủ chuyên nghiệp ấy chứ.”
“À, Gustav. Hai người sao rồi? Anh ta sẵn sàng để ra mắt cả nhà rồi chứ?”
“Đó chính là lý do em gọi cho chị đây. Bây giờ bọn em đang ở Strömstad và muốn đi thuyền xuống thăm nhà anh chị. Nếu chị không thoải mái thì cứ nói với em nhé – nếu không thì bọn em định ngày mai sẽ nghỉ lại Fjällbacka và qua chào chị một câu. Bọn em sẽ ngủ trên thuyền, nên cũng không phiền gì đâu. Cứ nói nếu như chị nghĩ vậy là hơi quá. Chỉ là nếu được gặp chị thì sẽ rất vui.”
“Tất nhiên là em có thể đến. Bọn chị đã mời Dan và bạn gái anh ta đến dự tiệc nướng ngày mai, nên cũng không phiền nếu thêm vài cái hamburger trên vỉ nướng.”
“O, tuyệt quá, thế là cuối cùng em cũng được ăn sườn cừu.”
“Nghe này, Anna. Hồi trước Patrik nhòm ngó chị vì chị ngoan đấy, nên em đừng có mà bắt đầu quá…”
“Được rồi, nhưng vẫn cần chuẩn bị thêm chút. Mình phải xem bọn trẻ con bây giờ thích nghe nhạc gì, phong cách nào đang nổi và liệu son bóng có mùi thơm thì còn mốt không. Kế hoạch đây: nếu chị xem xét kênh MTV, em sẽ nhận phần tạp chí tuổi teen Weekly Review và nghiên cứu một tí. Chị có nghĩ là Starlet vẫn đang được xuất bản không? Nếu có, thì đó có lẽ là một ý tưởng hay đấy.”
Erica phải ôm bụng vì cười dữ dội. “Thôi đi, chị chết mất. Nào ngoan đi… Em không nên ném đá vào nhà kính, em biết đấy. Bọn chị chưa gặp Gustav, nên theo như bọn chị được biết thì, anh ta có thể là một gã thực sự lập dị. Em có nhớ ông mục sư trong bộ phim ấy không? Cái ông làm việc với tụi hạ lưu đó?”
“À, em không nghĩ lập dị là từ đúng để chỉ Gustav.”
Erica có thể thấy rằng lời nhận xét đùa cợt của cô đã khiến Anna đâm ra cấm cảu. Chẳng ngờ em cô lại có thể nhạy cảm đến như vậy.
“Em thấy mình rất may mắn khi một người với địa vị xã hội như Gustav lại thèm nhìn đến em, một bà mẹ đơn thân thế này. Anh ấy có thể lựa chọn bạn gái trong danh sách các cô thanh tân mơn mởn, nhưng anh ấy đã chọn em, và em nghĩ rằng điều đó đã nói lên rất nhiều điều về anh ấy.”
Erica cũng nghĩ rằng điều đó đã nói rất nhiều về anh ta, nhưng tiếc là không phải theo ý em cô ám chỉ. Anna chưa bao giờ giỏi nhìn đàn ông, và cái cách con bé đang nói về Gustav nghe có vẻ hơi đáng lo ngại. Nhưng Erica quyết định sẽ không đánh giá anh ta trước. Hy vọng rằng mối nghi ngại của cô sẽ trở nên vô ích ngay sau khi cô gặp anh ta.
Cô vui vẻ nói, “Khi nào em sẽ đến đây?”
“Khoảng bốn giờ. Vậy được không?”
“Được quá đi chứ.”
“Gặp chị sau nhé. Ôm chị. Tạm biệt.”
Gác máy rồi, Erica lại cảm thấy có chút lo lắng. Có gì đó trong giọng nói gượng gạo của Anna khiến cô tự hỏi mối quan hệ của em cô với anh chàng Gustav af Klint tuyệt vời, cao quý có thực sự tốt đẹp.
Cô đã rất mừng khi Anna ly dị Lucas Maxwell, bố của bọn trẻ. Anna sau đó đã quay trở lại với giấc mơ nghiên cứu nghệ thuật và đồ cổ của mình, và con bé đã cực kỳ may mắn khi tìm được một công việc bán thời gian tại Hiệp hội Bán đấu giá Stockholm. Đó là nơi con bé gặp Gustav. Anh ta xuất thân từ một trong những gia đình dòng dõi nhất Thụy Điển. Anh ta đã dành phần lớn thời gian quản lý bất động sản của gia đình ở Hälsingland, vốn được Vua Gustav Vasa trao cho tổ tiên của anh từ thế kỷ mười sáu. Gia đình anh ta có giao thiệp với hoàng gia, và nếu ông bố bận rộn, thì Gustav sẽ thay mặt gửi lời mời đi săn hằng năm đến nhà vua. Anna đã kinh hoàng kể lại tất cả những chuyện này cho chị gái. Erica thấy có chút khó chịu, bởi đã gặp hơi nhiều những kẻ thượng lưu thô lỗ thường xuyên lui tới các câu lạc bộ quanh Stureplan. Cô chưa bao giờ gặp Gustav, nên có lẽ anh ta khác với những kẻ thừa kế giàu có, cảm thấy an toàn đằng sau của cải và tước hiệu của mình nên đã chọn cách cư xử như lợn ở những nơi như Riche & Spy Bar. Ngày mai cô sẽ biết. Cô bắt tréo hai ngón tay cầu nguyện rằng mình đã sai và rằng Gustav sẽ ở một đẳng cấp hoàn toàn khác. Không có ai xứng đáng được hưởng hạnh phúc và sự yên ổn hơn Anna.
Erica bật quạt và nghĩ xem mình sẽ làm gì hôm nay. Người hộ sinh của cô đã giải thích rằng hoóc-môn oxytocin, tiết ra nhiều khi người phụ nữ sắp đến ngày sinh nở, tạo nên bản năng làm tổ mạnh mẽ ở thai phụ. Điều đó giải thích tại sao trong những tuần gần đây Erica gần như cuống quýt lên phân loại, đánh số và lập danh mục mọi thứ trong nhà như thể cuộc sống của cô phụ thuộc vào nó. Cô bị ám ảnh với ý nghĩ rằng tất cả mọi thứ phải sẵn sàng và trật tự khi em bé ra đời. Nhưng bây giờ cô đã đạt đến giai đoạn chẳng còn gì để sắp xếp trong nhà nữa. Các tủ quần áo sạch sẽ, phòng em bé đã sẵn sàng, và các ngăn kéo đựng đồ bạc đã được dọn dẹp. Chỗ duy nhất còn phải dọn là căn hầm, trong đó toàn đồ bỏ đi. Nói là làm. Cô đứng dậy, thở phù phù, và kiên quyết cắp theo cái quạt bàn. Cô phải khẩn trương lên trước khi Patrik phát hiện ra cô đang làm gì.
Anh đang dành năm phút nghỉ giải lao để ngồi bên ngoài đồn cảnh sát ăn một que kem sô-cô-la thì Gösta ló đầu ra từ một trong những ô cửa sổ đang mở và hét lên với anh.
“Patrik, có người gọi điện cho anh. Tôi nghĩ là anh nên nghe đi.”
Patrik nhanh chóng ăn nốt que kem Magnum và đi vào trong. Anh nhấc ống nghe trên bàn Gösta và có chút ngạc nhiên khi biết đó là ai. Sau cuộc trao đổi ngắn, anh ghi lại vài điều, rồi gác máy. Anh nói với Gösta, ông đang ngồi tại chỗ quan sát anh, “Ông nghe rồi đấy, có ai đó đã đập vỡ các của sổ của nhà Gabriel Hult. Ông có muốn đến đó xem qua không?”
Gösta có vẻ ngạc nhiên khi Patrik hỏi mình thay vì Martin, nhưng ông cũng gật đầu.
Vài phút sau đó, khi đã lái xe đến nơi, họ không thể kìm được những tiếng thở dài ghen tị. Dinh thự Gabriel Hult sống thực sự tráng lệ. Nó lung linh như một viên trân châu ở giữa xanh tươi, và hàng cây tổng quán sủi ven đường dẫn vào nhà ngoan ngoãn cúi rạp trong gió. Patrik nghĩ rằng Ephraim Hult hẳn phải là một nhà thuyết giáo thiên tài thì mới được huy hoàng đến vậy.
Đến tiếng sỏi lạo xạo dưới chân khi họ bước tới bậc thềm nghe cũng có vẻ sang trọng. Anh rất tò mò muốn xem phần bên trong của ngôi nhà.
Gabriel đích thân ra mở cửa. Cả Patrik và Gösta đều chùi chân cẩn thận trên tấm thảm ở cửa trước khi bước vào tiền sảnh.
“Cảm ơn vì đã đến nhanh như vậy. Vợ tôi rất khó chịu trước những chuyện này. Tối qua tôi có công chuyện phải rời thị trấn, nên lúc chuyện xảy ra chỉ có mình bà ấy ở nhà.”
Vừa nói, ông ta vừa dẫn đường tới một căn phòng lớn, đẹp đẽ, với những cửa sổ cao để ánh nắng tràn vào. Ngồi trên chiếc xô-pha trắng muốt là một người phụ nữ vẻ mặt lo lắng. Bà đứng lên chào khi họ bước vào phòng.
“Laine Hult. Rất biết ơn các ông đã đến kịp thời.”
Bà lại ngồi xuống, và Gabriel ra hiệu mời Patrik và Gösta ngồi vào xô-pha đối diện. Cả hai đều cảm thấy hơi lạc lõng. Họ đều không mặc đồ công sở mà chỉ mặc quần soóc. Patrik ít nhất còn mặc cái áo phông đẹp, chứ Gösta chỉ mặc cái áo sơ mi cộc tay rất cũ bằng sợi tổng hợp màu xanh bạc hà. Lại càng tương phản khi Laine đang mặc một chiếc váy đẹp dệt từ lanh tự nhiên trong khi Gabriel mặc bộ vét công sở. Chắc là nóng lắm, Patrik nghĩ, hy vọng không phải lúc nào ông ta cũng ăn vận như thế giữa mùa hè nóng nực này. Nhưng thật khó mà tưởng tượng ra ông ta trong bất kỳ trang phục nào xuề xòa hơn, mà ông ta có vẻ còn chẳng toát mồ hôi trong bộ vét màu lam. Trái lại, chỉ nghĩ đến việc mặc bộ đồ đó vào mùa này Patr