← Quay lại trang sách

Chương 10 MÙA HÈ NĂM 1979

Cô rất lo lắng về chuyện mẹ mình đang bị ốm. Làm sao bố cô một mình xoay xở mà chăm sóc bà được? Niềm hy vọng rằng họ sẽ tìm thấy cô đã dần dần mòn đi bởi nỗi khiếp đảm khi giờ đây phải ở một mình trong bóng tối. Không có làn da mềm mại của cô gái kia, hình như bóng tối thậm chí còn đen hơn, nếu nó có thể.

Cái mùi này cũng quấy rầy cô. Mùi ngọt ngào thớ lợ của chết chóc đã đẩy lùi tất cả những mùi khác. Ngay cả mùi phân cũng biến mất trong sự ngọt ngào ghê tởm này, và cô đã nôn mửa nhiều lần, ộc ra cả mật xanh mật vàng vì thiếu thức ăn trong dạ dày. Bây giờ cô bắt đầu cảm thấy khát khao được chết. Nó khiến cô sợ hơn bất kỳ thứ gì khác. Nó bắt đầu tán tỉnh cô, thì thầm với cô, hứa hẹn sẽ mang đi những đớn đau và giày vò.

Cô tiếp tục lắng nghe những tiếng bước chân bên trên. Tiếng mở cửa hầm. Những tấm ván được kéo ra rồi lại tiếng bước chân, từ từ đi xuống cầu thang. Cô biết lần tiếp theo mình nghe thấy chúng thì sẽ là lần cuối cùng. Thân thể của cô không thể chịu đựng đau đớn thêm nữa, và giống như cô gái kia, cô cũng sẽ buông xuôi trước cám dỗ của cái chết.

Đúng lúc đó cô nghe thấy những âm thanh khiến cô sợ hãi. Với niềm đau xót trong tim, cô đã chuẩn bị để chết.

Tối nay thật tuyệt khi Patrik về nhà sớm hơn một chút. Nhưng đồng thời, cô cũng không mong đợi điều đó trong hoàn cảnh này. Sắp sinh con, lần đầu tiên Erica thực sự có thể hiểu được nỗi lo lắng của các bậc phụ huynh, và cô chia sẻ sự đau đớn của bố mẹ Jenny Möller.

Cô bỗng nhiên cảm thấy hơi tội lỗi vì đã thảnh thơi như vậy cả ngày dài. Kể từ lúc khách ra về, sự yên ổn lại bao phủ khắp căn nhà, cho cô có thời gian để trò chuyện với em bé đang đạp trong bụng, nằm xuống, nghỉ ngơi và đọc một cuốn sách hay. Cô cũng đã lăn ra chợ ở Galärbacken để mua ít thức ăn ngon, với một túi kẹo lớn. Bây giờ thì món thứ hai làm cho cô cảm thấy có chút tội lỗi. Người hộ sinh đã nghiêm khắc nói rằng đường không phải là một món lành mạnh trong chế độ ăn uống của thai phụ. Với số lượng lớn, nó thậm chí có thể khiến em bé trở nên nghiện đường. Dĩ nhiên cô đã tự nhủ rằng phải số lượng rất lớn thì điều đó mới xảy ra được, tuy nhiên những lời của hộ sinh vẫn cứ ong ong trong đầu Erica. Có một danh sách dài trên cánh cửa tủ lạnh ghi những món cô không được ăn. Đôi khi cô có cảm giác sinh ra được một em bé khỏe mạnh nguyên vẹn cứ như là nhiệm vụ bất khả thi. Một số loại cá, ví dụ thế, cô không được ăn chút nào cả, trong khi những loại khác lại không sao, nhưng không được ăn quá một lần một tuần. Rồi lại đến câu hỏi liệu chúng là cá nước mặn hay cá nước ngọt… chưa kể đến thế lưỡng nan với pho mát. Erica yêu thích mọi loại pho mát, và cô đã thuộc lòng những loại được và không được ăn. Thật mất hết tinh thần, pho mát xanh nằm trong danh sách bị cấm, và cô đã bắt đầu mơ tưởng rằng mình sẽ ngốn pho mát và rượu vang đỏ như thế nào ngay sau khi sinh xong.

Cô đã quá đắm chìm trong suy nghĩ về những cuộc chè chén say sưa đến nỗi thậm chí không nghe thấy Patrik đi qua cửa, nên cô đã giật mình gần như nhảy dựng lên. Phải mất một lúc lâu nhịp tim của cô mới trở lại bình thường.

“Ôi Chúa ơi, anh làm em sợ quá!”

“Xin lỗi, anh không cố ý. Anh tưởng em nghe thấy anh đi vào rồi.”

Anh ngồi phịch xuống xô-pha bên cạnh cô. Cô sửng sốt khi nhìn thấy gương mặt anh.

“Patrik, mặt anh tái xanh tái xám. Có chuyện gì sao?” Một ý nghĩ chợt đến với cô. “Anh đã tìm thấy cô bé ấy rồi à?” Một vòng thép lạnh như nước đá siết chặt lấy trái tim cô.

Patrik lắc đầu. “Chưa.”

Anh không nói một lời nào nữa, nên cô kiên nhẫn chờ. Một lúc sau anh mới có thể tiếp tục được.

“Chưa, bọn anh chưa tìm thấy. Và anh cảm thấy như thể hôm nay đã để mất rất nhiều cơ sở.”

Anh đột nhiên cúi xuống và vùi mặt vào hai bàn tay. Erica nhích đến gần anh, vòng tay quanh anh và áp má vào vai anh. Cô cảm thấy, chứ không phải nghe thấy, anh đang khóc rất khẽ.

“Khốn nạn, cô bé ấy mới chỉ mười bảy tuổi. Em có thể hiểu được điều đó không? Mười bảy tuổi và một thằng bệnh hoạn nào đó nghĩ rằng hắn có thể làm bất cứ điều gì hắn muốn với cô bé. Ai biết được cô bé phải chịu đựng những gì trong khi bọn anh tíu tít chạy đi chạy lại như mấy thằng ngu độn bất tài? Bọn anh không biết mình đang làm cái quái gì cả. Làm sao mà bọn anh lại nghĩ rằng mình có thể xử lý được một cuộc điều tra như thế này chứ? Bọn anh thường chỉ ngồi điều tra mấy vụ trộm cắp xe đạp, kiểu thế thôi. Cái loại ngu đần nào lại cho phép bọn anh được phụ trách việc điều tra khốn nạn này?!” Anh vung hai bàn tay lên đầy vẻ bất lực.

“Không ai có thể làm tốt hơn anh được, Patrik. Anh nghĩ mọi chuyện sẽ ra sao nếu họ gửi tới một đội nào đó từ Göteborg? Anh có phương án nào khác không? Họ không biết khu vực này, họ không biết mọi người và họ không biết mọi thứ ở đây tiến hành ra sao. Họ không thể làm tốt hơn anh đâu. Thậm chí có khi còn tồi tệ hơn. Và đội của anh cũng đâu có thực sự phải hành động đơn độc, mặc dù em hiểu lý do tại sao anh lại nghĩ như vậy. Đừng quên rằng Uddevalla đã gửi thêm người đến làm việc với các anh, sắp xếp các đội tìm kiếm và kiểu như vậy. Tối hôm trước chính anh cũng nói về việc những nỗ lực chung đã có hiệu quả như thế nào. Anh đã quên chuyện đó ư?”

Erica nói chuyện với anh như với một đứa trẻ, nhưng không tỏ ra kẻ cả với anh. Cô chỉ muốn làm rõ ý của mình. Dường như nó có hiệu quả, vì Patrik đã trở nên bình tĩnh hơn và cô có thể cảm thấy cơ thể anh bắt đầu thả lỏng.

“Ừ, có lẽ em nói đúng,” anh miễn cưỡng nói. “Bọn anh đã làm hết sức rồi, mà có vẻ như vô vọng quá. Thời gian đang trôi đi còn anh thì ngồi ở nhà đây trong khi Jenny có thể đang hấp hối ngay lúc này.”

Sự hoảng loạn lại bắt đầu dâng lên trong giọng nói của anh và Erica bóp vai anh.

“Suỵt, anh không thể nghĩ kiểu đó.” Giọng cô hơi gay gắt. “Giờ anh không thể suy sụp được. Nếu anh nợ cô bé và bố mẹ cô bé điều gì đó, thì ấy là phải giữ được một cái đầu lạnh và cứ tiếp tục làm việc.”

Anh ngồi lặng lẽ, nhưng Erica có thể thấy rằng anh đang lắng nghe những gì cô nói.

“Hôm nay bố mẹ cô bé gọi cho anh ba lần,” Patrik nói. “Hôm qua thì bốn lần. Em có nghĩ rằng đó là bởi vì họ sắp bỏ cuộc không?”

“Không, em không nghĩ thế,” Erica nói. “Em chỉ nghĩ rằng họ đang đếm từng ngày chờ anh hoàn thành việc của anh. Và ngay bây giờ việc của anh là dồn sức lại cho ngày mai đi làm. Chẳng ích gì khi cứ để cho mình kiệt sức.”

Patrik mỉm cười uể oải khi nghe thấy những lời chính mình đã nói với Gösta giờ như một tiếng vọng trên môi Erica. Có lẽ đôi khi anh cũng không biết mình nói về cái gì.

Anh quyết định nghe theo lời khuyên của vợ. Dẫu rằng thậm chí còn không thấy thức ăn có vị gì, anh vẫn cứ ăn hết những món được đặt trên bàn trước mặt mình rồi đi ngủ, mặc dù anh ngủ không thoải mái. Trong giấc mơ của anh, một cô bé tóc vàng cứ chạy xa mãi khỏi anh. Anh đã đến gần đủ để có thể chạm vào cô bé ấy, nhưng khi anh đưa tay ra để giữ lấy, cô lại cười trêu chọc và chuồn đi. Khi đồng hồ báo thức gọi anh dậy, anh đã kiệt sức và vã mồ hôi lạnh.

Bên cạnh anh, Erica cũng trải qua một đêm gần như thức trắng, lo lắng về cô em gái Anna. Sớm ngày hôm qua, cô đã quyết định chắc chắn sẽ không làm lành trước. Nhưng vào lúc bình minh cô cũng chắc chắn như thế, rằng cô sẽ gọi cho Anna ngay khi trời sáng. Có chuyện gì đó không ổn. Cô có thể cảm nhận được.

Mùi của bệnh viện khiến bà sợ hãi. Có gì đó giống sự kết thúc trong cái mùi vô trùng, những bức tường không màu và các bức tranh thê lương. Sau cả đêm không chợp mắt lấy một phút, bà thấy mọi người xung quanh mình dường như đều di chuyển như trong một thước phim quay chậm. Những tiếng sột soạt áo quần của các nhân viên được khuếch đại trong tai Solveig, nghe rất to. Bà chờ đợi thế giới sẽ sụp xuống quanh mình bất cứ lúc nào. Đến gần sáng, bác sĩ đã nói với bà rằng mạng sống của Stefan đang ngàn cân treo sợi tóc và bà đã vô cùng đau khổ. Bà biết phải làm gì nữa đây? Mọi thứ bà từng có trong đời đã chảy qua những ngón tay bà như những hạt cát mịn rồi được gió thổi bay đi. Không còn lại gì nữa cả. Johannes, cuộc sống của họ tại Västergärden, tương lai của mấy đứa con trai – tất cả đã phai nhạt thành hư vô và đẩy bà vào thế giới của riêng bà.

Nhưng bây giờ bà không còn chạy trốn được nữa. Không còn nữa, khi thực tế, hiện ra dưới dạng tầm nhìn, âm thanh và mùi vị đã siết chặt lấy bà. Cái thực tế rằng bây giờ họ đang cắt xẻ cơ thể của Stefan đã quá rõ ràng đến mức bà không còn chạy trốn được nữa.

Bà đã tuyệt giao với Chúa từ lâu rồi, nhưng giờ bà lại cầu nguyện với tất cả lòng nhiệt thành bà có thể thu gom được. Bà lầm rầm tất cả những lời bà có thể nhớ từ đức tin thời thơ ấu của mình, hứa những lời mà bà sẽ không bao giờ có thể giữ được, hy vọng rằng như vậy đủ để cho Stefan ít nhất là một cơ may sống sót nhỏ bé. Bên cạnh bà là Robert với vẻ kích động không hề thay đổi sau cả đêm. Solveig không còn muốn gì hơn ngoài việc vươn tay ra và chạm vào hắn, an ủi hắn, như một người mẹ. Nhưng đã nhiều năm trôi qua đến nỗi mà khả năng thể hiện tình mẫu tử của bà đã biến mất. Thay vào đó, họ ngồi cạnh nhau như những người xa lạ, chỉ được gắn kết bởi tình yêu họ dành cho người đàn ông nằm trên giường, trong im lặng hai người đều chắc chắn rằng gã là người tốt đẹp nhất trong số họ.

Một hình bóng quen thuộc xuất hiện ở cuối hành lang. Linda lần bước dọc theo bức tường, không biết chắc cô sẽ được đón tiếp như thế nào – nhưng tính hiếu chiến đã bị đánh bật ra khỏi Solveig và Robert, cùng với trận đòn đã trút xuống Stefan.

Linda ngồi lặng lẽ bên cạnh Robert và đợi một lúc mới dám hỏi, “Cậu ấy thế nào rồi? Tôi nghe bố nói là nhà thím đã gọi cho bố sáng nay và nói với bố về chuyện đã xảy ra.”

“Ừ, tôi nghĩ Gabriel nên biết,” Solveig nói, vẫn với ánh nhìn xa xăm, “bởi vì xét cho cùng, một giọt máu đào hơn ao nước lã. Tôi chỉ nghĩ rằng ông ta nên biết…” Bà ta nhỏ giọng dần và Linda chỉ gật đầu.

Solveig nói tiếp, “Họ vẫn đang phẫu thuật cho nó. Nhà tôi không biết gì hơn… ngoài việc là có thể nó sẽ chết.”

“Nhưng kẻ nào đã làm điều này?” Linda nói, kiên quyết không để cho bà thím lại im lặng trốn tránh trước khi cô nhận được một câu trả lời.

“Nhà tôi không biết,” Robert nói. “Nhưng thằng khốn đó có là ai đi nữa, thì nó cũng sẽ phái trả giá cho chuyện này!”

Hắn đập mạnh vào tay vịn ghế và bừng tỉnh khỏi cơn kích động. Solveig không nói gì.

“Chị làm cái quái gì ở đây vậy?” Robert hỏi, giờ mới nhận ra rằng thật kỳ quặc khi cô chị họ chẳng mấy khi tiếp xúc này lại đến bệnh viện.

“Tôi… chúng tôi… tôi…” Linda lắp bắp tìm từ ngữ để miêu tả mối quan hệ thực sự giữa cô và Stefan. Cô ngạc nhiên khi thấy Robert lại không biết về chuyện đó. Stefan đã nói với cô rằng gã không kể bất cứ điều gì về mối quan hệ của họ với thằng anh trai, nhưng cô vẫn nghĩ rằng gã sẽ nói gì đó. Cái sự thực là Stefan muốn giữ bí mật mối quan hệ của họ đã chứng minh tầm quan trọng của nó với gã, nhận thức muộn màng và bất ngờ này khiến cô cảm thấy xấu hổ.

“Bọn tôi… bọn tôi đã hẹn hò rất nhiều lần, Stefan và tôi.” Cô xem xét kỹ lưỡng những móng tay được cắt tỉa cẩn thận của mình.

“Ý chị là gì – hẹn hò?” Robert nhìn cô kinh ngạc. Rồi hắn chợt hiểu ra. “Aha, vậy là hai người đã… thôi được…” Hắn cười. “À, chị thấy đấy. Chuyện đó thế nào? Thằng em trai nhỏ của tôi ấy. Thật đúng là một con ngựa giống.” Rồi những tiếng cười nghẹn lại trong cổ họng khi hắn nhớ lại lý do tại sao mình ngồi ở đây, và vẻ kích động lại quay trở lại.

Nhiều giờ trôi qua, ba người họ lặng lẽ ngồi thành hàng trong phòng chờ buồn bã. Mỗi tiếng bước chân trong hành lang lại khiến họ lo lắng nhìn vị bác sĩ mặc áo khoác trắng có thể sẽ đến và báo tin cho họ. Họ không biết rằng những người kia đều đang thầm cầu nguyện.

Khi Solveig gọi vào buổi sáng sớm Gabriel đã ngạc nhiên rằng mình lại thấy thương cảm. Cừu hận giữa hai nhà đã diễn ra quá lâu đến nỗi sự thù địch đã trở thành bản chất thứ hai, nhưng khi nghe về tình trạng của Stefan, tất cả những hận thù cũ đã trôi tuột đi. Stefan là con của em trai ông, máu mủ của ông, và chỉ phải quan tâm đến điều đó thôi. Nhưng đi đến bệnh viện cũng không phải dễ dàng gì. Kiểu gì cũng cảm thấy điều đó như một hành vi đạo đúc giả, và ông đã rất nhẹ nhõm khi Linda nói rằng cô sẽ đi. Ông thậm chí đã trả tiền xe taxi đến Uddevalla cho cô, mặc dù trong những hoàn cảnh bình thường ông vẫn coi đi taxi là đỉnh cao của sự lãng phí.

Ông đang ngồi bên cái bàn lớn, không biết phải làm gì. Cả thế giới dường như đã đảo lộn, và mọi thứ càng lúc càng tồi tệ hơn. Trong hai mươi tư giờ qua tất cả dường như đã lâm vào một cơn khủng hoảng: Jacob bị đưa đi thẩm vấn, Västergärden bị lục soát, cả gia đình phải cung cấp mẫu máu, và bây giờ Stefan trong bệnh viện, sống dở chết dở. Cảm giác an toàn hoàn hảo mà ông đã dành cả đời để tạo ra giờ vỡ vụn ngay trước mắt ông.

Trong tấm gương treo trên bức tường đối diện, ông nhìn thấy khuôn mặt mình như thể mới lần đầu tiên. Và theo một cách nào đó, đúng như vậy. Ông đã nhìn thấy mình già đi như thế nào trong vài ngày qua. Sức sống trong mắt ông đã biến mất, khuôn mặt ông hằn nếp nhăn lo lắng và mái tóc thường thường được chải chuốt cẩn thận giờ rối bù và xám xịt. Gabriel phải thừa nhận rằng ông thất vọng với chính mình. Ông đã luôn coi mình là một người có thể đối phó với bất kỳ khó khăn nào, một người để người khác có thể dựa vào trong những lúc khó khăn. Nhưng thay vào đó Laine đã hiện ra như là người mạnh mẽ hơn trong hai người. Có lẽ ông đã luôn biết đó là sự thật. Có lẽ bà cũng biết, nhưng lại để cho ông sống trong ảo tưởng của mình, vì bà biết điều đó sẽ khiến ông hạnh phúc hơn. Một cảm giác ấm lòng dâng đầy trong ông. Một tình yêu yên bình. Một điều gì đó từ lâu đã bị chôn vùi dưới lòng khinh thường đầy ích kỷ của ông, nhưng giờ đây đã có cơ hội để trồi lên. Có lẽ một điều gì đó tốt đẹp vẫn có thể nảy mầm từ tất cả những khổ đau này.

Một tiếng gô cửa cắt ngang dòng suy tưởng của ông.

“Vào đi.”

Laine thận trọng bước vào và một lần nữa ông nhận thấy sự biến đổi đã diễn ra. Vẻ mặt lo lắng và những bàn tay bồn chồn ngọ nguậy đã biến mất – bà thậm chí trông còn cao hơn, vì bây giờ bà đã đứng thẳng.

“Chào buổi sáng, em yêu. Em ngủ ngon chứ?” ông hỏi.

Bà gật đầu và ngồi xuống một trong hai chiếc ghế bành mà ông giữ trong văn phòng để dành cho khách. Gabriel nhìn bà dò hỏi. Quầng thâm dưới mắt bà mâu thuẫn với lời khẳng định kia. Mà bà đã ngủ hơn mười hai giờ ấy chứ. Hôm qua, lúc bà trở về nhà sau khi đón Jacob ở đồn cảnh sát, ông khó mà moi được một lời nào của bà. Bà chỉ lẩm bẩm rằng bà đã mệt mỏi rồi vào phòng mình đi nằm luôn. Có gì khuất tất ở đây, giờ ông có thể cảm thấy thế. Laine đã không nhìn ông dù chỉ một lần kể từ khi bà bước vào phòng. Thay vào đó bà cẩn thận nghiên cứu đôi giày của mình. Ông có thể cảm thấy nỗi lo lắng của mình dâng lên, nhưng trước tiên ông phải nói với bà về Stefan. Bà đã phản ứng với vẻ ngạc nhiên và cảm thông, nhưng dường như những lời ấy không thực sự ảnh hưởng đến bà. Có chuyện gì đó rất to tát đã chiếm hết suy nghĩ của bà mà thậm chí vụ hành hung Stefan cũng không thể khiến bà tập trung được. Bây giờ tất cả đèn báo động của Gabriel đã nhấp nháy cùng một lúc.

“Có chuyện gì sao? Có chuyện gì ở tại đồn cảnh sát ngày hôm qua? Anh đã nói chuyện với Marita đêm qua, và nó bảo rằng họ đã thả Jacob, nên cảnh sát khó mà…” Ông hoàn toàn không biết nói tiếp như thế nào. Suy nghĩ của ông lao như tên bắn trong đầu khi ông loại bỏ hết lời giải thích này đến lời giải thích khác.

“Không, Jacob đã được xóa sạch mọi nghi ngờ,” Laine nói.

“Vậy hả? À, thế thì tuyệt quá rồi!” Khuôn mặt Gabriel sáng bừng. “Vậy thì làm sao… cái gì mà…”

Vẫn cái vẻ ảm đạm đó, và Laine từ chối nhìn vào mắt ông.

“Trước khi mình nói chuyện đó, có một điều anh nên biết.” Bà do dự. “Johannes, chú ấy, chú ấy…”

Gabriel vặn vẹo sốt ruột trên ghế. “Ừ, có chuyện gì về Johannes? Có phải là về cuộc khai quật xui xẻo ấy không?”

“Vâng, anh có thể nói vậy.” Lại tạm dừng. Gabriel cảm thấy như muốn lắc bà để bà phải phun ra những gì bà đang cố nói. Rồi Laine hít một hơi thật sâu và tất cả mọi thứ trào ra quá nhanh khiến ông khó mà có thể theo kịp những gì bà nói.

“Họ nói với Jacob rằng họ đã kiểm tra di hài của Johannes và khẳng định rằng chú ấy không tự tử. Chú ấy bị giết.”

Cái bút Gabriel đang cầm trong tay rơi xuống bàn. Ông nhìn Laine như thể bà đã mất trí.

“Ừ, em biết nó nghe có vẻ hoàn toàn điên rồ,” bà nói tiếp, “nhưng dường như họ khá chắc chắn. Có kẻ đã giết Johannes.”

“Họ có biết ai không?” Đó là điều duy nhất ông có thể nghĩ ra để nói.

“Rõ ràng là không,” Laine ngắt lời. “Họ mới phát hiện ra thôi và đã rất nhiều năm trôi qua rồi…” Bà tỏ vẻ bất lực.

“À, anh phải nói đó là một tin mới mẻ đấy. Nhưng kể cho anh thêm về Jacob đi. Cảnh sát có xin lỗi không?” Gabriel nói cộc cằn.

“Như em đã nói, nó không còn là một nghi phạm nữa. Họ đã cố chứng minh điều mà chúng ta biết cả rồi,” Laine khịt mũi.

“Cũng chẳng có gì ngạc nhiên. Chỉ là vấn đề thời gian thôi. Nhưng bằng cách nào…?”

“Các mẫu máu họ đã lấy của chúng ta ngày hôm qua. Họ đối chiếu máu của chúng ta với một số dấu vết kẻ giết người để lại và nó không khớp.”

“Anh có thể nói với họ ngay từ đầu. Và anh đã nói thật, trừ phi trí nhớ của anh lại lừa dối anh,” Gabriel tuyên bố trịch thượng, cảm giác như một nút thắt lớn đã được nói lỏng. “Sao mình không uống chút sâm banh để ăn mừng, Laine nhỉ? Anh không hiểu lý do tại sao trông em lại cau có thế kia.”

Bấy giờ bà ngẩng đầu lên và nhìn thẳng vào mắt ông. “Bởi vì họ cũng đã phân tích máu của anh.”

“À, chắc chắn nó không thể khớp được,” Gabriel cười to và nói.

“Không, không khớp với kẻ giết người. Nhưng… nó cũng không khớp với Jacob.”

“Cái gì? Em có ý gì? Không khớp? Theo cách nào?”

“Họ nói rằng anh không phải là bố của Jacob.”

Sự im lặng sau đó giống như một vụ nổ. Gabriel lại thoáng thấy mặt mình trong gương. Lần này ông thậm chí còn không nhận ra chính mình. Một người lạ với cái miệng há hốc và mắt mở to nhìn trừng trừng lại ông. Ông không thể nhìn vào chính mình được nữa và phải quay đi.

Trông như thể những lo âu của thế giới này đã rơi xuống khỏi vai Laine, và có một tia rạng rỡ bừng lên trên mặt bà. Ông hiểu đó là sự nhẹ nhõm. Ông chợt nhận ra gánh nặng bà đã phải mang như một bí mật suốt những năm qua, nhưng rồi cơn tức giận đã dốc toàn lực đánh tới.

“Em đang nói cái quái gì vậy?” ông gầm lên, quá to đên nỗi khiến bà nhảy dựng.

“Họ nói đúng. Anh không phải là bố của Jacob.”

“Thế thì là thằng bỏ mẹ nào, hả?”

Im lặng. Dần dần sự thật trở nên rõ ràng với ông. Ông ngã người xuống ghế và thì thầm, “Johannes.”

Laine không cần phải xác nhận lại. Đột nhiên mọi thứ rõ ràng như pha lê và ông nguyền rủa sự ngu ngốc của mình. Nghĩ xem, sao ông lại không nhận ra từ trước kia chứ! Những cái nhìn lén lút, cảm giác rằng có ai đó ở nhà mình khi mình đi vắng, sự tương đồng kỳ lạ của Jacob với thằng em trai mình.

“Nhưng tại sao…?”

“Tại sao em lại ngoại tình với Johannes, ý anh là thế?” Giọng Laine bắt đầu như tiếng kim loại, lạnh lẽo. “Bởi vì anh ấy là tất cả những gì mà anh không có. Em là lựa chọn thứ hai của anh, một người vợ được chọn vì những lý do thực tế, một người biết vị trí của mình là ở đâu và chắc chắn rằng cuộc đời anh sẽ giống như anh đã luôn tưởng tượng, với những điều phiền muộn càng ít càng tốt. Tất cả mọi thứ phải được sắp xếp, hợp lý, đúng mực – và vô hồn!” Giọng bà dịu lại. “Johannes đã không làm bất cứ điều gì mà anh ấy không muốn. Anh ấy yêu thương khi muốn thế, căm ghét khi muốn thế, sống khi muốn thế… Ở bên Johannes giống như trải nghiệm một thế lực tự nhiên. Anh ấy thực sự nhìn em, nhìn em. Anh ấy không chỉ lướt ngang qua em trên đường đến cuộc họp làm ăn tiếp theo. Mỗi lần bọn em làm tình, nó giống như chết đi rồi tái sinh.”

Gabriel run lên vì sự say đắm ông nghe thấy trong giọng của Laine. Nhưng rồi giọng bà thay đổi và bà nghiêm trang nhìn ông.

“Em thực sự xin lỗi vì đã lừa dối anh về Jacob trong suốt những năm qua. Hãy tin em, em thực sự xin lỗi, và em xin lỗi với tất cả chân thành. Nhưng em không có ý định cầu xin tha thứ vì em đã yêu Johannes.”

Bà hấp tấp ngả người về phía trước và đặt tay mình lên tay Gabriel. Ông cố kìm lại thôi thúc giật tay ra.

“Anh đã có rất nhiều cơ hội, Gabriel. Em biết rằng có rất nhiều đặc điểm của Johannes cũng có ở trong anh, nhưng anh không bao giờ để lộ nó ra. Chúng ta có thể đã có nhiều năm tốt đẹp bên nhau, và em đã có thể yêu anh. Theo một cách nào đó, em cũng đã yêu anh, bất chấp tất cả, nhưng em cũng hiểu anh đủ rõ để biết rằng bây giờ anh sẽ không đời nào để em tiếp tục yêu anh nữa.”

Gabriel không nói một lời. Ông biết rằng bà nói đúng. Cả cuộc đời mình, ông đã vật lộn để thoát khỏi cái bóng của em trai. Sự phản bội của Laine đã đánh vào điểm yếu nhất của ông.

Ông nhớ lại những đêm khi ông và Laine cùng nhau canh giữ bên giường bệnh của con trai. Ông nhớ mình đã ước rằng mình là người duy nhất ở đó và rằng con trai mình sẽ thấy tất cả những người khác chẳng hề quan trọng chút nào, kể cả Laine. Trong mắt Gabriel, ông là người duy nhất mà Jacob cần. Hai người bọn họ chống đỡ lại cả thế giới này. Bây giờ có vẻ kỳ cục khi nghĩ về chuyện đó, vì trong mối quan hệ này ông thực sự là một người thừa. Johannes mới là người có quyền ngồi bên Jacob, nắm tay nó, nói với nó rằng mọi thứ sẽ ổn cả thôi. Cùng với Ephraim, người đã cứu mạng Jacob. Ephraim và Johannes. Bộ đôi vĩnh cửu mà Gabriel không bao giờ có thể gia nhập. Bây giờ họ dường như có vẻ bất khả chiến bại.

“Còn Linda?” Ông biết câu trả lời nhưng cứ phải hỏi. Không vì lý do nào khác hơn ngoai chọc tức Laine. Ba chỉ khít mui.

“Linda là con gái cúa anh. Chắc chắn là vậy. Johannes là tình nhân duy nhất của em trong suốt thời gian chúng ta chung sống, và bây giờ em sẽ phải gánh lấy hậu quả.”

Một câu hỏi khác còn làm phiền ông hơn.

“Jacob có biết không?”

“Jacob biết.”

Bà đứng lên, nhìn Gabriel buồn bã. Rồi bà lặng lẽ nói, “Bây giờ em sẽ đi đóng gói đồ đạc. Tối nay em sẽ đi.”

Ông không hỏi bà sẽ đi đâu. Điều đó không tạo ra sự khác biệt nào. Không có gì tạo ra sự khác biệt nào.

Họ rất giỏi che giấu sự xâm phạm của mình. Cô và bọn trẻ hầu như không thấy bất kỳ dấu hiệu nào rằng cảnh sát đã ở đây. Đồng thời cũng có một cái gì đó đã thay đổi. Một cái gì đó cô không thể chạm vào, nhưng nó đã ở đó. Một cảm giác rằng ngôi nhà của họ không còn là nơi an toàn như trước đây nữa. Mọi thứ trong nhà đã bị những bàn tay xa lạ chạm vào, nhấc lên và xem xét kỹ lưỡng. Tìm kiếm một cái gì đó xấu xa – trong nhà của họ! Thường thì cảnh sát Thụy Điển tỏ ra cân nhắc hơn, nhưng đây là lần đầu tiên trong đời Marita nghĩ rằng mình có thể hiểu được cuộc sống sẽ ra sao dưới một chế độ độc tài hay những chính quyền cảnh sát cô đã xem trên bản tin truyền hình. Cô luôn lắc đầu và cảm thấy thương hại những người sống dưới sự đe dọa liên tục của những cuộc đột nhập vào nhà nhưng chưa bao giờ thực sự hiểu được một người sau đó sẽ cảm thấy bẩn thỉu như thế nào, hoặc sợ hãi đến mức nào về những chuyện có thể xảy ra tiếp theo.

Cô nhớ Jacob khi nằm trên giường đêm qua. Cô muốn có anh bên cạnh cô, tay trong tay, an ủi cô rằng mọi thứ sẽ lại như trước đây. Nhưng khi cô gọi đến đồn, cảnh sát bảo cô rằng mẹ anh đã đến đón anh, nên cô cho rằng anh đã ngủ lại nhà bố mẹ. Tất nhiên anh có thể gọi cho cô, nhưng rồi cô tự mắng mình vì đã có những suy nghĩ như vậy, tự nhủ rằng đó là thói tự phụ. Jacob luôn làm những điều tốt nhất cho họ. Nếu cô buồn phiền như vậy vì cảnh sát đến nhà, cô thậm chí không thể tưởng tượng được chồng cô sẽ cảm thấy ra sao khi anh bị nhốt và bị tấn công dồn dập với những câu hỏi quá quắt.

Marita chậm rãi dọn bàn sau khi bọn trẻ ăn sáng xong. Ngập ngừng, cô nhấc điện thoại lên và bắt đầu quay số điện thoại nhà bố mẹ chồng, nhưng lại đổi ý và đặt ống nghe xuống. Hôm nay Jacob phải ngủ, cô không muốn làm phiền anh. Ngay lúc đó chuông điện thoại reo, và cô nhảy dựng lên vì ngạc nhiên. Cô thấy hiển thị người gọi là từ dinh thự và cô háo hức nhấc máy, mong đó là Jacob.

“Chào Marita, bố Gabriel đây.”

Cô chau mày. Cô hầu như không nhận ra giọng bố chồng. Nghe có vẻ như một ông già.

“Chào bố. Bố mẹ thế nào rồi ạ?”

Cô nói với giọng hồ hởi, cố che giấu nỗi lo âu, nhưng cô căng thẳng đợi ông tiếp tục nói. Cô chợt nghĩ rằng liệu có phải chuyện gì đó đã xảy ra với Jacob, nhưng chưa kịp hỏi Gabriel thì ông đã nói, “Này, Jacob có ở nhà không?”

“Jacob? Nhưng hôm qua mẹ đã đón anh ấy từ đồn cảnh sát. Con tưởng rằng anh ấy đang ở chỗ bố mẹ.”

“Không, nó không ở đây. Laine đã thả nó ở bên ngoài nhà con đêm qua.” Sự hoảng loạn trong giọng nói của ông cũng là những gì cô đang cảm thấy.

“Chúa ơi, thế thì anh ấy ở đâu mới được?” Marita đập tay lên miệng, cố đánh tan nỗi sợ hãi của mình.

“Hẳn là… hẳn là nó…” Gabriel không thể nói hết câu, chỉ càng lo lắng hơn. Nếu Jacob không ở nhà nó mà cũng không ở nhà họ, thì không có nhiều phương án thay thế khác. Một ý nghĩ kinh hoàng hiện lên trong tâm trí ông.

“Stefan đang ở trong bệnh viện. Hôm qua nó đã bị tấn công và đánh đập ngay tại nhà,” Gabriel nói.

“Ôi chúa lòng lành, cậu ta thế nào rồi?”

“Họ thậm chí còn không biết liệu nó có sống được không. Linda đang ở bệnh viện và nó sẽ gọi khi biết thêm điều gì.”

Marita nặng nề ngồi xuống một chiếc ghế trong bếp. Ngực cô bị chuột rút, khiến cô thấy khó thở. Cô cảm thấy như thể cổ mình đang bị tròng vào một cái thòng lọng.

“Bố có nghĩ rằng…” cô bắt đầu.

Giọng Gabriel cực kỳ khó nghe qua qua điện thoại khi ông nói, “Không, điều đó là không thể. Kẻ nào…”

Rồi cả hai đều nhận ra ngay lập tức rằng tất cả những lo lắng của họ là bởi kẻ sát nhân vẫn chưa bị bắt. Tiếp theo là một sự im lặng nặng nề.

“Gọi cảnh sát, Marita,” Gabriel nói. “Bố sẽ đến ngay.” Rồi cô nghe thấy tiếng tút dài.

Patrik lại lúng túng ngồi vào bàn làm việc. Anh buộc mình phải cố gắng tìm thấy việc gì đó để làm chứ không phải chỉ ngồi và nhìn chằm chằm vào điện thoại. Anh đã bị quá tải vì sốt ruột khi chờ đợi các kết quả xét nghiệm máu. Đồng hồ tích tắc không ngừng. Anh quyết định sẽ cố bắt kịp vài vấn đề hành chính và lấy ra các giấy tờ có liên quan. Nửa giờ sau, anh vẫn chưa làm được gì cả – anh cứ ngồi và nhìn chằm chằm vào khoảng không. Kiệt sức vì mất ngủ là thế này đây. Anh hớp một ngụm cà phê nhưng rồi ngay lập tức nhăn mặt. Nó lạnh ngắt. Anh cầm cốc trong tay đứng dậy định rót thêm thì chuông điện thoại reo. Anh chộp lấy ống nghe nhanh đến nỗi một ít cà phê lạnh bắn lên bàn.

“Patrik Hedström đây.”

“Jacob mất tích rồi!”

Anh đã chuẩn bị nghe tin từ đội Pháp y nên phải mất một giây bộ não của anh mới chuyển hướng kịp.

“Xin lỗi?”

“Tôi là Marita Hult đây. Chồng tôi đã mất tích từ đêm qua!”

“Mất tích?” Anh vẫn không bắt kịp. Mệt mỏi khiến cho những suy nghĩ của anh di chuyển chậm chạp và miễn cưỡng.

“Đêm qua anh ấy không về nhà. Và anh ấy cũng không ngủ ở nhà bố mẹ. Cứ nghĩ về những chuyện đã xảy ra với Stefan…”

Bây giờ thì anh thực sự không hiểu gì hết.

“Khoan đã, hãy nói chậm hơn một chút. Chuyện gì đã xảy ra với Stefan?”

“Cậu ấy đang trong bệnh viện ở Uddevalla. Cậu ấy đã bị đánh và họ không biết liệu cậu ấy có sống được không. Cứ tưởng tượng nếu cũng là kẻ đó tấn công Jacob. Anh ấy có thể đang bị thương nằm ở đâu đó.”

Sự hoảng loạn trong giọng nói của Marita tăng lên và bây giờ tâm trí Patrik cuối cùng cũng bắt kịp. Họ đã không nghe nói về vụ hành hung Stefan Hult – các đồng nghiệp của họ ở Uddevalla chắc đã nhận báo cáo. Anh phải liên lạc với họ ngay lập tức, nhưng điều quan trọng nhất bây giờ là phải xoa dịu vợ của Jacob.

“Marita, tôi chắc rằng không có chuyện gì đã xảy ra với Jacob đâu. Nhưng tôi sẽ cử ai đó tới nói chuyện với chị, và tôi sẽ liên hệ với cảnh sát Uddevalla và tìm hiểu xem họ biết gì về vụ Stefan. Tôi sẽ không coi nhẹ vụ này đâu, nhưng tôi chưa thấy có lý do gì mà phải lo lắng cả. Chúng ta thường thấy chuyện này xảy ra. Vì lý do này khác, người ta quyết định không về nhà một đêm. Và Jacob có thể đã rất phiền muộn sau khi chúng tôi nói chuyện với anh ta ngày hôm qua. Có lẽ anh ta cần phải ở một mình trong một thời gian.”

Marita thất vọng nói, “Jacob sẽ không bao giờ đi mà không nói cho tôi biết anh ấy ở đâu. Anh ấy quá chu đáo nên sẽ không làm vậy.”

“Tôi tin chị, và tôi hứa chúng tôi sẽ lo vụ này. Có người sẽ đến nói chuyện với chị, được không? Nếu chị có thể gọi cho bố mẹ chồng và bảo họ tới, thì đồng thời chúng tôi có thể hỏi chuyện họ luôn.”

“Có thể sẽ dễ dàng hơn nếu tôi qua nhà họ,” Marita nói, dường như nhẹ nhõm vì những biện pháp cụ thể cũng được phát động lấy một lần.

“Vậy thì chúng tôi sẽ qua đó,” Patrik nói. Anh lại thuyết phục cô đừng tin vào những điều tồi tệ nhất, rồi gác máy.

Bỗng nhiên sự thụ động lúc trước của anh biến mất. Bất chấp những gì anh đã nói với Marita, anh vẫn tin rằng có điều gì đó bất thường đằng sau sự biến mất của Jacob. Và nếu Stefan đã phải chịu một trận đòn, hay một vụ mưu sát, hay bất cứ điều gì khác, thì thực sự có lý do để lo lắng. Patrik bắt đầu bằng cách gọi cho các đồng nghiệp của mình ở Uddevalla.

Vài phút sau, anh đã biết tất cả những điều họ biết về cuộc tấn công, nhưng không nhiều. Stefan đã bị đánh suýt chết đêm qua. Vì Stefan không thể tự mình nói cho họ biết kẻ nào đã làm việc đó, cánh sát vẫn không có manh mối nào cả. Họ đã nói chuyện với Solveig và Robert, nhưng hai người đều không nhìn thấy ai ở gần căn nhà. Trong một thoáng Patrik nghi ngờ Jacob, nhưng ý nghĩ này liền được chứng minh là không có căn cứ. Vụ hành hung Stefan diễn ra cùng lúc họ đang thẩm vấn Jacob tại đồn cảnh sát.

Patrik không chắc chắn mình nên tiếp tục như thế nào. Có hai nhiệm vụ đòi hỏi hành động ngay. Đầu tiên, anh muốn có ai đó lái xe đến bệnh viện Uddevalla rồi nói chuyện với Solveig và Robert để tìm hiểu xem họ biết điều gì không. Thứ hai, anh cần phải cử ai đó về dinh thự để nói chuyện với gia đình Jacob. Sau vài phút do dự, anh quyết định tự mình sẽ lái xe đến Uddevalla và cử Martin với Gösta đến dinh thự. Nhưng ngay khi anh chuẩn bị rời đi, điện thoại lại reo. Lần này là đội Pháp y.

Đầy bối rối, anh tự trấn tĩnh lại để lắng nghe xem phòng thí nghiệm nói gì. Có lẽ cuối cùng cũng đã có mảnh ghép hình mà họ đang tìm kiếm. Nhưng ngay cả trong tưởng tượng điên rồ nhất của Patrik, anh cũng không bao giờ có thể đoán được tiếp theo mình sẽ được nghe tin gì.

Lúc Martin và Gösta đến dinh thự họ đã dành toàn bộ quãng đường đi để thảo luận về những gì Patrik đã nói. Điều đó chẳng có ý nghĩa gì với họ. Nhưng có vấn đề cấp bách hơn ngăn họ dừng lại ở câu hỏi hóc búa này. Điều duy nhất họ có thể làm bây giờ là cúi đầu xuống và lặn lội tiến về phía trước.

Tại chân cầu thang dẫn đến cửa trước họ phải trèo qua mấy cái va li lớn. Martin thắc mắc ai là người chuẩn bị đi xa. Trông có vẻ nhiều hành lý hơn số lượng Gabriel sẽ cần cho một chuyến công tác, và các túi xách còn có vẻ nữ tính khiến anh đoán nhiều khả năng chúng thuộc về Laine.

Lần này, họ không được dẫn vào phòng khách mà được đưa xuống một hành lang dài dẫn đến nhà bếp ở đầu kia của ngôi nhà. Đó là một căn phòng mà Martin thích ngay lập tức. Phòng khách đẹp, tất nhiên, nhưng nó mang một bầu không khí khá là phi cá tính. Bếp ngập tràn sự thoải mái, với vẻ đơn giản mộc mạc bất kể nét thanh nhã như một tấm màn che đến ngạt thở khắp dinh thự. Trong phòng khách Martin cảm thấy như một gã nhà quê, nhưng ở đây anh lại cảm thấy như muốn xắn tay áo lên để bắt đầu khuấy những cái nồi lớn bốc hơi nghi ngút.

Marita ngồi bên một bàn ăn lớn, mộc mạc, bị đẩy vào sát tường. Trông như thể cô đang tìm kiếm sự an toàn trong một tình huống đáng sợ và bất ngờ. Từ xa Martin có thể nghe thấy tiếng trẻ con la hét, và khi anh nghển cổ nhìn ra ngoài cửa sổ hướng ra khu vườn thì thấy hai đứa con của Jacob và Marita đang chạy chơi trên bãi cỏ lớn.

Gösta và Martin chỉ gật đầu với mọi người trong bếp. Rồi họ ngồi xuống với Marita bên bàn. Martin cảm thấy nơi đây có một bầu không khí kỳ lạ, nhưng anh không dám chắc nó là gì. Gabriel và Laine ngồi xa nhau hết sức có thể, và anh nhận thấy cả hai đều rất cẩn thận không nhìn nhau. Anh nghĩ về những hành lý ở cửa trước. Rồi anh nhận ra rằng Laine hẳn đã nói với Gabriel về mối quan hệ của bà ta với Johannes, rồi kết quả là vậy. Bảo sao mà bầu không khí lại khó hiểu thế này. Điều duy nhất giữ Laine ở lại dinh thự là mối quan tâm chung của họ với sự mất tích của Jacob.

“Hãy bắt đầu từ đầu,” Martin nói. “Ai là người gặp Jacob cuối cùng?”

Laine vẫy tay nhè nhẹ. “Là tôi.”

“Và đó là khi nào?” Gösta cũng tham gia thẩm vấn.

“Khoảng tám giờ. Sau khi tôi đón nó từ đồn cảnh sát.” Bà gật đầu với các sĩ quan đang đối diện với mình ở bàn.

“Và bà đã thả anh ta ở đâu?” Martin hỏi.

“Ngay trên đường tới Västergärden. Tôi đề nghị chở nó về tận nơi, nhưng nó bảo rằng không cần. Hơi khó quay đầu ở phía cuối đường, mà chỉ có một vài trăm mét đi bộ, nên tôi cũng không cố nài.”

“Tâm trạng của anh ta như thế nào?” Martin tiếp tục.

Bà lén nhìn Gabriel. Họ đều biết mình đang thực sự nói đến chuyện gì, nhưng không ai muốn nói thẳng ra. Martin hiểu ra rằng Marita có lẽ chưa biết về mối quan hệ gia đình giờ đã thay đổi của Jacob. Nhưng tiếc là bây giờ anh không thể chiếu cố đến chuyện đó được. Họ phải nắm được tất cả các sự kiện và không thể ngồi đây mà lo lắng về những chi tiết vụn vặt.

“Nó…” – Laine tìm cho đúng từ – “…trầm ngâm. Tôi thậm chí có thể nói rằng nó hình như hơi tổn thương.”

Marita hoang mang nhìn Laine, rồi nhìn cảnh sát.

“Mẹ đang nói về cái gì vậy? Tại sao Jacob lại bị tổn thương? Hôm qua các anh đã làm gì với anh ấy? Gabriel đã nói rằng anh ấy không còn là nghi can, vậy tại sao anh ấy lại buồn?”

Mặt Laine hơi rần rật, dấu hiệu duy nhất của những con bão cảm xúc đang quay cuồng bên trong bà, nhưng bà bình tĩnh đặt tay mình lên tay Marita.

“Hôm qua Jacob đã nhận được một tin đáng buồn, con ạ. Rất, rất nhiều năm trước mẹ đã làm một chuyện khiến mẹ day dứt trong một thời gian dài. Và nhờ cảnh sát” – bà hằn học liếc nhìn Martin và Gösta – “Jacob đã biết về chuyện đó đêm qua. Mẹ luôn có ý định nói cho nó biết, nhưng năm tháng trôi qua nhanh quá và mẹ nghĩ rằng mẹ đang chờ tới thời điểm thích hợp.”

“Thời điểm thích hợp cho cái gì?” Marita hỏi.

“Để nói với Jacob rằng Johannes mới là bố nó, chứ không phải Gabriel.”

Từng từ trong câu đều khiến Gabriel nhăn mặt và co rúm lại, như thể mỗi âm tiết là một nhát đâm vào tim ông ta. Nhưng vẻ bàng hoàng của ông ta đã không còn. Tâm trí ông ta đã bắt đầu xử lý thông tin và không còn khó khăn như khi nghe nó lần đầu tiên.

“Mẹ nói gì?” Marita nhìn Laine và Gabriel với đôi mắt mở to. Đoạn cô sụp xuống. “Ôi Chúa lòng lành, chuyện này hẳn đã làm anh ấy tan nát.”

Laine nao núng như thể vừa bị tát. “Chuyện gì xảy ra thì đã xảy ra,” bà nói. “Điều quan trọng bây giờ là tìm Jacob, và sau đó…” – bà ngừng lại – “…sau đó chúng ta sẽ giải quyết hết những chuyện còn lại.”

“Laine nói đúng. Dù kết quả xét nghiệm máu ra sao, trong lòng bố, Jacob vẫn là con trai của bố,” Gabriel nói, đặt tay lên ngực mình, “và chúng ta phải tìm thấy nó.”

“Chúng tôi sẽ tìm thấy anh ta,” Gösta nói. “Cũng không quá kỳ lạ khi anh ta muốn bỏ đi và dành thời gian suy nghĩ kỹ về chuyện đó.”

Martin rất biết ơn cái giọng trấn an mà Gösta có thể bật ra khi ông muốn. Bây giờ nó hoàn toàn phù hợp để xoa dịu mọi người, và Martin bình tĩnh quay trở lại với những câu hỏi của mình.

“Vậy Jacob không về nhà?”

“Không,” Marita nói. “Laine đã gọi cho tôi khi họ rời đồn, nên tôi biết anh ấy đang trên đường đi. Nhưng rồi khi anh ấy không về, tôi nghĩ rằng anh ấy hẳn đã về nhà với mẹ và ngủ lại đó. Không giống anh ấy lắm, tất nhiên, nhưng mặt khác thì thời gian gần đây anh ấy và cả gia đình đã căng thẳng nhiều, nên tôi nghĩ rằng anh ấy có thể cần dành thời gian cho bố mẹ.”

Khi nói những từ cuối cùng cô cũng liếc trộm Gabriel, nhưng ông ta chỉ cười yếu ớt. Sẽ mất thời gian trước khi họ có thể tính xem sẽ xử lý tình hình mới này ra sao.

“Mọi người biết chuyện xảy ra với Stefan như thế nào?” Martin hỏi.

“Solveig gọi sáng sớm nay.”

“Tôi nghĩ rằng hai nhà có… một mối bất hòa?” Martin hỏi một cách thận trọng.

“Vâng, anh có thể nói như vậy. Nhưng gia đình là gia đình, tôi cho là như thế, và khi tối lửa tắt đèn…” Gabriel nói nhỏ dần. “Linda đang ở bệnh viện. Hóa ra nó và Stefan đã gần gũi với nhau hơn cả tưởng tượng.” Gabriel cất tiếng cười kỳ cục, có chút cay đắng.

“Các anh có nghe thêm chuyện gì nữa không?” Laine hỏi.

Gösta lắc đầu. “Không, lần cuối chúng tôi nghe tin thì tình trạng của anh ta vẫn không thay đổi. Nhưng bây giờ Patrik Hedström đang trên đường đến Uddevalla, nên chúng tôi sẽ xem anh ta nói gì. Nếu có chuyện gì xảy ra, dù thế nào đi nữa, các người cũng sẽ được nghe tin cùng lúc với chúng tôi. Ý tôi là Linda có thể sẽ gọi trực tiếp về nhà.”

Martin đứng lên. “Vâng, tôi nghĩ rằng chúng tôi đã có tất cả những thông tin chúng tôi cần.”

“Các anh có nghĩ rằng kẻ đã cố giết Stefan cũng chính là kẻ đã giết cô gái người Đức không?” Môi dưới Marita khẽ run lên. Cô không cần phải giải thích điều mà cô thực sự muốn hỏi.

“Không có lý do gì để tin như vậy,” Martin nói nhẹ nhàng. “Tôi chắc chắn rằng chúng tôi sẽ sớm tìm hiểu được chuyện gì đã xảy ra. Ý tôi là, Stefan và Robert đã giao du với nhiều kẻ bất hảo, nên nhiều khả năng chúng tôi sẽ tìm thấy kẻ tấn công trong số đó.”

“Bây giờ các anh định làm gì để tìm Jacob?” Marita không chịu nhượng bộ. “Các anh có cử các đội tìm kiếm trong khu vực này không, hay là sao?”

“Không, có lẽ chúng tôi sẽ không bắt đầu như vậy. Thực lòng thì tôi nghĩ rằng anh ta đang ngồi ở đâu đó và đang suy nghĩ thật kỹ về… tình hình này. Anh ta có thể sẽ về nhà bất cứ lúc nào. Vậy nên điều tốt nhất chị có thể làm là ở nhà, rồi gọi điện trực tiếp cho chúng tôi và cho chúng tôi biết khi anh ta trở về nhà. Được chứ?”

Không ai nói một lời nào. Martin và Gösta nghĩ rằng vậy có nghĩa là họ đồng ý. Cảnh sát cũng chẳng thể làm được nhiều nhặn gì. Nhưng Martin phải thừa nhận rằng anh không tự tin như anh đã tỏ ra với gia đình Jacob. Thật là một sự trùng hợp kỳ lạ khi Jacob lại biến mất vào đúng buổi tối mà người em họ, em ruột, hoặc bất cứ cái tên nào khác dùng để gọi Stefan, bị tấn công.

Trên đường trở về đồn Martin nói với Gösta những gì mình đang suy nghĩ. Gösta gật đầu đồng ý. Ông cũng có cảm giác rằng không phải mọi thứ đều như lẽ ra phải thế. Những sự trùng hợp kỳ lạ rất hiếm khi xảy ra trong đời thực – chúng không phải là thứ mà cảnh sát có thể tin cậy được. Họ hy vọng rằng Patrik có thể tìm ra được nhiều điều hơn.