Chương 11 MÙA HÈ 2003
Cô tỉnh dậy với cơn đau đầu như búa bổ và cảm giác ngây ngấy trong miệng. Jenny không biết mình đang ở đâu. Điều cuối cùng cô nhớ được là ngồi trong chiếc xe đã dừng lại cho cô đi nhờ, và bây giờ cô đột ngột bị ném vào một thực tế kỳ dị, tăm tối. Lúc đầu, cô không sợ gì hết. Nó cứ như một giấc mơ, cô trông chờ được thức dậy ngay thôi và phát hiện ra rằng mình đã trở lại trong chiếc xe lưu động của gia đình.
Sau một hồi cô dần dần nhận thức được đây không phải là một giấc mơ mà cô có thể tỉnh dậy để thoát ra. Trong cơn hoảng loạn, cô bắt đầu mò mẫm trong bóng tối. Ở bức tường phía xa cô cảm thấy có những tấm ván gỗ dưới ngón tay mình. Một cầu thang. Cô bò lên cầu thang, dò dẫm từng bước. Đột ngột đầu cô bị đụng mạnh. Cô chỉ trèo lên được vài bước vì cái trần cản lại. Chứng sợ bị giam cầm của cô ập đến. Cô ước lượng rằng cô có thể đứng trên sàn nhà, mặc dù chỉ vừa đúng tầm vì trần rất thấp. Cô cũng cảm nhận thấy chỗ này không quá dài khi bò dọc các bức tường. Diện tích không thể hơn hai mét vuông. Hoảng loạn, cô quỳ ở bậc thang trên cùng và cố đẩy, cảm thấy tấm ván nhúc nhích một chút. Nhưng chúng không dịch chuyển. Cô nghe thấy tiếng kim loại lạch cạch và đoán rằng có thể có ổ khóa ở phía bên kia.
Sau vài lần thử đẩy nắp hầm lên, cô tuyệt vọng trèo xuống và ngồi trên nền đất, hai tay ôm lấy đầu gối. Tiếng bước chân trên đầu khiến cô di chuyển theo bản năng ra càng xa càng tốt.
Khi kẻ đó xuống lầu cô mường tượng được khuôn mặt hắn, mặc dù không hề có ánh sáng trong phòng. Cô đã nhìn thấy hắn khi hắn cho cô đi nhờ xe, và điều đó khiến cô sợ. Jenny có thể nhận dạng được hắn, và cô biết hắn lái loại xe nào. Điều đó có nghĩa là hắn sẽ không bao giờ để cô sống sót ra khỏi đây.
Cô bắt đầu hét lên, nhưng hắn nhẹ nhàng đặt tay lên miệng cô và nói dịu dàng. Khi đã tin chắc rằng cô sẽ không la hét nữa, hắn bỏ tay ra khỏi miệng cô và bắt đầu cẩn thận cởi quần áo của cô. Hắn vuốt ve chân tay cô với niềm vui thích, gần như là tình yêu. Cô nghe thấy hơi thở của hắn dần nặng nề hơn. Cô nhắm mắt lại để ngăn mình suy nghĩ về những gì sắp xảy ra.
Sau đó hắn xin lỗi. Rồi cơn đau ập đến.
Giao thông mùa hè đúng là chết người. Mỗi cây số nhích lên trên hành trình kế, Patrik càng bực mình, và khi rẽ vào bãi đậu xe tại bệnh viện Uddevalla anh buộc mình phải hít vài hơi thật sâu để bình tĩnh lại. Thường thì anh cũng không bực mình đến vậy với những chiếc xe lưu động nối đuôi nhau trên đường hay những du khách vừa lái xe chậm chạp vừa chỉ trỏ xung quanh mà không quan tâm đến cả hàng xe dài phía sau họ. Nhưng nỗi thất vọng trước kết quả phân tích máu đã góp phần đáng kể vào sự suy giảm khả năng chịu đựng của anh.
Anh gần như không tin vào tai mình. Không có mẫu nào khớp với DNA trong tinh dịch lấy từ cơ thể của Tanja. Vốn tin chắc rằng họ sẽ biết được danh tính của kẻ sát nhân khi có kết quả, nên anh vẫn chưa bình phục được sau cú sốc. Kẻ đã giết Tanja có họ hàng với Johannes Hult, sự thực đó là không thể chối cãi. Nhưng đó lại không phải là bất kỳ thân nhân nào đã được biết đến của ông ta.
Anh sốt ruột bấm số của đồn cảnh sát. Annika đi làm hơi muộn hơn thường lệ và anh phải chờ cô đến.
“Chào, Patrik đây. Xin lỗi vì nghe có vẻ thúc ép quá, nhưng liệu cô có thể tìm ngay xem liệu có thân nhân nào khác trong nhà Hult ở khu vực này được không? Tôi đang tự hỏi không biết Johannes Hult có đứa con ngoài giá thú nào không.”
Anh nghe cô ghi lại và bắt tréo ngón tay mình cầu nguyện. Đây là cọng rơm cuối cùng anh có thể vớ được, và anh thực lòng hy vọng rằng cô sẽ tìm thấy gì đó. Nếu không, tất cả những gì anh có thể làm là ngồi đây mà vò đầu bứt tai.
Anh phải thừa nhận rằng anh thích cái giả thuyết vừa nảy ra trong đầu trên đường đến Uddevalla. Ý tưởng rằng trong khu vực này Johannes có thể có một đứa con trai mà họ không biết. Với những gì họ đã biết về gã, điều đó không phải là không thể. Thực ra thì Patrik càng nghĩ càng thấy chuyện này có thể. Đây thậm chí có thể là một động cơ giết hại Johannes, Patrik nghĩ nhưng vẫn không thực sự biết làm sao để xử lý vụ việc. Ghen tuông là một động cơ rất lớn của những vụ giết người và cách ông ta bị giết cũng rất phù hợp với giả thuyết này. Một kẻ bốc đồng, giết người không suy nghĩ. Một cuộc tấn công giận dữ và ghen tuông mà kết thúc là cái chết của Johannes.
Nhưng chuyện đó có liên quan gì tới những vụ sát hại Siv và Mona? Đó là mảnh ghép mà anh không thể xếp vào đúng chỗ, nhưng có lẽ những phát hiện của Annika cũng sẽ giúp được họ.
Anh đóng sầm cửa xe và đi về phía cổng chính. Sau một hồi tìm kiếm và được các công chức ở hội đồng quản hạt thân thiện giúp đỡ, cuối cùng anh đã tìm thấy đúng chỗ. Trong phòng đợi anh thấy ba người mà mình đang tìm. Giống như những con chim đậu trên dây điện, họ đang ngồi cạnh nhau, không nói gì và mắt nhìn thẳng về phía trước. Tuy nhiên, anh nhìn thấy một tia sáng cháy lóe lên trong mắt Solveig khi bà ta thoáng nhìn thấy anh. Bà ta chậm chạp đứng dậy và lạch bạch đến gặp anh. Trông như thể bà ta đã không hề chớp mắt cả đêm. Quần áo bà ta nhàu nhĩ và bốc mùi bởi mồ hôi. Mái tóc nhờn bóng của bà ta rối bù, lại có quầng thâm dưới mắt. Robert nhìn cũng mệt mỏi như vậy. Chỉ có Linda trông còn tỉnh táo, với cái nhìn trong trẻo và vẻ ngoài gọn gàng. Cô vẫn không biết rằng gia đình mình đã tan vỡ.
“Các anh đã bắt được hắn chưa?” Solveig kéo nhẹ tay áo của Patrik.
“Thật không may, chúng tôi không có tin mới nào. Mọi người đã được các bác sĩ thông báo gì chưa?”
Robert lắc đầu. “Không, nhưng họ vẫn đang trong phòng mổ. Có gì đó liên quan đến áp lực lên não. Tôi nghĩ rằng họ đang mở toang hộp sọ của nó. Tôi sẽ rất ngạc nhiên nếu họ thực sự tìm thấy một bộ não trong đó.”
“Robert!” Solveig trở nên giận dữ và trừng mắt nhìn đứa con trai, nhưng Patrik hiểu hắn đang cố gắng làm gì. Hắn muốn che giấu sự lo lắng của mình và giảm bớt áp lực bằng cách đùa cợt về nó. Đó là một phương pháp cũng thường hiệu quả với anh.
Patrik ngồi xuống một cái ghế trống. Solveig cũng ngồi xuống.
“Kẻ nào làm điều này với thằng con tôi chứ?” Bà ta run lên trên ghế. “Tôi nhìn thấy nó khi người ta khiêng nó ra ngoài. Trông nó như một người xa lạ ấy. Không có gì khác ngoài máu me be bét cả.”
Linda nhăn nhó mặt mày. Robert không phản ứng gì. Khi Patrik nhìn gần hơn vào cái quần bò đen và áo len của hắn, anh có thể nhìn thấy những đốm máu lớn của Stefan vẫn còn trên đó.
“Anh không nghe thấy hay nhìn thấy gì đêm qua à?”
“Không,” Robert bực mình nói. “Chúng tôi đã nói với những sĩ quan khác rồi. Chúng tôi phải lặp lại bao nhiêu lần nữa đây?”
“Tôi xin lỗi, nhưng tôi phải hỏi những câu này. Tôi mong anh sẽ chịu đựng tôi một lúc.”
Sự thương cảm trong giọng anh là thật lòng. Công việc cảnh sát đôi khi có những khó khăn, đặc biệt là vào những dịp như thế này khi anh phải moi móc vào cuộc sống của những người đang mải suy nghĩ những điều quan trọng hơn. Nhưng anh đã nhận được sự giúp đỡ bất ngờ từ Solveig.
“Robert, hợp tác đi mà. Chúng ta nên làm mọi thứ có thể để giúp họ tìm ra kẻ nào đã làm chuyện này với Stefan của chúng ta, con biết vậy mà.” Bà ta quay sang Patrik.
“Tôi nghĩ mình đã nghe thấy một tiếng động, rồi một phút sau Robert gọi tôi. Nhưng chúng tôi không thấy ai, cả trước và sau khi chúng tôi tìm thấy thằng bé.”
Patrik gật đầu. Rồi anh nói với Linda, “Tối qua cháu có gặp Jacob anh trai cháu không?”
“Không,” Linda ngạc nhiên nói. “Cháu ở lại dinh thự. Anh ấy ở nhà tại Västergärden cơ mà? Tại sao chứ lại hỏi thế?”
“Có vẻ như tối qua anh ta không về nhà, nên chứ nghĩ rằng cháu có thể đã gặp anh ta.”
“Không, như cháu đã nói, cháu không gặp. Nhưng chứ cứ hỏi bố mẹ cháu ấy.”
“Bọn chú đã hỏi rồi. Họ cũng không gặp anh ta. Cháu có biết anh ta có thể ở chỗ nào khác không?”
Bây giờ thì Linda trông đã bắt đầu lo lắng. “Không, ở đâu được cơ chứ?” Rồi dường như một ý nghĩ lóe lên trong đầu cô. “Có thể anh ấy đến trang trại ở Bullaren và ngủ lại đó? Tất nhiên anh ấy chưa bao giờ làm vậy trước đây, nhưng…”
Patrik vỗ đùi. Thật điên rồ là họ đã không nghĩ đến Bullaren. Anh xin phép và đi ra ngoài gọi điện cho Martin. Martin sẽ phải lái xe ngay tới đó và kiểm tra xem sao.
Khi anh về đến phòng chờ thì không khí đã thay đổi. Trong lúc anh nói chuyện với Martin, Linda đã gọi điện về nhà bàng điện thoại di động. Giờ cô đang nhìn anh với toàn bộ sự thách thức của một thiếu niên.
“Chuyện gì đang xảy ra vậy? Bố cháu nói rằng Marita gọi cho chú và báo rằng Jacob mất tích, và có hai cảnh sát khác ở đó hỏi hàng loạt câu. Bố cháu có vẻ lo lắng phát khiếp ấy.” Cô chống nạnh đứng trước mặt Patrik.
“Không có lý do gì phải lo lắng cả,” anh nói, nhắc lại chính câu thần chú mà Gösta và Martin đã sử dụng ở dinh thự. “Anh trai cháu chắc chỉ muốn bỏ đi một lúc thôi, nhưng các chú sẽ nghiêm túc tiếp nhận các cuộc trình báo.”
Linda nhìn anh nghi ngờ, nhưng có vẻ hài lòng. Rồi cô thấp giọng nói, “Bố cháu cũng nói với cháu về chú Johannes. Khi nào thì chú mới định để cho họ biết chuyện đó?”
Cô hất hàm về phía Robert và Solveig. Patrik không thể không say mê nhìn đường cung mà mái tóc dài hoe vàng của cô vút lên trên không. Rồi anh tự nhắc nhở mình về tuổi của cô. Anh sửng sốt khi nghĩ rằng tất cả những biến động liên quan đến gia đình này lại có thể đã gây ra một xu hướng phóng đãng trong mình đến vậy.
Anh cũng trả lời bằng giọng thấp như thế, “Các chú đang đợi một chút. Bây giờ có vẻ không phải lúc, xét đến tình hình của Stefan ấy.”
“Chú sai rồi,” Linda bình tĩnh nói. “Bây giờ họ có thể cần vài tin tốt lành. Và tin cháu đi, cháu hiểu Stefan cũng đủ rõ để nói rằng phát hiện ra Johannes không tự tử sẽ là tin tức tốt lành trong nhà này. Vậy nếu chú không nói với họ, cháu sẽ nói.”
Thật là một cô nàng táo bạo. Nhưng Patrik cũng phải thừa nhận rằng cô nói đúng. Có lẽ anh đã chờ đợi quá lâu. Họ có quyền được biết.
Anh gật đầu quả quyết với Linda và hắng giọng rồi ngồi xuống.
“Solveig, Robert, tôi biết rằng mọi người đã phản đối khi chúng tôi khai quật mộ của Johannes.”
Robert nhảy lên khỏi ghế như một quả tên lửa. “Cái quái gì thế, anh điên à? Giờ anh định lôi chuyện đó ra à? Bây giờ chúng tôi còn không đủ lo lắng hay sao?”
“Ngồi xuống đi, Robert,” Linda cắt ngang. “Tôi biết chú ấy sẽ nói gì và tôi tin rằng cậu sẽ muốn nghe đấy.”
Sửng sốt khi thấy cô chị họ gầy gò lại ra lệnh cho mình, Robert ngồi xuống và im lặng. Patrik tiếp tục, còn Solveig và Robert trừng mắt nhìn anh, nhớ về nỗi sỉ nhục khi nhìn thấy quan tài của Johannes bị nâng lên khỏi lòng đất.
“Chúng tôi đã có một chuyên gia pháp y khám nghiệm… à… thi thể và ông ấy đã phát hiện một điều thú vị.”
“Thú vị,” Solveig khịt mũi. “À, chọn từ ngữ hay đấy.”
“Vâng, thứ lỗi cho tôi, nhưng không có cách nào diễn tả điều này hay hơn được. Johannes đã không tự tử. Ông ấy bị giết.”
Solveig há hốc miệng ra thở. Robert ngồi như bị đóng băng tại chỗ, không thể nhúc nhích.
“Anh nói gì?” Solveig nắm lấy tay Robert và hắn để mặc bà.
“Bà nghe tôi nói rồi đấy. Johannes đã bị giết. Ông ấy không tự tử.”
Nước mắt bắt đầu tuôn rơi từ đôi mắt vốn đã đỏ hoe của Solveig. Rồi cả tấm thân đồ sộ của bà ta bắt đầu run lên, Linda nhìn Patrik đắc thắng. Đó là những giọt nước mắt vui sướng.
“Tôi đã biết vậy mà,” Solveig nói. “Tôi đã biết rằng anh ấy sẽ không bao giờ làm như thế. Và tất cả những kẻ đã nói rằng anh ấy tự tử vì anh ấy đã giết những đứa con gái kia. Giờ họ sẽ phải rút lại hết mấy lời đó. Kẻ đã giết mấy đứa con gái hẳn đã sát hại Johannes của tôi. Họ sẽ phải bò bằng đầu gối đến mà câu xin sự tha thứ của chúng tôi. Tất cả những năm đó, chúng tôi đã…”
“Mẹ, đủ rồi,” Robert ngắt lời bà ta, nghe có vẻ khó chịu. Trông như thể hắn chưa thực sự nắm được những gì Patrik nói. Hắn có lẽ cần thời gian để những lời đó thấm vào.
“Giờ anh định làm gì để bắt kẻ đã giết Johannes?” Solveig nóng lòng hỏi.
Patrik quay lại đối diện với bà ta. “À, chuyện này có lẽ sẽ không dễ dàng. Vì nhiều năm đã trôi qua, và cũng không lưu được bằng chứng nào để cho chúng tôi một manh mối. Nhưng đương nhiên chúng tôi sẽ cố gắng, và sẽ làm hết sức mình. Đó là tất cả những gì tôi có thể hứa với bà.”
Solveig khịt mũi. “Vâng, nếu các anh cố sức để bắt kẻ giết Johannes như các anh đã cố đưa anh ấy vào tù, thì có phải không có vấn đề gì nữa không. Và bây giờ tôi lại càng muốn một lời xin lỗi từ phía cảnh sát hơn nữa!”
Bà ta trỏ tay về phía Patrik. Anh nhận ra đây là lúc để anh rời đi trước khi tình hình xấu hơn nữa. Anh liếc nhìn Linda, và cô kín đáo ra hiệu cho anh rời đi. Anh có yêu cầu cuối cùng cho cô. “Linda, nếu cháu nghe tin của Jacob, thì gọi điện cho các chú ngay nhé. Nhưng chú nghĩ rằng cháu nói đúng. Chắc anh ta ở Bullaren.”
Cô gật đầu, nhưng sự lo lắng vẫn còn trong mắt.
Họ vừa rẽ vào bãi đậu xe ở đồn cảnh sát thì Patrik gọi. Martin lái xe trở lại theo hướng Bullaren. Sau một buổi sáng mát mẻ, nhiệt độ lại bắt đầu leo lên trên thang nhiệt kế, anh bèn tăng thêm một nấc quạt nữa.
Gösta kéo cổ áo sơ mi ngắn tay của mình. “Giá như cái nóng này dịu đi một lúc.”
“Nếu đang ở trên sân golf chắc ông sẽ không phàn nàn gì,” Martin cười.
“Đó lại là chuyện hoàn toàn khác,” Gösta chua chát nói. Golf và tôn giáo là hai chuyện không ai được đùa cợt trong thế giới của ông. Trong một giây ngăn ngủi, ông ước mình lại được làm việc với Ernst. Công việc chắc chắn hiệu quả hơn khi đi với Martin, nhưng ông phải thừa nhận rằng ông thích lười biếng với Ernst hơn ông nghĩ. Ernst có sai lầm của ông ta, tất nhiên, nhưng ông ta không bao giờ phản đối nếu Gösta lẻn đi một vài giờ để đánh dăm quả bóng.
Ngay sau đó tấm ảnh của Jenny Möller xuất hiện trong tâm trí ông, và ông lập tức cảm thấy cực kỳ tội lỗi. Trong một khoảnh khắc ngắn ngủi của sự rõ ràng ông thấy mình đã trở thành một ông già cay đắng và thù địch, đáng sợ như bố mình khi ông ta về già. Nếu cứ tiếp tục như thế này, sớm hay muộn ông cũng sẽ ngồi một mình trong viện dưỡng lão mà lầm bầm về những bất công tưởng tượng giống như bố mình – mặc dù không có đứa con nào nhìn vào mình như bây giờ và rồi không có cảm giác tội lỗi vì không hoàn thành bổn phận.
“Anh có nghĩ hắn ở đây không?” ông nói để xua đi những suy nghĩ khó chịu của mình.
Martin ngập ngừng một lúc rồi nói, “Không, tôi sẽ rất ngạc nhiên nếu hắn ở đây. Nhưng cũng đáng để kiểm tra thử.”
Họ bước vào sân và lại ngạc nhiên vì khung cảnh bình dị trước mặt. Trang trại dường như mãi mãi tắm trong ánh nắng dịu dàng khiến cho màu đỏ đun nổi bật trong sự tương phản đáng yêu với hồ nước xanh phía sau nhà. Vẫn như trước, các thiếu niên chạy qua chạy lại, tập trung vào việc của mình. Từ ngữ nảy ra trong tâm trí Martin: đẹp đẽ, lành mạnh, sạch sẽ, hữu ích, Thụy Điển, và sự kết hợp của những từ đó truyền cho anh một cảm giác hơi khó chịu. Kinh nghiệm cho anh thấy rằng nếu một thứ gì đó trông quá tốt đẹp thì khó có thể là thật được.
“Chỗ này hơi có không khí của Đoàn Thanh niên Hitler nhỉ, anh có nghĩ thế không?” Gösta nói thành lời sự khó chịu của Martin.
“Ừ, có lẽ vậy. Mặc dù cách dùng từ của ông hơi gay gắt. Tôi sẽ không bình luận quá tùy tiện như thế đâu,” Martin lạnh nhạt nói.
Gösta trông có vẻ tự ái. “Xin lỗi,” ông gắt gỏng nói. “Tôi không biết anh là cảnh sát tư tưởng. Mà nhân tiện, họ sẽ không nhận những thằng như Kennedy nếu đây thực sự là một trại Quốc Xã chết tiệt.”
Martin bỏ qua lời nhận xét và đi về phía cửa trước. Một trong các nữ giáo viên ở trang trại mở cửa.
“Vâng, các anh muốn gì đây?”
Mối ác cảm của Jacob với cảnh sát rõ ràng đã lây lan khắp nơi.
“Chúng tôi đang tìm Jacob.” Gösta vẫn còn dỗi, Martin bèn nhận lấy vai trò chỉ huy.
“Anh ấy không có ở đây. Thử tìm ở nhà anh ấy xem.”
“Chị có chắc rằng anh ta không ở đây? Chúng tôi muốn tự mình kiểm tra.”
Bất đắc dĩ chị ta phải bước sang một bên và để hai cảnh sát vào trong. “Kennedy, cảnh sát lại đến này. Họ muốn xem văn phòng của Jacob.”
“Chúng tôi biết đường rồi,” Martin nói.
Chị ta phớt lờ anh. Với những sải chân nhanh nhẹn, Kennedy đến gần họ. Martin tự hỏi liệu hắn có phải là hướng dẫn viên thường trực ở trang trại không. Hay là hắn chỉ thích dẫn mọi người đi xem quanh nhà.
Không nói một lời, hắn dẫn Martin và Gösta xuống hành lang đến văn phòng của Jacob. Họ lịch sự cảm ơn hắn và mở cửa ra với đầy hy vọng. Không thấy Jacob đâu cả. Họ bước vào và cẩn thận nhìn xem có bất kỳ dấu vết nào có thể chỉ ra rằng Jacob đã qua đêm ở đây, một tấm chăn trên xô-pha, một chiếc đồng hồ báo thức, hay bất cứ điều gì. Nhưng không có gì cả. Thất vọng, họ rời khỏi văn phòng. Kennedy vẫn bình tĩnh chờ họ. Hắn giơ tay gạt tóc rủ xuống mặt, Martin thấy đôi mắt hắn tối tăm và khó dò.
“Không có gì cả. Không có cái quái gì cả,” Martin nói khi xe lại đang hướng về Tanumshede.
“Không,” Gösta nói cộc lốc. Martin đảo mắt. Ông ta rõ ràng vẫn còn hờn dỗi. Ừ, thế thì kệ ông ta.
Nhưng suy nghĩ của Gösta đã bị một vấn đề hoàn toàn khác choán hết. Ông đã nhận thấy một điều gì đó khi đến trang trại, nhưng nó cứ né tránh ông. Ông cố gắng không nghĩ về nó nữa và để cho tiềm thức của mình hoạt động, nhưng việc này cũng bất khả thi như việc lờ đi một hạt cát dưới mí mắt mình. Ông đã nhìn thấy gì đó – và lẽ ra ông nên nhớ.
“Thế nào rồi, Annika? Cô có tìm thấy gì không?”
Cô lắc đầu. Vẻ ngoài của Patrik khiến cô lo lắng. Ngủ quá ít, ăn quá ít và căng thẳng quá nhiều cuối cùng đã tước đi làn da rám nắng của anh và chỉ để lại một màu xanh xao. Cơ thể anh dường như chùng xuống dưới một gánh nặng nào đó, và không cần phải là thiên tài cũng đoán được gánh nặng đó là gì. Cô muốn bảo anh tách những cảm xúc cá nhân khỏi công việc, nhưng cô kìm lại. Cô cũng cảm thấy áp lực, và điều cuối cùng cô nhìn thấy trước khi cô nhắm mắt lại mỗi đêm là cái nhìn tuyệt vọng trên khuôn mặt bố mẹ Jenny Möller khi họ bước vào để báo con gái họ đã mất tích.
Cô quyết định giới hạn ý kiến của mình bằng một lời ngắn gọn: “Anh thế nào rồi?” Cô nhìn Patrik thông cảm qua vành kính.
“Cũng như mong đợi trong hoàn cảnh này thôi.” Anh sốt ruột vò tóc, làm cho nó dựng đứng lên như một bức tranh biếm họa vẽ ông giáo sư điên khùng.
“Như cứt, tôi đoán thế,” Annika thẳng thắn nói. Cô chưa bao giờ làm màu làm mè. Nếu nó là cứt, nó vẫn sẽ có mùi như cứt ngay cả khi đổ nước hoa lên. Đó là phương châm của cô.
Patrik mỉm cười. “Vâng, đại loại như thế. Nhưng về phần tôi thế là đủ rồi. Cô đã tìm thấy gì trong hồ sơ chưa?”
“Không, rất tiếc. Chẳng có gì trong sổ đăng ký công dân về bất kỳ đứa con nào khác của Johannes Hult, và không có nhiều chỗ để tìm.”
“Có thể vẫn có đứa con nào đó, mặc dù không được đăng ký?”
Annika nhìn anh như thể anh có chút chậm hiểu và khịt mũi, “Vâng, ơn Chúa, không có luật nào buộc người mẹ phải ghi rõ tên bố của con mình. Có thể hắn có vài đứa con ẩn dưới tiêu đề ‘Bố: không rõ’.”
“Để tôi đoán nhé, có khá nhiều đứa trẻ như vậy, phải không?”
“Không hẳn. Nó phụ thuộc vào việc anh muốn mở rộng phạm vi địa lý tìm kiêm ra bao nhiêu. Nhưng về khía cạnh này thì người ta đã thực sự đứng đắn một cách đáng ngạc nhiên. Và anh phải nhớ rằng không phải chúng ta đang nói về thập niên bốn mươi. Johannes đã tung hoành trong thập niên sáu mươi và bảy mươi. Và lúc đó cũng không có gì xấu hổ khi có một đứa con ngoài giá thú. Có một giai đoạn trong thập niên sáu mươi nó còn được coi gần như là một lợi thế.”
Patrik cười. “Nếu cô đang nói về thời kỳ Woodstock, thì tôi thực sự không nghĩ rằng Quyền Năng Hoa Lá và Tình Yêu Tự Do[*]có bao giờ đến được Fjällbacka.”
Quyền Năng Hoa Lá và Tình Yêu Tự Do là các phong trào của thanh niên hippy thập niên sáu mươi và bảy mươi.
“Đừng nói vậy. Tẩm ngẩm tầm ngầm…” Annika nói, hài lòng khi có thể khiến không khí vui lên một chút. Mấy ngày qua cảm giác đồn cảnh sát cứ như nhà tang lễ. Nhưng Patrik nhanh chóng nghiêm túc trở lại.
“Vậy về mặt lý thuyết, cô có thể lập một danh sách những đứa trẻ trong, ừm, quận Tanum, mà không được đăng ký tên bố không?”
“Vâng, tôi có thể làm được điều đó không chỉ về mặt lý thuyết, mà còn trong thực tế. Nhưng sẽ mất thời gian đấy,” Annika cảnh báo anh.
“Chỉ cần làm nhanh hết sức là được.”
“Anh sẽ sử dụng danh sách đó như thế nào để tìm ra những người có thể là con đẻ của Johannes?”
“Tôi định sẽ bắt đầu bằng cách gọi điện và hỏi thăm. Nếu cách đó không hiệu quả, tôi sẽ nghĩ cách khác.”
Cánh cửa ở khu tiếp tân mở ra và Martin và Gösta bước vào. Patrik cảm ơn Annika đã giúp đỡ và đi đến gặp họ. Martin dừng lại, nhưng Gösta dán mắt vào tấm thảm và đi thẳng vào văn phòng của mình.
“Đừng hỏi,” Martin nói, lắc đầu.
Patrik chau mày. Xích mích giữa các đồng sự là điều anh không bao giờ mong muốn. Cách cư xử của Ernst đã đủ tệ hại lắm rồi. Martin đọc được suy nghĩ của anh.
“Không có gì nghiêm trọng đâu, đừng lo lắng.”
“Được rồi. Chúng ta uống một tách cà phê trong phòng ăn và đối chiếu các ghi chép nhé?”
Martin gật đầu. Họ đi vào, rót một chút cà phê và ngồi xuống đối diện nhau bên bàn ăn. Patrik nói, “Anh có tìm thấy dấu vết của Jacob ở Bullaren không?”
“Không, không thấy gì cả. Không có vẻ gì là anh ta đã từng ở đó. Còn anh thì thế nào rồi?”
Patrik kể nhanh về chuyến thăm của anh đến bệnh viện.
“Anh nghĩ tại sao kết quả phân tích máu lại không được tích sự gì cả?” Martin hỏi. “Chúng ta biết rằng thủ phạm có họ hàng với Johannes, nhưng không phải là Jacob, Gabriel, Stefan hoặc Robert. Và xét về tính chất của mẫu, chúng ta có thể loại ngay những người phụ nữ. Anh có ý gì không?”
“Có, tôi đã bảo Annika cố gắng soạn ra dữ liệu để xem Johannes có con ngoài giá thú trong khu vực này không.”
“Nghe thông minh đấy. Với một kẻ như ông ta thì tôi sẽ rất ngạc nhiên nếu ông ta không rải con ngoài giá thú khắp nơi.”
“Anh nghĩ gì về giả thuyết rằng chính kẻ đã đánh Stefan giờ lại nhắm vào Jacob?” Patrik thận trọng hớp một ngụm cà phê. Nó mới pha và còn đang nóng giãy.
“Không thể phủ nhận được, đó là một sự trùng hợp rất kỳ lạ. Anh nghĩ sao?”
“Cũng như anh. Thật là một sự trùng hợp kỳ lạ nếu không phải là cùng một người. Có vẻ như Jacob đã hoàn toàn không cánh mà bay. Từ đêm qua không ai thấy anh ta đâu cả. Tôi phải thừa nhận rằng tôi đang lo lắng.”
“Suốt thời gian qua anh đã có linh cảm rằng Jacob đang giấu giếm gì đó. Có thể đó là lý do khiến chuyện này xảy ra với anh ta?” Martin ngập ngừng nói. “Có thể kẻ nào đó nghe nói anh ta đã bị tạm giam tại đồn cảnh sát và nghĩ rằng anh ta sẽ lỡ miệng chuyện gì đó, một chuyện mà kẻ này không muốn bị lộ ra?”
“Có thể,” Patrik nói. “Nhưng đó chính là vấn đề. Bây giờ bất cứ điều gì cũng có thể, và tất cả chúng ta có chỉ là các suy đoán.” Anh đếm trên đầu ngón tay. “Chúng ta có Siv và Mona bị giết năm 79 – Johannes bị giết năm 79 – bây giờ, hai mươi tư năm sau, Tanja bị giết – Jenny Möller bị bắt cóc, có lẽ khi xin đi nhờ xe – Stefan bị đánh đêm qua và thậm chí có thể sẽ chết, còn tùy xem tiên lượng thế nào – còn Jacob đã biến mất không một dấu vết. Suốt thời gian đó gia đình Hult có vẻ là mẫu số chung, nhưng chúng ta lại có bằng chứng rằng không ai trong số họ gây ra cái chết của Tanja. Và tất cả các manh mối đều chỉ ra rằng kẻ giết Tanja cũng đã giết Siv và Mona.” Anh vung tay lên trong nỗi thất vọng. “Đúng là một mớ hỗn độn, thật đấy. Còn chúng ta đang ở giữa cái đống đó và chẳng biết cái mẹ gì cả.”
“Anh lại đọc quá nhiều những tuyên truyền chống cảnh sát đó rồi,” Martin vừa nói vừa cười to.
“Vậy chúng ta phải làm gì bây giờ? Tôi hết ý tưởng rồi. Thời gian của Jenny Möller sắp cạn, hoặc có thể đã quá muộn rồi.” Anh vội vã thay đổi chủ đề để vực mình dậy khỏi những suy nghĩ buồn rầu. “Nhân tiện, anh đã mời cô kia đi chơi chưa?”
“Cô nào?” Martin hỏi, cố bày ra vẻ mặt dửng dưng.
“Đừng có giả vờ. Anh biết ý tôi mà.”
“Nếu anh đang nói đến Pia, thì không có bất cứ chuyện gì như thế cả. Cô ấy đã giúp chúng ta phiên dịch một chút, vậy thôi.”
“Cô ấy đã giúp chúng ta phiên dịch một chút, vậy thôi,” Patrik nhại bằng giọng the thé, lúc lắc đầu. “Thôi nói thẳng ra đi. Tôi có thể thấy rõ anh nghĩ gì khi anh kể về cô ấy. Mặc dù cô ấy có thể không phải là mẫu người của anh. Anh chắc là cô ấy không có bạn trai đấy chứ?” Patrik mỉm cười châm chọc.
Martin đang chực độp lại một câu thật cay thì điện thoại di động của Patrik reo lên.
Dỏng tai lên, Martin căng thẳng nghe ngóng xem ai đang ở đầu dây bên kia. Anh nghe thấy gì đó về phân tích máu, nên có thể là ai đó ở phòng thí nghiệm. Anh chỉ có thể đoán được đến thế. Anh không thể lượm lặt thêm điều gì khác từ phần Patrik nói trong cuộc đàm thoại:
“Ý anh là gì khi nói là kỳ quặc? A ha… Tôi thấy rồi. Anh nói cái quái gì thế? Nhưng làm sao có thể… Được rồi…”
Martin phải kìm lại thôi thúc hét lên. Vẻ mặt Patrik thay đổi, chỉ ra rằng có gì đó to tát đang diễn ra, nhưng Patrik kiên quyết chỉ trả lời bằng một từ đơn với người ở phòng thí nghiệm.
“Vậy anh nói là anh đã xác lập được bán đồ các mối quan hệ gia đình của họ.” Patrik gật đầu với Martin để cho thấy rằng anh đã cố gắng chia sẻ một ít thông tin trong cuộc trò chuyện.
“Nhưng tôi vẫn không hiểu làm sao mà khớp với…? Không, điều đó hoàn toàn không thể. Ông ta chết rồi. Phải có một lời giải thích khác chứ. Không, nhưng vì Chúa, anh là chuyên gia cơ mà. Nghe tôi nói và suy nghĩ về điều đó nhé. Phải có một lời giải thích.”
Patrik trông như thể anh đang căng thẳng chờ đợi trong khi người ở đầu dây bên kia đang suy nghĩ.
Martin thì thầm, “Có chuyện gì?”
Patrik giơ một ngón tay lên để suỵt anh. Bây giờ anh rõ ràng là đã nhận được câu trả lời.
“Nó không khiên cưỡng chút nào. Đặc biệt trong trường hợp này, thực sự hoàn toàn hợp lý.”
Mặt Patrik sáng lên. Martin có thể thấy sự nhẹ nhõm lan tỏa như một làn sóng khắp cơ thể người đồng nghiệp của mình, trong khi bản thân anh thì đang cào thành những rãnh dài trên bàn.
“Chúa ơi! Cảm ơn! Cảm ơn rất nhiều!” Patrik gập điện thoại lại và quay sang Martin, vẻ thỏa mãn vẫn tỏa sáng trên mặt anh.
“Tôi biết kẻ nào đang giữ Jenny Möller rồi! Và nghe chuyện này anh sẽ không tin vào tai mình đâu…”
Ca mổ đã xong. Stefan được đẩy đến phòng hồi sức, nối với các loại vòi và ống, chìm hẳn vào trong thế giới tối tăm của chính mình. Robert ngồi bên giường nắm tay Stefan. Solveig đã miễn cưỡng bỏ họ lại đó để đi tìm nhà vệ sinh, và hắn đã được ở một mình với em trai một lát, vì Linda không được phép vào trong. Họ không muốn có quá nhiều người thân trong phòng cùng một lúc.
Chiếc ống to dẫn vào miệng Stefan được nối với một cái máy kêu vo vo. Robert phải buộc mình không được thở theo nhịp điệu giống cái máy hô hấp. Cứ như thể hắn muốn giúp Stefan thở, bất cứ việc gì có thể mang đi cảm giác bất lực đe dọa sẽ chế ngự hắn.
Hắn vuốt ve lòng bàn tay Stefan bằng ngón tay cái của mình. Hắn định thử xem chỉ tay của em trai, nhưng đành bỏ cuộc vì không biết đường nào trong ba đường là đường sinh mệnh. Stefan có hai đường dài và một đường ngắn. Robert hy vọng rằng đường ngắn là đường tình duyên.
Ý nghĩ về một thế giới không có Stefan khiến hắn thấy chóng mặt vì sự trống rỗng. Hắn biết rằng trong hai anh em mình thường tỏ ra mạnh mẽ hơn, là người chỉ huy. Nhưng sự thật là không có Stefan, hắn chẳng là gì hết. Robert cần lòng tốt của Stefan để duy trì cảm giác của mình về nhân tính. Lòng từ tâm mà hắn từng cảm nhận được đã biến mất khi hắn tìm thấy thi thể của bố mình. Nếu không có Stefan, sự khắc nghiệt bên trong sẽ chiếm đoạt hắn.
Robert tiếp tục hứa hẹn khi ngồi bên giường bệnh của em trai mình. Hứa rằng tất cả sẽ khác, chỉ cần Stefan được sống. Hắn hứa sẽ không bao giờ ăn cắp nữa, sẽ có việc làm, cố gắng dành đời mình cho điều gì đó tốt đẹp – và thậm chí hắn còn hứa sẽ cắt tóc.
Hắn đã hứa lời cuối cùng với sự khiếp sợ, nhưng thật đáng ngạc nhiên, nó dường như lại là điều làm nên tất cả sự khác biệt. Hắn cảm thấy chút run rẩy trên tay Stefan, ngón trỏ nhúc nhích rất khẽ, như thể thằng em đang cố gắng để vuốt ve bàn tay Robert. Không nhiều, nhưng đó là tất cả những gì Robert cần. Hắn háo hức đợi Solveig quay trở lại. Hắn mong được nói với bà ta rằng Stefan rồi sẽ ổn.
“Martin, có một gã gọi điện thoại nói rằng gã có thông tin về vụ hành hung Stefan Hult.” Annika ló đầu ra khỏi cửa, Martin dừng chân và quay lại.
“Chết thật, bây giờ tôi không có thời gian.”
“Tôi bảo gã gọi lại nhé?”
“Không, con mẹ nó, không, tôi sẽ nghe.” Martin chạy vào vấn phòng của Annika và nhận lấy điện thoại từ tay cô. Sau một hồi lắng nghe chăm chú và hỏi thêm vài câu, anh gác máy và chạy ra cửa.
“Annika, Patrik và tôi phải đi. Cô có thể liên lạc với Gösta và bảo ông ấy gọi di động cho tôi ngay được không? Còn Ernst đâu rồi?”
“Gösta và Ernst đi ăn trưa, nhưng tôi sẽ gọi cho họ.”
“Tốt.” Anh chạy đi.
Vài giây sau, Patrik xông vào.
“Cô đã liên lạc với Uddevalla chưa, Annika?”
Cô giơ ngón cái lên với anh. “Tất cả đã rõ, họ đang trên đường rồi!”
“Tuyệt!” Anh quay người để đi nhưng rồi lại dừng lại. “Tôi quên nói với cô, cô không phải lập danh sách bọn trẻ không cha nữa nhé.”
Rồi cô nhìn theo khi anh chạy biến đi, vội vã dọc theo hành lang. Nhiệt huyết ở đồn cảnh sát đã dâng cao đến mức có thể chạm vào được. Patrik đã vội vàng nói với cô chuyện vừa xảy ra, và cô có thể cảm thấy niềm phấn khích râm ran trong bàn tay và bàn chân mình. Thật là nhẹ nhõm khi cuối cùng cũng có được một bước đột phá trong công việc điều tra, và bây giờ thì mỗi phút đều đáng kể. Cô vẫy tay với Patrik và Martin khi họ chạy qua cửa sổ và rời đồn. “Chúc may mắn!” cô gọi với theo, không chắc họ có nghe thấy không. Cô nhanh chóng bấm số của Gösta.
“Ừ, như hạch, Gösta ạ. Hai chúng ta ngồi đây trong khi lũ trống choai kia khệnh khạng đi lại.” Ernst lại nói đến chủ đề ưa thích, còn Gösta phải thừa nhận rằng nó đã bắt đầu khiến ông bực mình. Mặc dù trước đây cũng có lúc ông mắng nhiếc Martin, nhưng đó chủ yếu là vì tức giận khi bị một kẻ thậm chí còn không bằng nửa tuổi mình khiển trách. Sau đó, ông nhận ra rằng đó cũng không phải là chuyện gì to tát.
Họ lấy xe đến Grebbestad và ngồi ăn trưa ở nhà hàng Telegrafen. Ở Tanum không có nhiều hàng quán để lựa chọn, và họ cũng rất nhanh chán. Mà Grebbestad chỉ cách đó mười phút về phía bờ biển.
Điện thoại của Gösta đang nằm trên bàn. Khi nó reo vang, cả hai đều thấy trên màn hình hiển thị số của đồn cảnh sát.
“Chết tiệt, đừng có trả lời. Anh có quyền ăn trưa trong yên ổn chứ.” Ernst vươn tới định tắt điện thoại của Gösta, nhưng một cái nhìn từ người đồng nghiệp đã ngăn ông ta lại.
Đang là giờ cao điểm buổi trưa. Vài khách hàng quắc mắt giận dữ khi thấy một người đủ mặt dày để nhận một cuộc gọi giữa nhà hàng. Gösta trừng mắt lại và nói to hơn. Sau khi kết thúc cuộc gọi, ông đặt một tờ tiền lên bàn, đứng dậy và ra hiệu cho Ernst đứng lên theo.
“Chúng ta có việc để làm rồi.”
“Không đợi được à? Tôi còn chưa đớp một miếng nào đây.”
“Anh có thể ăn tạm gì đó ở đồn sau. Bây giờ chúng ta phải đi đón một gã.”
Lần thứ hai trong ngày hôm đó Gösta lại hướng về phía Bullaren – lần này ông ngồi sau tay lái. Ông nói với Ernst những gì Annika đã chỉ dẫn. Nửa giờ sau, khi họ tới nơi, họ thấy một thằng bé đang chờ mình bên đường, đúng như Annika đã nói, cách trang trại một quãng ngắn.
Họ dừng xe và bước ra ngoài.
“Cậu là Lelle hả?” Gösta hỏi.
Thằng bé gật đầu. Nó cao lớn và vạm vỡ, với cái cổ của một đô vật và bàn tay khổng lồ. Như thể sinh ra để trở thành một thằng bảo kê, Gösta nghĩ thầm. Hoặc tay sai, như trong trường hợp này. Nhưng là một tay sai có lương tâm, hoặc có vẻ như thế.
“Cậu đã gọi điện cho chúng tôi, vậy hãy nói đi,” Gösta nói.
“Ờ, nghe thử xem. Nào, bắt đầu nói đi,” Ernst hung hăng nói, Gösta liền bắn cho ông ta một cái nhìn cảnh cáo. Nhiệm vụ này không cần ông ta phô trương sức mạnh cơ bắp.
“À, như cháu đã nói với cái cô ở đồn đó, hôm qua Kennedy và cháu đã làm một chuyện ngớ ngẩn.”
Một chuyện ngớ ngẩn, Gösta nghĩ. Thằng bé chắc chắn đã nói giảm nói tránh đi.
“Sao?”
“Bọn cháu đã đánh một thằng, cái thằng có họ hàng với Jacob ấy.”
“Stefan Hult?”
“Vâng, cháu nghĩ tên thằng đấy là Stefan.” Giọng thằng bé trở nên the thé. “Cháu thề, cháu không biết Kennedy lại mạnh tay thế. Nó bảo nó sẽ chỉ nói chuyện với thằng kia thôi. Chỉ đe dọa một chút. Không có gì nặng nề cả.”
“Nhưng chuyện xảy ra thì không như vậy.” Gösta cố gắng để lên giọng cha chú, nhưng không thành công lắm.
“Không, Kennedy lại lên con rồ dại. Nó cứ lèm bèm một hồi nào thì Jacob tốt đẹp vãi này vãi nọ và thằng kia, ý cháu là Stefan ấy, không hiểu sao bật lại tanh tách và phét lác cái gì đó mà Kennedy muốn nó rút lại, và khi Stefan bảo không, thì Kennedy thực sự mất trí và bắt đầu đập nó vãi mật.”
Đến đây, thằng bé phải dừng lại và lấy hơi. Gösta nghĩ rằng ông có thể hiểu được phần lớn những gì nó nói, nhưng ông không chắc chắn cho lắm. Bọn trẻ thời nay hình như không nói cùng ngôn ngữ với ông nữa.
“Thế lúc đó thì mày làm gì? Chơi vớ chơi vẩn trong vườn à?” Ernst khinh khỉnh nói. Ông ta liền nhận được một cái lườm từ Gösta.
“Cháu đã giữ thằng đó,” Lelle lặng lẽ nói. “Cháu giữ tay nó nên nó không đánh lại được, nhưng cháu không biết Kennedy lại phát rồ lên như thế. Làm sao mà cháu biết được cơ chứ?” Thằng bé hết nhìn Gösta đến Ernst rồi nhìn lại Gösta. “Vậy bây giờ thì sao? Cháu cứ ở đây được không? Hay là cháu sẽ phải đi tù?”
Nó to con vậy mà gần như òa khóc. Trông nó như một thằng bé đang sợ hãi, và Gösta không phải nỗ lực để ra vẻ cha chú nữa – bây giờ giọng ông hoàn toàn tự nhiên.
“Ta sẽ nói chuyện đó sau. Ta sẽ phải làm cho ra nhẽ. Bây giờ thì điều quan trọng nhất là chúng tôi phải nói chuyện với Kennedy. Cậu có thể chờ ở đây trong khi chúng tôi lái xe qua và bắt hắn, hoặc chờ trong xe. Cậu chọn đi.”
“Cháu sẽ chờ trong xe,” Lelle thấp giọng nói. “Đằng nào thì những đứa khác cũng sẽ biết rằng cháu đã hớt lẻo về Kennedy.”
“Được rồi, đi thôi.”
Họ lái xe vài trăm mét cuối cùng đến trang trại. Người phụ nữ sáng hôm đó đã tiếp Gösta và Martin giờ lại ra mở cửa. Sự khó chịu của chị ta đã tăng thêm một bậc.
“Giờ các ông muốn gì? Chúng tôi sẽ phải lắp một cái cửa xoay cho cảnh sát mất. Tôi thề, tôi chưa bao giờ thấy chuyện gì như thế này. Bao năm qua chúng tôi đã hợp tác với cảnh sát như thế mà…”
Gösta ngắt lời chị ta bằng cách giơ tay lên. Nhìn ông trang nghiêm như đi đưa đám, “Chúng tôi không có thời gian để tranh cãi. Chúng tôi cần phải nói chuyện với Kennedy. Ngay bây giờ.”
Nghe thấy vẻ trầm trọng trong giọng ông, chị ta ngay lập tức gọi Kennedy tới. Khi nói tiếp, giọng chị ta đã nhẹ nhàng hơn.
“Các ông muốn gì với Kennedy? Nó gây chuyện à?”
“Cô sẽ nghe chi tiết sau,” Ernst cộc cằn nói. “Bây giờ chúng tôi chỉ có việc là đưa cậu ta đến đồn cảnh sát và nói chuyện với cậu ta ở đó. Chúng tôi cũng mang thằng bé bự, Lelle, đi nữa.”
Kennedy bước ra khỏi bóng tối. Hắn mặc quần đen và áo sơ mi trắng. Với mái tóc chải gọn gàng, hắn trông giống như một cậu bé học trường nội trú ở Anh, chứ không phải là một tội phạm đã từng học trường giáo dưỡng. Hình ảnh này bị nhiễu bởi những vết xước lớn trên các đốt ngón tay. Gösta chửi thề với chính mình. Đó là những gì ông đã nhận thấy trước đó. Đáng lẽ ông phải nhớ ra mới phải.
“Tôi có thể giúp gì cho các quý ông?” Giọng Kennedy khá ngân nga, nhưng có lẽ lại thành ra quá trớn. Họ có thể nghe ra hắn đã bỏ nhiều công sức để nói cho đúng, điều này đã làm giảm đi toàn bộ hiệu ứng.
“Chúng tôi đã nói chuyện với Lelle. Nên cậu sẽ phải đi với chúng tôi đến đồn cảnh sát.”
Kennedy cúi đầu im lặng phục tùng. Nếu có điều gì Jacob đã dạy hắn, thì đó là một người phải chịu hậu quả từ những hành động của mình sao cho xứng đáng trước mặt Chúa.
Hắn nuối tiếc nhìn quanh một lần cuối cùng. Hắn sẽ rất nhớ trang trại.
Họ ngồi im lặng đối diện nhau. Marita đã mang bọn trẻ đi cùng về Västergärden để chờ Jacob. Bên ngoài những con chim mùa hè hót líu lo, nhưng trong nhà thì rất yên tĩnh. Hành lý vẫn còn ở bậc thềm cửa trước. Laine không thể nào rời đi trước khi bà biết chắc Jacob không hề hấn gì.
“Anh có nghe tin gì từ Linda không?” bà ngập ngừng hỏi, sợ ảnh hưởng đến thỏa thuận tạm thời ngưng bắn mong manh giữa mình và Gabriel.
“Không, vẫn chưa. Khổ thân Solveig,” Gabriel nói.
Laine nghĩ về những năm tháng bị tống tiền, nhưng không nói gì. Một bà mẹ không thể không thông cảm cho bà mẹ khác đang có đứa con bị thương.
“Anh có nghĩ rằng Jacob cũng…?” Những từ ngữ tắc nghẹn trong cổ họng bà.
Bất ngờ Gabriel đặt tay lên tay bà. “Không, anh không nghĩ vậy. Em nghe cảnh sát nói rồi đấy. Nó chắc đang ở đâu đó suy nghĩ mọi chuyện thôi. Nó có rất nhiều chuyện để suy nghĩ mà.”
“Vâng, chắc chắn là có,” Laine cay đắng nói.
Gabriel không nói gì, nhưng cứ giữ tay mình trên tay bà. Thật ngạc nhiên khi điều đó lại an ủi bà, và bà chợt nhận ra đây là lần đầu tiên trong suốt những năm qua Gabriel đã thể hiện sự dịu dàng đến thế với bà. Một cảm giác ấm áp truyền khắp cơ thể bà, nhưng đồng thời cũng trộn lẫn với nỗi đau chia ly. Bà không muốn rời bỏ ông. Bà đã giành quyền chủ động để ông đỡ phải chịu bẽ bàng khi đuổi bà đi, nhưng đột nhiên, bà không chắc mình có làm đúng hay không. Rồi ông bỏ tay ra và khoảnh khắc đó trôi qua.
“Em biết đấy, giờ nhìn lại anh nhận ra mình đã luôn cảm thấy Jacob giống Johannes hơn anh. Anh thấy nó như một trò trêu ngươi của số phận. Bề ngoài thì có vẻ như Ephraim và anh thân thiết với nhau hơn là ông ấy và Johannes. Bố đã sống ở đây với chúng ta, anh thừa hưởng dinh thự và mọi thứ. Nhưng đó không phải là sự thật. Lý do họ xung đột với nhau nhiều đến thế là vì họ cơ bản rất giống nhau. Đôi khi có vẻ như Ephraim và Johannes thực sự là cùng một người. Anh luôn luôn là người ngoài. Cho đến khi Jacob được sinh ra và anh thấy quá nhiều hình bóng của cả bố và em trai anh trong nó. Cứ như mở ra cho anh một cơ hội được gia nhập nhóm. Nếu anh có thể ràng buộc con trai thật chặt chẽ vào với anh và hiểu nó từ trong ra ngoài, thì cũng giống như đồng thời hiểu được cả Johannes và Ephraim. Anh sẽ trở thành một phần trong nhóm.”
“Em biết,” Laine nhẹ nhàng nói, nhưng Gabriel dường như không nghe thấy. Ông vừa nhìn ra ngoài cửa sổ vào khoảng không vừa tiếp tục nói.
“Anh ghen tị với Johannes. Nó thực sự tin vào những lời dối trá của bố rằng bọn anh có thể chữa lành cho mọi người. Hãy tưởng tượng cái sức mạnh đức tin đã cho nó! Nhìn vào đôi bàn tay mình và nghĩ rằng chúng là những công cụ của Chúa. Xem mọi người đứng dậy và bước đi, khiến những người mù nhìn thấy và biết rằng mình đã làm nên điều đó. Bản thân anh chỉ thấy một trò diễn. Anh thấy bố anh đứng trong cánh gà, hướng dẫn, chỉ đạo, và anh căm ghét từng phút một. Johannes chỉ thấy những người ốm đau trước mặt mình. Nó chỉ thấy đó là kênh truyền hình trực tiếp của nó với Chúa. Nó buồn làm sao khi bức màn khép lại. Và anh chẳng thông cảm cho nó chút nào. Thay vào đó anh đã vui mừng khôn xiết. Cuối cùng bọn anh có thể là những đứa con trai bình thường, Johannes và anh. Cuối cùng bọn anh cũng bình đẳng. Nhưng điều đó không bao giờ xảy ra. Johannes tiếp tục mê hoặc mọi người, trong khi anh, anh…” Giọng ông tắc nghẹn.
“Anh có tất cả sức mạnh mà Johannes có. Nhưng anh không dám sử dụng nó, Gabriel. Đó là sự khác biệt giữa hai người. Nhưng tin em đi, nó ở đó.”
Lần đầu tiên trong suốt những năm tháng bên nhau bà nhìn thấy những giọt nước mắt của ông. Ngay cả khi Jacob ốm nặng nhất ông cũng không dám rơi nước mắt. Bà cầm lấy tay ông và ông siết chặt tay bà.
Gabriel nói, “Anh không thể hứa rằng anh sẽ tha thứ. Nhưng anh hứa rằng anh sẽ cố gắng.”
“Em biết. Tin em đi, Gabriel, em biết.” Bà đặt tay ông lên má mình.
Mỗi giờ qua đi Erica càng lúc càng lo lắng. Cô thấy lưng đau như bị dần và cô lơ đãng mát xa chỗ đó bằng mấy đầu ngón tay. Suốt buổi sáng, cô đã cố gọi cho Anna, vào số cố định và số di động, nhưng không có hồi âm. Tra danh bạ, cô liên lạc được với Gustav, nhưng anh ta nói rằng hôm trước anh ta đã đưa Anna và bọn trẻ xuống Uddevalla rồi họ đáp tàu từ đó. Chắc họ đã đến Stockholm ngay tối hôm ấy. Erica bực mình vì anh ta không có vẻ lo lắng chút nào. Anh ta bình tĩnh đưa ra một loạt các giải thích hợp lý: họ có thể đã mệt mỏi và rút dây điện thoại, pin điện thoại đã hết, hoặc, anh ta cười, có lẽ Anna đã không trả tiền hóa đơn điện thoại. Câu này khiến Erica giận sôi lên, và cô gác máy luôn. Nếu lúc trước cô vẫn chưa lo lắng đủ, thì giờ đã chắc chắn rồi.
Cô thử gọi cho Patrik để hỏi ý anh, hay ít nhất cũng để được anh hỗ trợ, nhưng anh không trả lời, cả điện thoại di động lẫn điện thoại văn phòng của anh. Cô gọi đến đồn thì Annika nói rằng anh đã ra ngoài làm nhiệm vụ và không biết khi nào anh sẽ trở lại.
Erica cứ điên cuồng gọi điện thoại. Cảm giác đau xé ruột xé gan mãi không dứt. Ngay khi cô định bỏ cuộc thì có người trả lời điện thoại di động của Anna.
“Chào?” Giọng trẻ con. Erica nghĩ chắc là Emma.
“Chào cháu yêu, là bác đây. Nói cho bác biết, cháu đang ở đâu?”
“Ở Stockholm,” Emma ngọng nghịu nói. “Em bé đến chưa ạ?”
Erica mỉm cười. “Chưa, chưa đến. Nghe này, Emma, bác nói chuyện với mẹ cháu được không?”
Emma phớt lờ câu hỏi. Bây giờ nó đã may mắn có được điện thoại của mẹ và thậm chí còn trả lời một cuộc gọi, nó không có ý định từ bỏ dễ dàng như vậy.
“Bác có biết gì khôôông?” Emma hỏi.
“Không, bác không biết,” Erica nói, “nhưng cháu yêu, chúng ta có thể nói chuyện đó sau. Bác thực sự muốn nói chuyện với mẹ cháu ngay bây giờ.” Cô dần mất hết kiên nhẫn.
“Bác có biết gì khôôông?” Emma bướng bỉnh nhắc lại.
“Không, gì thế?” Erica thở dài mệt mỏi.
“Chúng cháu chuyển nhà!”
“Ừ, bác biết, cháu chuyển nhà lâu rồi mà.”
“Không, hôm nay cơ!” Emma đắc thắng nói.
“Hôm nay?”
“Vâng, chúng cháu về nhà với bố,” Emma thông báo.
Căn phòng bắt đầu quay cuồng trước mắt Erica. Nhưng cô chưa kịp nói thêm gì thì đã nghe thấy Emma nói, “Chào bác, cháu phải đi chơi đây.” Rồi kết nối bị ngắt.
Với cõi lòng nặng trĩu Erica gác máy.
Patrik ầm ĩ gõ cửa ở Västergärden. Marita ra mở cửa.
“Chào chị, Marita. Chúng tôi có lệnh khám nhà chị.”
“Nhưng các anh đã khám rồi mà,” cô ta nói, có vẻ bối rối.
“Chúng tôi đã phát hiện ra vài thông tin mới. Có một nhóm đi cùng với tôi, nhưng tôi bảo họ phải chờ cách đây một đoạn cho đến khi chị có thể đưa bọn trẻ đi. Bọn trẻ không cần phải nhìn thấy cảnh sát để rồi sợ hãi.”
Cô ta im lặng gật đầu. Nỗi lo cho Jacob đã lấy hết sức lực của cô ta, cô ta không còn sức đâu mà phản đối nữa. Cô ta quay đi và đem bọn trẻ theo, nhưng Patrik ngăn cô ta lại bằng một câu hỏi.
“Có tòa nhà nào khác trên khu đất này ngoài những nơi chúng tôi đã xem không?”
Cô lắc đầu. “Không, chỉ có nhà, vựa cỏ, nhà kho chứa đồ và nhà đồ chơi. Vậy thôi.”
Patrik gật đầu và để cô ta đi.
Mười lăm phút sau ngôi nhà đã trống. Họ có thể bắt đầu lục soát. Patrik đưa ra vài hướng dẫn ngắn gọn trong phòng khách.
“Lần trước đến đây chúng ta không tìm thấy gì cả, nhưng lần này chúng ta sẽ làm việc kỹ lưỡng hơn. Tìm kiếm khắp mọi nơi, và ý tôi thực sự là ở khắp mọi nơi. Nếu các anh cần phải lật ván sàn lên hay bóc giấy dán tường, thì cứ làm. Nếu các anh cần phải phá đồ đạc thì cũng cứ làm vậy luôn đi. Hiểu chứ?”
Họ nhất loạt gật đầu. Có cảm giác rằng họ sắp làm một việc sẽ gây ra những hậu quả ghê gớm, nhưng tất cả mọi người đều đã sẵn sàng. Trước khi họ bắt đầu, Patrik đã tóm tắt ngắn gọn cho họ về những tiến triển của vụ này. Bây giờ họ chẳng muốn gì hơn là bắt đầu công việc.
Sau khi họ lục soát suốt một giờ không có kết quả, ngôi nhà trông như một vùng thảm họa. Tất cả mọi thứ đã bị xé rách và lôi ra. Nhưng vẫn không có manh mối nào cả. Patrik đang giúp tìm kiếm trong phòng khách thì Gösta và Ernst bước vào cửa và trợn mắt nhìn quanh.
“Chuyện quái gì đang xảy ra ở đây thế?” Ernst hỏi.
Patrik bỏ qua câu hỏi. “Vụ Kennedy ổn chứ?”
“Ừ, hắn thú nhận ngay mà chẳng quanh co gì, và giờ hắn đã ở sau song sắt rồi. Đúng là cái thằng nhóc mũi thò lò.”
Căng thắng, Patrik chỉ gật đầu.
“Thế chuyện gì đang xảy ra ở đây vậy? cứ như chỉ có chúng tôi là mù tịt ấy. Annika chẳng nói gì với chúng tôi cả. Cô ấy chỉ nói rằng chúng tôi phải đến đây và anh sẽ phân công việc cho chúng tôi.”
“Tôi không thể giải thích tất cả cho các anh ngay bây giờ,” Patrik sốt ruột nói. “Trong lúc này các anh chỉ cần biết rằng mọi đầu mối đều trỏ rằng Jacob chính là kẻ đã bắt cóc Jenny Möller. Chúng ta phải tìm thứ gì đó cho chúng ta biết cô bé ấy đang ở đâu.”
“Nhưng hắn không phải là kẻ giết cô gái người Đức,” Gösta nói. “Bởi vì xét nghiệm máu cho thấy…” Ông ta trông có vẻ ngơ ngác.
Patrik càng khó chịu nói, “Không, hắn có lẽ đúng là kẻ đã giết Tanja.”
“Thế thì ai giết các cô gái kia? Hồi đó hắn còn quá nhỏ…”
“Không phải hắn. Nhưng chúng ta sẽ nói chuyện đó sau. Bây giờ thì giúp bọn tôi một tay ở đây đi!”
“Chúng tôi đang tìm kiếm cái gì?” Ernst hỏi.
“Có lệnh khám nhà trên bàn bếp kìa. Cả một mô tả những thứ chúng ta cần quan tâm tìm kiếm nữa.” Rồi Patrik quay đi và tiếp tục lục lọi kệ sách.
Một giờ nữa trôi qua mà vẫn không ai tìm được thứ gì đáng quan tâm. Patrik bắt đầu nản lòng. Tưởng tượng xem nếu họ không tìm thấy gì cả. Anh đã di chuyển từ phòng khách sang phòng làm việc, vẫn chẳng có kết quả gì. Giờ anh đứng chống hông, buộc mình phải hít một vài hơi thở sâu và đảo mắt khắp phòng. Văn phòng nhỏ nhưng ngăn nắp. Kệ sách đầy những cặp tài liệu và sổ sách, tất cả đều dán nhãn gọn gàng. Không có giấy tờ nằm lung tung trên chiếc bàn lớn kiểu cổ, và trong ngăn kéo tất cả mọi thứ đều được sắp xếp theo thứ tự. Patrik lại trầm ngâm nhìn quanh văn phòng. Anh cau mày. Kiểu cổ. Chưa bao giờ bỏ lỡ một tập Antiques Roadshow trên truyền hình, suy nghĩ của anh tự nhiên hướng về những ngăn tủ bí mật khi anh nhìn vào những món đồ nội thất cũ kỹ. Lẽ ra anh phải nghĩ tới điều này từ trước. Anh bắt đầu từ bàn viết có nhiều ngăn kéo nhỏ. Anh kéo từng cái một ra và thận trọng đút ngón tay vào cái lỗ phía sau chúng. Khi đến ngăn kéo cuối cùng anh cảm thấy có gì đó. Một vật kim loại nhỏ dính vào, và nó dịch chuyến khi anh ấn lên. Với một tiếng tách, bức vách phía sau biến mất và một ngăn bí mật hiện ra. Nhịp tim của anh nhanh hơn. Bên trong, anh tìm thấy một quyển sổ cũ bằng da màu đen. Anh đi găng tay nhựa dẻo vào và cẩn thận nhấc quyển sổ ra. Càng đọc nội dung bên trong anh càng kinh hoàng. Không thể mất thêm thời gian trong việc tìm kiếm Jenny nữa.
Anh nhớ lại một tờ giấy anh đã nhìn thấy khi lục soát ngăn kéo của người thư ký. Anh mở đúng ngăn kéo đó ra và tìm thấy nó sau khi lật qua vài tài liệu khác. Dấu tem của hội đồng quản hạt ở một góc cho thấy người gửi là ai. Patrik đọc lướt vài dòng và nhìn cái tên ở phía dưới. Rồi anh lấy điện thoại ra và gọi về đồn.
“Annika, là Patrik đây. Nghe này, tôi muốn cô kiểm tra một chuyện cho tôi.” Anh giải thích ngắn gọn. “Cô nên hỏi bác sĩ Zoltán Czaba. Ở khoa ung thư, đúng vậy. Hãy gọi lại cho tôi ngay khi cô biết điều gì đó.”
Ngày tháng đã k